Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

(BÀI THẢO LUẬN) Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân và nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.93 KB, 33 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
--------0--------

BÀI THẢO LUẬN
Đề tài: "Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân và nhân tố chủ quan quan
trọng nhất để giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử đó."

Mơn học: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Giáo viên hướng dẫn: Lại Quang Mừng
Nhóm: 2
Lớp học phần: 2078HCM10121


Mục lục
A- Lời mở đầu ...................................................................................................3
B- Nội dung ....................................................................................................... 4
Phần I: Cơ sở lý luận.......................................................................................... 4
1. Khái niệm về giai cấp công nhân.............................................................. 4
2. Quan niệm của Mác về giai cấp công nhân............................................... 6
3. Đặc trưng của giai cấp công nhân............................................................ 8
4. Nội dung sứ mệnh lịch sử........................................................................ 10
5. Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.................................. 12
Phần II: Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân......................................................................................................... 14
1. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân........................................................................... 14
2. Những yếu tố chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp cơng nhân..................................................................................17
3. Tính tất yếu và quy luật hình thành, phát triển chính


đảng của giai cấp cơng nhân....................................................................19
4. Vai trị của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân..................................................22
5. Cách mạng xã hội chủ nghĩa với việc hoàn thành xứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân......................................................23
Phần III: Sứ mệnh lịch sử cụ thể của giai cấp cơng nhânViệt Nam trong q
trình phát triển cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay................25
C- Kết luận........................................................................................................28
D- Bảng đánh giá nhóm 2.................................................................................29


A - LỜI MỞ ĐẦU

Trong giai đoạn mới hiện nay, cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đang
diễn ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái trào, thời đại
ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới cịn đang có nhiều biến động, tiêu cực... thì vấn đề làm sáng
tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ
hết, cả trên hai phương diện: lý luận và thực tiễn. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là một phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học, do đó nó đã được
C.Mác -Ph.Ăngghen và Lênin nghiên cứu và phát triển hết sức hoàn thiện trong
trong quá trình phát triển của lịch sử thế giới. Xét trên phương diện lịch sử, những
nhận định và lý luận của các ông về giai cấp công nhân có tác dụng to lớn và đúng
đắn. Cịn đối với nước ta, vấn đề trên được Đảng ta rất chú trọng. Vì thế, sứ mệnh
lịch sử của giai cấp cơng nhân không chỉ thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội đại
biểu tồn quốc, mà đây cịn là một trong những đề tài nghiên cứu khoa học của
nhiều nhà lý luận, nhà nghiên cứu lịch sử, và của nhiều thế hệ công nhân, sinh viên.
Sự tác động của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ ảnh hư-ởng tới
sự chuyển biến của lịch sử thế giới là thay đổi từ hình thái kinh tế này sang hình
thái kinh tế khác, thay đổi từ chế độ kinh tế này sang chế độ kinh tế khác ... mà cịn

làm thay đổi tình hình kinh tế chính trị xã hội trên tồn thế giới, nó tác động tới q
trình sản xuất cụ thể, tới bộ mặt phát triển của thế giới. Như vậy, vấn đề đặt ra là: sứ
mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân là gì? Nội dung, điều kiện khách quan quy
định là gì? Trên phương diện lý luận và thực tiễn, nó được thể hiện ra sao? Và nhân
tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch
sử đó là gì?


B – NỘI DUNG
Phần I: Cơ sở lý luận

1. Khái niệm về giai cấp công nhân
Giai cấp công dân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng
với q trình phát triển của nền cơng nghiệp hiện đại. là giai cấp đại diện cho lực
lượng sản xuất tiên tiến, là lực lượng chủ yếu của tiến trình điện tử quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp cơng nhân
là những người khơng có hoặc về cơ bản khơng có tư liệu sản xuất phải làm thuê
cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ giai cấp
công nhân như giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện
đại, giai cấp cơng nhân đại cơng nghiệp,…
Đó là những cụm từ đồng nghĩa để chỉ giai cấp công nhân – con đẻ của nền tư
bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức
sản xuất hiện đại. Các ơng cịn dùng những thuật ngữ có nội dung hẹp hơn để chỉ
các cơng nhân trong các ngành sản xuất khác nhau, trong những giai đoạn phát triển
khác nhau của cơng nghiệp: cơng nhân khống sản, công nhân công xưởng thủ
công, công nhân công xưởng, công nhân nông nghiệp,…
Dù diễn đạt bằng những thuật ngữ khác nhau, song giai cấp công nhân được các
nhà kinh điển xác định trên hai phương diện cơ bản; kinh tế- xã hội và chính trị xã
hội.

Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, giai cấp công nhân là con đẻ của một
hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn phát
triển với những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất định.
Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô
sản, mà cịn tập hợp họ lại thành một tập đồn xã hội rộng lớn, thành giai cấp vô
sản hiện đại. Chính vì vậy, một kết luận rút ra là, giai cấp công nhân hiện đại ra đời
gắn liền với sự phát triển của đại cơng nghiệp, nó là sản phẩm của bản thân nền đại
công nghiệp và lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại cơng nghiệp đó.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai cấp
cơ bản, chủ yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư sản tước đoạt
hết tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để sống, bị bóc lột
giá trị thặng dư. Họ là những người được tự do về thân thể và có quyền bán sức lao
động tùy theo cung – cầu hàng hóa sức lao động. Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề,


bị bần cùng hóa về vật chất lẫn tinh thần. Sự tồn tại của họ phụ thuộc và quy luật
cung – cầu hàng hóa sức lao động, phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ
phải tạo ra giá trị thặng dư, nhưng giá trị thặng dư lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt.
Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai cấp vô
sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của
bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình đế sống”.
Dù giai cấp cơng nhân có bao gồm những công nhân làm những công việc khác
nhau như thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ có hai tiêu chí
cơ bản để xác định, phân biệt với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác.
- Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao
động trong nền sản xuất cơng nghiệp. Có thể họ là người lao động trực tiếp hay
gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng hiện
đại và xã hội hóa cao. Đã là cơng nhân hiện đại thì phải gắn với nền đại cơng
nghiệp, bởi vì nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại
là hạt nhân, bộ phận cơ bản của mọi tầng lớp công nhân.

- Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp cơng nhân, chúng ta phải
xem xét trong hai trường hợp sau:
+ Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp cơng nhân là những người vơ sản
hiện đại, khơng có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động cho
nhà tư bản và bị toàn thể giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư mà giai cấp
công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu chí này mà những
người công nhân dưới chủ nghĩa tư bản được gọi là giai cấp vô sản.
+ Sau cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm
quyền. Nó khơng cịn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở thành giai cấp
thống trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội
xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân cùng với toàn thể nhân dân lao động làm chủ
những tư liệu sản xuất chủ yếu đã cơng hữu hóa. Như vậy họ khơng cịn là những
người vơ sản như trước và sản phẩm thặng dư do họ tạo ra là nguồn gốc cho sự giàu
có và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp công
nhân như sau: Giai cấp công nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và
phát triển cùng với q trình phát triển của nền đại cơng nghiệp hiện đại, với nhịp
độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực
lượng lao động cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra
của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và
phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay.


2. Quan điểm của Mác về giai cấp công nhân
C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ giai cấp
công nhân như giai cấp vô sản; giai cấp vô sản hiện đại; giai cấp công nhân hiện
đại; giai cấp cơng nhân đại cơng nghiệp…
Đó là những cụm từ đồng nghĩa để chỉ: giai cấp công nhân – con đẻ của nền đại
công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến,
cho phương thức sản xuất hiện đại. Các ông cịn dùng những thuật ngữ có nội dung

hẹp hơn để chỉ các loại công nhân trong các ngành sản xuất khác nhau, trong những
giai đoạn phát triển khác nhau của cơng nghiệp: cơng nhân khống sản, cơng nhân
cơng trường thủ công, công nhân công xưởng, công nhân nông nghiệp…
Dù diễn đạt bằng những thuật ngữ khác nhau, song giai cấp công nhân được các
nhà kinh điển xác định trên hai phương diện cơ bản: kinh tế - xã hội và chính trị xã hội.
a) Giai cấp cơng dân trên phương diện kinh tế - xã hội
Thứ nhất, giai cấp công nhân với phương thức lao động công nghiệp trong nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa: đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận
hành các công cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội
hóa cao.
Mơ tả q trình phát triển của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ
rõ: trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người cơng dân sử dụng
cơng cụ của mình cịn trong cơng xưởng thì người cơng nhân phải phục vụ máy
móc. Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, công nhân công nghiệp công xưởng là bộ phận tiêu
biểu cho giai cấp công nhân hiện đại.
Các ông nhấn mạnh rằng,… “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng
với sự phát triền của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vơ sản lại là sản phẩm của bản
thân nền đại công nghiệp” và “công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới,
giống như máy móc vậy”… “cơng nhân Anh là đứa con đầu lịng của nền cơng
nghiệp hiện đại”.
Thứ hai, giai cấp cơng nhân trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đó là giai
cấp của của những người lao động khơng sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội. Họ phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị chủ tư bản bóc lột giá trị thặng
dư. Đối diện với nhà tư bản, công nhân là những người lao động tự do, với nghĩa là
tự do bán sức lao động của mình để kiếm sống. Chính điều này khiến cho giai cấp
công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản.
Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một
hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác, vì thế họ
phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường.



Mâu thuẫn cơ bản của phương thức của phương thức tư bản chủ nghĩa là mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất xã hội hóa ngày càng rộng lớn với mối quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Mâu thuẫn cơ bản này thể hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn về lợi ích giữa giai cấp
công nhân và giai cấp tư sản. Lao động sống của công nhân là nguồn gốc của giá trị
thặng dư và sự giàu có của giai cấp tư sản cũng chủ yếu nhờ vào sự bóc lột được
ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư.
Mâu thuẫn đó cho thấy tính chất đối kháng khơng thể điều hịa giữa giai cấp
cơng nhân (giai cấp vô sản) với giai cấp tư sản trong phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa và trong chế độ tư bản chủ nghĩa.
b) Giai cấp công nhân trên phương diện chính trị - xã hội
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, sự thống trị của giai cấp tư sản đặc biệt của bộ
phận tư sản đại công nghiệp là điều kiện ban đầu cho sự phát triển giai cấp cơng
nhân. “Nói chung, sự phát triển của giai cấp vô sản công nghiệp được quy định bởi
sự phát triển của giai cấp tư sản cơng nghiệp. Chỉ có dưới sự thống trị của giai cấp
này thì sự tồn tại của giai cấp vơ sản cơng nghiệp mới có được một quy mơ tồn
quốc, khiến nó có thể nâng cuộc cách mạng của nó lên thành một cuộc cách mạng
tồn quốc…”.
Nghiên cứu giai cấp cơng nhân (giai cấp vơ sản) từ phương diện kinh tế - xã hội
và chính trị - xã hội trong chủ nghĩa tư bản, Mác và Ăngghen đã không những đưa
lại quan niệm khoa học về giai cấp cơng nhân mà cịn làm sáng tỏ những đặc điểm
quan trọng của nó với tư cách là một giai cấp cách mạng có sứ mệnh lịch sử thế
giới. Có thể khái quát những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công dân bao gồm:
+ Đặc điểm nổi bật của giai cấp công dân là lao động bằng phương thức công
nghiệp với đặc trưng công cụ là máy móc, tạo ra năng suất lao động cao, q trình
lao động mang tính chất xã hội hóa.
+ Giai cấp cơng nhân là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể
của quá trình sản xuất vật chất hiện đại. Do đó, giai cấp cơng nhân là đại biểu cho
lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất tiên tiến, quyết định sự tồn

tại và phát triển của xã hội hiện đại.
+ Nền sản xuất đại công nghiệp và phương thức sản xuất tiên tiến đã rèn luyện
cho giai cấp công nhân những phẩm chất đặc biệt về tính tổ chức, kỷ luật lao động,
tinh thần hợp tác và tâm lý lao dộng công nghiệp. Dố là giai cấp cách mạng và có
tinh thàn cách mạng triệt để.
Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết để giai cấp cơng dân có
vai trị lãnh đạo cách mạng. Từ phân tích trên có thể hiểu về giai cấp công nhân
theo khái niệm sau:


Giai cấp cơng nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng
với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại; Là giai cấp đại diện cho lực
lượng sản xuất tiên tiến; Là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân
là những người khơng có hoặc về cơ bản khơng có tư liệu sản xuất phải làm thuê
cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; Ở các nước xã hội
chủ nghĩa, giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản
xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của tồn xã hội trong
đó có lợi ích chính đáng của mình.
3. Đặc trưng của giai cấp cơng nhân
Về cơ bản, có thể khái quát hai đặc trưng cơ bản của giai cấp này:
- Giai cấp cơng nhân là những tập đồn người lao động trực tiếp hay gián tiếp
vận hành những cơng cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng hiện đại, ngày
càng có trình độ xã hội hóa, quốc tế hóa cao. Đây là một đặc trưng cơ bản phân biệt
người công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ, với những người
thợ trong công trường thủ cơng. Giai cấp cơng nhân có một q trình phát triển từ
những người thợ thủ cơng thời kỳ trung cổ đến những người thợ trong công trường
thủ công và cuối cùng đến những người công nhân trong công nghiệp hiện đại.
“Trong công trường thủ công và trong nghề nghiệp thủ công, người công nhân sử
dụng công cụ của mình, cịn trong cơng xưởng thì người cơng nhân phải phụ thuộc

máy móc.”
Dưới chủ nghĩa tư bản, nền sản xuất đại cơng nghiệp ngày càng phát triển, máy
móc ngày càng nhiều, sản xuất ngày càng có năng suất cao, làm cho những người
thợ thủ công bị phá sản, những người nông dân mất việc làm buộc phải gia nhập
vào hàng ngũ cơng nhân. Vì vậy: “ Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu
vong cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vơ sản lại là sản phẩm
của bản thân nền đại công nghiệp “, “ Công nhân cũng là phát minh của thời đại
mới, giống như máy móc vậy. Cơng nhân Anh là đứa con đầu lịng của nền cơng
nghiệp hiện đại.”
- Trong xã hội tư bản chủ nghĩa người công nhân khơng có tư liệu sản xuất buộc
phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống. Mác và Ăngghen đặc biệt chú
ý phân tích đặc trưng này, vì nó chính là đặc trưng khiến cho giai cấp cơng nhân trở
thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: “
Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vơ sản, giai cấp công nhân
hiện đại - tức giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện kiếm được việc làm, và chỉ
kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát triển


theo. Những cơng nhân ấy, buộc phải tự bán mình để tự kiếm ăn từng bữa một, là
một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác, vì thế,
họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường
như nhau ”
Căn cứ vào hai đặc trưng trên, trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa
cộng sản, Ăngghen đã đưa ra định nghĩa: “ Giai cấp vơ sản là một giai cấp xã hội
hồn tồn chỉ kiếm sống bằng việc bán lao động của mình, chứ không phải sống
bằng lợi nhuận của bất cứ tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ,
sống và chết, tồn bộ sự sống cịn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức
là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến
động của cạnh tranh khơng gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai

cấp những người vô sản là giai cấp lao động trong thế kỷ 19”…” giai cấp vô sản là
do cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra…”
Phát triển học thuyết của Mác và Ăngghen trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, đặc
biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga xô viết, Lênin đã hồn thiện
thêm khái niệm giai cấp cơng nhân. Theo Ông, sự phân chia giai cấp trong xã hội
phải dựa vào địa vị khác nhau của các tập đoàn người trong quan hệ đối với tư liệu
sản xuất, trong tổ chức, quản lý sản xuất và trong phân phối sản phẩm. Qua thực
tiễn cách mạng ở Nga Lênin đã làm rõ hơn vai trị của giai cấp cơng nhân trong quá
trình lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ của chủ
nghĩa tư bản từ nửa sau thế kỷ 20, giai cấp cơng nhân hiện đại đã có một số sự thay
đổi nhất định so với trước đây.
Xét về phương thức lao động, công nhân trong thế kỷ 19 chủ yếu là lao động cơ
khí, lao động chân tay, thì nay đã xuất hiện một bộ phận công nhân của những
ngành ứng dụng cơng nghệ ở trình độ phát triển cao, do vậy, cơng nhân có trình độ
tri thức ngày càng cao. Về phương diện đời sống, công nhân ở các nước tư bản phát
triển đã có những thay đổi quan trọng: một bộ phận cơng nhân đã có một số tư liệu
sản xuất nhỏ để cùng với gia đình làm thêm trong các công đoạn phụ cho các doanh
nghiệp chính; một bộ phận nhỏ cơng nhân đã có cổ phần trong các xí nghiệp tư bản
chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong thực tế, số cổ phần và tư liệu sản xuất của giai cấp công
nhân chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, còn tuyệt đại bộ phận tư liệu sản xuất trong các
nước tư bản chủ nghĩa vẫn nằm trong tay các nhà tư bản lớn. Giai cấp công nhân về
cơ bản vẫn khơng có tư liệu sản xuất, vẫn phải bán sức lao động cho các nhà tư bản,
cả sức lao động trí óc và lao động chân tay.
4. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân


Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là nhiệm vụ mà giai cấp
cơng nhân cần phải thực hiện với tư cách là giai cấp tiên phong, là lực lượng đi đầu
trong cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

a) Nội dung kinh tế
Là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa cao, giai cấp công nhân
cũng là ddaij biểu cho quan hệ sản xuất mới, tiên tiến nhất dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất thuộc về xu
thế phát triển của lịch sử xã hội.
Vai trò chủ thể của giai cấp công nhân, trước hết là chủ thể của quá trình sản xuất
vật chất để sản xuất ra của cải vật chất ngày càng nhiều đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng của con người và xã hội. Bằng cách đó giai cấp công nhân tạo tiền đề vật chất
– kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới.
Mặt khác, tính xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất đòi hỏi một quan hệ sản
xuất mới, phù hợp với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội là
nền tảng, tiêu biểu cho lợi ích của tồn xã hội. Giai cấp cơng nhân đại biểu cho lợi
ích chung của xa hội.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân thông qua quá trình cơng
nghiệp hóa và thực hiện “một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động” để tăng năng
xuất lao động xã hội và thực hiện các nguyên tắc sở hữu, quản lý và phân phối phù
hợp với nhu cầu phát triển sản xuất, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Trên thực tế hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa lại ra đời từ phương thức phát
triển rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do đó, để thực hiện sứ mệnh lịch sử
của mình về nội dung kinh tế, giai cấp công nhân phải đóng vai trị nịng cốt trong
q trình giải phóng lực lượng sản xuất (vốn bị kìm hãm, lạc hậu, chậm phát triển
trong quá khứ), thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển để tạo cơ sở cho quan hệ sản
xuất mới, xã hội chủ nghĩa ra đời.
Cơng nghiệp hóa là một tất yếu có tính quy luật để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân
phải là lực lượng đi đầu công nghiệp hóa, cũng như hiện nay, trong bối cảnh đổi
mới và hội nhập quốc tế, yêu cầu mới đặt ra đòi hỏi phải gắn liền cơng nghiệp hóa
với hiện đại hóa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo
vệ tài nguyên, môi trường.
b) Nội dung chính trị - xã hội

Giai cấp cơng nhân cùng với nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư sản, xóa
bỏ chế độ bóc lột, áp bức của chủ nghĩa tư bản, giành quyền lực về tay giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Thiết lập nhà nước kiểu mới, mang bản chất của
giai cấp công nhân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền lực


của nhân dân, quyền dân chủ và làm chủ xã hội của tuyệt đại đa số nhân dân lao
động.
Giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình, do mình
làm chủ như một cơng cụ có hiệu lực để cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây dựng xã
hội mới, phát triển kinh tế và văn hóa, xây dựng nền chính trị dân chủ - pháp quyền,
quản lý kinh tế - xã hội và tổ chức đời sống xã hội phục vụ quyền và lợi ích của
nhân dân lao động, thực hiện dân chủ, cơng bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội theo
lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
c) Nội dung văn hóa, tư tưởng
Thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân trong tiến trình cách
mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cần
phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới: lao động, công bằng, dân chủ, bình đẳng và
tự do.
Hệ giá trị mới này là sự phủ định các giá trị tư sản mang bản chất tư sản và phục
vụ cho giai cấp tư sản; những tàn dư các giá trị đã lỗi thời, lạc hậu của các xã hội
quá khứ. Hệ giá trị mới thể hiện bản chất ưu việt của chế độ mới xã hội chủ nghĩa
sẽ từng bước phát triển và hồn thiện.
Giai cấp cơng nhân thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng bao gồm cải
tạo cái cũ lỗi thời, lạc hậu, xây dựng cái mới, tiến bộ trong lĩnh vực ý thức tư tưởng,
trong tâm lý lối sống và trong đời sống tinh thần xã hội. Xây dựng và củng cố ý
thức hệ tiên tiến của giai cấp cơng nhân, đó là chủ nghĩa Mác – Lênin, đấu tranh để
khắc phục ý thức hệ tư sản và các tàn dư cịn sót lại của các hệ tư tưởng cũ. Phát
triển văn hóa, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức và lối sống mới

xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung căn bản mà cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng đặt ra đối với sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân hiện đại.
5. Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
a) Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ những tiền đề kinh tế xã hội của sản xuất mang tính xã hội hóa với hai biểu hiện nổi bật là:
Thứ nhất, xã hội hóa sản xuất làm xuất hiện những tiền đề vật chất, thúc đẩy sự
phát triển của xã hội, thúc đẩy sự vận động của mâu thuẩn cơ bản trong lòng
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự xung đột giữa tính chất xã hội hóa của
lực lượng sản xuất với chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là
nội dung kinh tế - vật chất của mâu thuẫn cơ bản đó trong chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, q trình sản xuất mang tính xã hội hóa đã sinh ra giai cấp cơng nhân và
rèn luyện nó thành chủ đề thực hiện sứ mệnh lịch sử. Do mâu thuẫn về lợi ích cơ


bản khơng thể điều hịa giữa giai cấp vơ sản và giai cấp tư sản, nên mâu thuẫn này
trở thành động lực chính cho cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện đại.
Giải quyết mâu thuẫn cơ bản về kinh tế và chính trị trong lịng phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa là sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân. Đó là tính quy
định khách quan, yêu cầu khách quan của sự vận động, phát triển của lịch sử từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Có sự thống nhất, tác động biện chứng giữa tính quy định khách quan về sứ
mệnh lịch sử với nỗ lực chủ quan của chủ thể thực hiện sứ mệnh lịch sử đó. Giai
cấp cơng nhân ở trình độ trưởng thành trong cuộc đấu tranh giai cấp chống chủ
nghĩa tư bản, từ đấu tranh kinh tế (tự phát) đến đấu tranh tư tưởng lý luận (tự giác,
có ý thức hệ tiên tiến chủ đạo) tiến đến trình độ cao nhất là đấu tranh chính trị, có
đội tiên phonh lãnh đạo là Đảng Cộng sản… thì với tư cách chủ thể nó thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình một cách tự giác, có tổ chức, có sự liên kết với quần chúng
lao động trong dân tộc và quốc tế, với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp
cơng nhân (chủ nghĩa quốc tế vô sản).
b) Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp cách mạng

của bản thân giai cấp công nhân cùng với đông đảo quần chúng và mang lại lợi ích
cho đa số.
Đây là một cuộc cách mạng của đại đa số mưu lợi ích cho tuyệt đối đại đa số,
nhờ việc hướng tới xây dựng một xã hội mới dựa trên chế độ công hữu những tư
liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Sự thống nhất cơ bản về lợi ích của giai cấp cơng
nhân với lợi ích của nhân dân lao động tạo ra điều kiện để đặc điểm quan trọng này
về sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân được thực hiện.
Lực lượng sản xuất xã hội hóa cao, ở trình độ phát triển hiện đại và chế độ công
hữu sẽ tạo ra cơ sở kinh tế để chấm dứt vĩnh viễn chế độ người bóc lột người.
Giai cấp cơng nhân chỉ có thể tự giải phóng mình thơng qua việc đồng thời giải
phóng các giai cấp bị áp bức bóc lột khác, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Giai cấp cơng nhân thơng qua đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản sẽ thực
hiện sứ mệnh lịch sử bằng một cuộc cách mạng triệt để khơng chỉ xóa bỏ sự thống
trị áp bức của giai cấp tư bản mà cịn xây dựng thành cơng chế độ xã hội mới – xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, tiến tới một xã hội khơng cịn giai cấp. Thực
hiện cuộc cách mạn chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, để xác lập hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội) – đó là
con đường, phương thức để thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp cơng
nhân. Đó là một tiến trình lịch sử lâu dài gắn liền với vai trò, trọng trách lãnh đạo
của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.


Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đến lúc đó giai cấp
cơng nhân mới hoàn thành được sứ mệnh lịch sử thế giới của mình.
c) Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân không phải là thay thế chế độ sở hữu
tư nhân này bằng một chế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa bỏ triệt để chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất. Đối tượng xóa bỏ ở đây là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
là nguồn gốc sinh ra những áp bức, bóc lột, bất cơng trong xã hội hiện đại.
Sự xóa bỏ này hồn tồn bị quy định một cách khách quan từ trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.

d) Việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực thống trị xã hội là tiền đề để cải
tạo toàn diện, sâu sắc và triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới với
mục tiêu cao nhất là giải phóng con người.
Nếu các cuộc cách mạng trước đây, điển hình là cách mạng tư sản coi việc giành
được chính quyền là mục tiêu duy nhất để thực hiện quyền tư hữu thì cuộc cách
mạng của giai cấp cơng nhân nhằm xó bỏ tình trạng bóc lột, áp bức và nơ dịch cơn
người, xóa bỏ sự thống trị của giai cấp tư sản để thực hiện quyền làm chủ của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trong chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa. Đó là cuộc cách mạng triệt để nhất thực hiện lý tưởng và mục
tiêu của chủ nghĩa cộng sản “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển và tự do của tất cả mọi người như C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh
trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, năm 1848.
Phần II: Những yếu tố khách quan chủ quan tác động đến việc thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân

1. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lực lượng sản xuất là yếu tố động
nhất, luôn luôn vận động và phát triển. Trong lực lượng sản xuất ở bất kỳ xã hội
nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất.
a) Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lực lượng sản xuất là yếu tố động
nhất, luôn luôn vận động và phát triển. Trong lực lượng sản xuất ở bất kỳ xã hội
nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất. Trong chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội, với nền sản xuất đại cơng nghiệp ngày càng phát triển, thì "Lực lượng
sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, là người lao động".


Trong nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp
nhất, vừa là sản phẩm căn bản nhất của nền sản xuất đó. Khi sản xuất đại công

nghiệp ngày càng mở rộng, ngày càng phát triển thì "Tất cả các giai cấp khác đều
suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vơ sản
lại là sản phẩm của bản thân nên đại công nghiệp", giai cấp vô sản "được tuyển mộ
trong tất cả các giai cấp của dân cư".
Với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa "... giai cấp cơng nhân hiện đại... chỉ có thể
sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động
của họ làm tăng thêm tư bản". Từ điều kiện làm việc như vậy đã buộc giai cấp công
nhân phải không ngừng học tập vươn lên sao cho đáp ứng được yêu cầu của nền sản
xuất ngày càng hiện đại. Ngày nay, trong các nuớc tư bản phát triển, tỷ lệ sản xuất
tự động hóa ngày càng gia tăng với "văn minh tin học", "kinh tế tri thức", do vậy
đội ngũ công nhân được "tri thức hóa" cũng ngày càng gia tăng.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp cơng nhân hồn lồn khơng có hoặc có
rất ít tư liệu sản xuất, là người lao động làm thuê, "vì thế họ phải chịu hết sự may
rủi của cạnh mình, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ khác nhau". Như
vậy, trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản đối lập trực
tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản muốn duy trì chế độ tư hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, duy trì chế độ áp bức bóc lột đối với giai
cấp cơng nhân và quần chúng nhân dân lao động. Ngược lại, lợi ích cơ bản của giai
cấp cơng nhân là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, giành
lấy chính quyền về tay giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, dùng chính quyền
đó để tổ chức xây dựng xã hội mới, tiến tới một xã hội khơng cịn tình trạng áp bức
bóc lột.
Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại cơng nghiệp, có quy mơ sản
xuất ngày càng lớn, sự phụ thuộc lẫn nhau trong quá trình sản xuất ngày càng
nhiều, họ lại thường sống ở những thành phố lớn, những khu công nghiệp tập trung.
Điều kiện làm việc, điều kiện sống của giai cấp công nhân đã tạo điều kiện cho họ
có thể đồn kết chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Khả
năng này giai cấp nông dân, thợ thủ công không thể có được.
Giai cấp cơng nhân có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của đại đa số
quần chúng nhân dân lao động, do vậy tạo ra khả năng cho giai cấp này có thể đồn



kết với các giai cấp, tầng lớp lao động khác trong cuộc đấu tranh chống lại giai câp
tư sản để giải phóng mình và giải phóng tồn xã hội.
b) Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
Địa vị kinh tế - xã hội đã tạo cho giai cấp cơng nhân có những đặc điểm chính trị
- xã hội mà những giai cấp khác không thể có được, đó là những đặc điểm cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ đại biểu cho phương
thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với những thành tựu khoa học và cơng nghệ hiện
đại. Đó là giai cấp đuợc trang bị bởi một lý luận khoa học , cách mạng và luôn luôn
đi đầu trong mọi phong trào cách mạng theo mục tiêu xóa bỏ xã hội cũ lạc hậu, xây
dựng xã hội mới tiến bộ, nhờ đó có thể tập hợp được đông đảo các giai cấp, tầng
lớp khác vào phong trào cách mạng.
Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất thời
đại ngày nay.
Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản chỉ có tinh thần cách mạng trong
thời kỳ đấu tranh chống chế độ phong kiến, còn khi giai cấp này đã giành được
chính quyền thì họ quay trở lại bóc lột giai cấp cơng nhân, giai cấp nông dân, những
giai cấp đã từng kề vai sát cánh với giai cấp này trong cuộc cách mạng dân chủ tư
sản. Khác với giai cấp tư sản, giai cấp công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột, có lợi
ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Điều kiện sống, điều kiện
lao động trong chế độ tư bản chủ nghĩa đã chỉ cho họ thấy: họ chỉ có thể được giải
phóng bằng giải phóng tồn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Trong
tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là
giai cấp thật sự cách mạng...
Các tầng lớp trung đẳng là những tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công và
nông dân, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp tư sản để cứu lấy sự sống cịn của họ

với tính cách là những tầng lớp trung đẳng. Cho nên họ không cách mạng mà bảo
thủ".


Thứ ba, giai cấp cơng nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp với hệ thống sản
xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương buộc giai cấp này
phải tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động; cùng với cuộc sống đơ thị tập trung đã
tạo nên tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ cho giai cấp cơng nhân.
Tính tổ chức và kỷ luật cao của giai cấp này được tăng cường khi nó phát triển
thành một lực lượng chính trị lớn mạnh, có tổ chức: được sự giác ngộ bởi một lý
luận khoa học, cách mạng và tổ chức ra được chính đảng có nó - đảng cộng sản.
Giai cấp cơng nhân khơng có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì khơng thể giành được
thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và xây dựng chế độ xã hội
mới.
Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế. Giai
cấp tư sản khơng chỉ bóc lột giai cấp cơng nhân ở chính nước họ mà cịn bóc lột
giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất, sản xuất mang tính tồn cầu hóa. Tư bản của nước này có thể
đầu tư sang nước khác là một xu hướng khách quan. Nhiều sản phẩm không phải do
một nước sản xuất ra mà là kết quả lao động của nhiều quốc gia. Vì thế, phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân không chỉ diễn ra đơn lẻ ở từng doanh nghiệp, ở
mỗi quốc gia mà ngày càng phải có sự gắn bó giữa phong trào cơng nhân các nước,
có như vậy, phong trào cơng nhân mới có thể giành được thắng lợi. V.I.Lẽnin chỉ rõ:
"... khơng có sự ủng hộ của cách mạng quốc tế của thế giới thì thắng lợi của cách
mạng vơ sản là khơng thể có được", "Tư bản là một lực lượng quốc tế. Muốn thắng
nó, cần phải có sự liên minh quốc tế".
2. Những điều kiện chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, song,
để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thơng qua những nhân tố
chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra đảng cộng sản trung
thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là yếu tố quyết định nhất đảm
bảo cho giai cấp cơng nhân có thể hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình.


Ngay từ khi mới hình thành trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bản thân giai cấp công
nhân đã không ngừng hoạt động và trưởng thành từng bước về số lượng và chất
lượng:
Về số lượng chẳng những ngày càng tăng lên rất rõ rệt ở tất cả các nước, kể cả
trong “kinh tế tri thức” hiện nay, mà còn đa dạng hơn về cơ cấu các loại công nhân
với nhiều ngành nghề ngày càng phong phú, phát triển, tinh vi hơn.Theo Tổ chức
lao động Quốc tế (ILO) thì: từ năm 1900, tồn thế giới có 80 triệu cơng nhân; đến
năm 1990, thế giới đã có hơn 600 triệu cơng nhân và đến 1998 đã có 800 triệu cơng
nhân…
Về chất lượng, bản thân giai cấp cơng nhân ln có sự nâng cao về học vấn, về
khoa học công nghệ và tay nghề; từ hoạt động kinh tế, đấu tranh kinh tế trước mắt,
đã từng bước hoạt động chính trị, đấu tranh chính trị, thơng qua các tổ chức nghiệp
đồn, cơng đồn, từng bước có ý thức giai cấp, giác ngộ giai cấp và cao nhất là dẫn
đến hình thành đảng tiên phong là đảng cộng sản. Khi đó, theo chủ nghĩa MácLênin, giai cấp công nhân đã từ chỗ là “giai cấp tự nó” (tức là chưa có ý thức giác
ngộ giai cấp) đến chỗ là “giai cấp vì nó” (tức giai cấp tự giác).
Vì thế, giai cấp cơng nhân trở thành cơ sở chính trị căn bản nhất của đảng cộng
sản.
Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển đảng của giai cấp công nhân:
Chỉ khi nào giai cấp cơng nhân đạt tới trình độ tự giác bằng việc tiếp thu lý luận
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin thì phong trào cách mạng của nó
mới thật sự là một phong trào chính trị. Trình độ lý luận đó cho phép giai cấp cơng
nhân nhận thức được vị trí, vai trị của mình trong xã hội, nguồn gốc tạo nên sức
mạnh và biết tạo nên sức mạnh đó bằng sự đồn kết, nhận rõ mục tiêu, con đường

và những biện pháp giải phóng giai cấp mình, giải phóng cả xã hội và giải phóng
nhân loại.
Phải có chủ nghĩa Mác soi sáng, giai cấp công nhân mới đạt tới trình độ nhận
thức lý luận về vai trị lịch sử của mình. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào
phong trào cơng nhân dẫn đến sự hình thành chính đảng của giai cấp công nhân.
V.I. Lênin chỉ ra rằng, đảng là sự kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa xã
hội khoa học. Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại
được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện không gian và


thời gian. ở nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa, chủ nghĩa Mác thường kết hợp với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước thành lập ra đảng cộng sản.
Từ thực tiễn lịch sử ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác –
Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc
thành lập Đảng Cộng sản Đơng Dương vào đầu năm 1930.
Chỉ có đảng cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự
phát sang đấu tranh tự giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp tự giác và
thực sự cách mạng. C. Mác đã nhấn mạnh rằng, trong cuộc đấu tranh của mình
chống lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp vơ sản
tự mình tổ chức được thành một chính đảng độc lập của mình chống lại quyền lực
liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp vơ sản tự mình tổ chức được
thành một đảng độc lập với tất cả mọi chính đảng cũ do giai cấp hữu sản lập ra thì
mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp được.
Mối quan hệ giữa đảng cộng sản với giai cấp công nhân:
Đảng chính trị là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của
tồn thể giai cấp. Đối với giai cấp cơng nhân đó là đảng cộng sản, chẳng những đại
biểu cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp cơng nhân mà cịn đại biểu cho toàn thể nhân
dân lao động và dân tộc.
Cho nên phải có một đảng chính trị vững vàng, kiên định và sáng suốt, có đường
lối chiến lược và sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của tồn giai cấp và tồn bộ

phong trào để giai cấp cơng nhân có thể hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội – giai cấp của đảng, là nguồn bổ sung lực
lượng của đảng, đảng là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp, là
biểu hiện tập trung lợi ích, nguyện vọng, phẩm chất, trí tuệ của giai cấp cơng nhân
và của dân tộc. Giữa đảng với giai cấp công nhân có mối liên hệ hữu cơ, khơng thể
tách rời. Những đảng viên của đảng cộng sản có thể khơng phải là công nhân nhưng
phải là người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập
trường của giai cấp này.
Với một đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của đảng chính là sự lãnh đạo
của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhưng đảng có trình độ lý luận và tổ
chức cao nhất để lãnh đạo cả giai cấp và dân tộc; vì thế khơng thể lẫn lộn Đảng với


giai cấp. Đảng đem lại giác ngộ cho toàn bộ giai cấp, sức mạnh đồn kết, nghị lực
cách mạng, trí tuệ và hành động cách mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ sở đó lơi
cuốn tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác và cả dân tộc đứng lên hành động
theo đường lối của đảng nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Để giai cấp
cơng nhân hồn thành sứ mệnh của mình, giai cấp cơng nhân cũng như mỗi người
công nhân cần thường xuyên phấn đấu vươn lên, trưởng thành về các mặt: tư tưởng,
chính trị, lập trường giai cấp, văn hoá, khoa học kỹ thuật,tay nghề… Các tổ
chức nghiệp đồn, cơng đồn, thường xun phát triển vững mạnh… cùng với q
trình phát triển khơng ngừng của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, v.v..
3. Tính tất yếu và quy luật hình thành, phát triền chính đảng của giai cấp
cơng nhân.
Tự bản thân mình, giai cấp công nhân không thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là khách quan, song để biến khả năng
khách quan thành hiện thực thì phải thơng qua những nhân tố chủ quan. Trong
những nhân tố ấy, việc thành lập Đảng Cộng sản với lý luận tiên phong, trung thành
với sự nghiệp, lợi ích giai cấp là nhân tố quyết định đảm bảo cho việc thực hiện sứ
mệnh lịch sử thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng

sản.
a) Khái niệm Đảng Cộng sản:
Đảng Cộng sản là chính đảng của giai cấp cơng nhân. Nó là đội tiên phong, bộ
tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành
cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng
Cộng sản bao gồm những bộ phận tiên tiến của giai cấp công nhân và các tầng lớp
nhân dân lao động. Đảng Cộng sản lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên
tắc tổ chức cơ bản của mình.
Như vậy, Đảng Cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân, không tách rời với
giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
b) Tính tất yếu ra đời Đảng Cộng sản:


Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào cơng nhân dẫn đến sự hình
thành chính đảng của giai cấp công nhân. V. I. Lênin chỉ ra rằng, Đảng Cộng sản là
sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được thực hiện
bằng những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời gian. Ở
nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa thì Đảng Cộng sản ra đời là kết quả của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Đảng Cộng sản ra đời đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của phong trào công nhân
từ tự phát lên tự giác, cuộc đấu tranh vì lợi ích kinh tế trong giới hạn của chủ nghĩa
tư bản cho phép chuyển sang cuộc đấu tranh chính trị nhằm lật đổ giai cấp tư sản,
xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
c) Vai trò của Đảng Cộng sản:
Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định trước tiên trong việc thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp cơng nhân.
Trong lịch sử chưa có giai cấp nào giành được địa vị thống trị, giữ vai trị lãnh
đạo xã hội mà khơng tạo ra được trong hàng ngũ của mình một đảng chính trị, lực

lượng tiên phong để lãnh đạo toàn bộ cuộc đấu tranh. Trong cuộc đấu tranh chống
giai cấp tư sản, chừng nào và chỉ khi nào giai cấp công nhân tự tổ chức ra chính
đảng của mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh thì mới đảm bảo giành được thắng lợi
trọn vẹn, hồn thành được sứ mệnh lịch sử của mình. Nếu khơng có chính đảng
lãnh đạo, giai cấp cơng nhân chỉ có thể đấu tranh tự phát , đấu tranh vì mục đích
kinh tế, chứ khơng phải là cuộc đấu tranh tự giác, đấu tranh vì mục đích chính trị.
Chính vì vậy, Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đảm bảo cho giai cấp
cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Với một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhưng Đảng có trình
độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân. Để làm trịn vai trị đó, Đảng
Cộng sản phải là một đảng kiểu mới, một đảng mácxít – lêninnít.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03 – 02 – 1930. Do hoàn cảnh của Việt
Nam là một nươc thuộc địa nửa phong kiến, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản


phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước ở nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem yếu tố tự giác vào phong
trào công nhân, làm cho phong trào cách mạng nước ta có một bước nhảy vọt về
chất, lên một tầm cao mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập
trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, lấy sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm mục đích tối cao của mình.
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện vai trò lãnh đạo,
tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân tộc trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối chiến

lược, sách lược, phương pháp cách mạng và lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn
thành từng mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trong cả nước và đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề xướng và lãnh đạo công
cuộc đổi mới đất nước nhằm tạo ra bước ngoặt lịch sử, đưa đất nước thốt khỏi tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, xây dựng nước ta theo mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Để đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi, để đảm đương được vai trò lãnh đạo,
Đảng Cộng sản Việt Nam coi việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng và nâng cao năng
lực lãnh đạo là yêu cầu quan trọng hàng đầu, đảm bảo cho Đảng luôn luôn ngang
tầm nhiệm vụ cách mạng. “Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng
lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đảm bảo đầy
đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình,
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành vi chia rẽ, bè
phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất,
năng lực, có sức chiến đấu cao. Đảng quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế
tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân”.
4. Vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân


Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp
này quy định, nhưng để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thơng
qua nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân. Trong những nhân tố chủ quan đó thì
việc thành lập đảng cộng sản, một đảng trung thành với lợi ích của giai cấp cơng
nhân, của dân tộc, vững mạnh về chính trị, tư tuởng và tổ chức là nhân tố giữ vai trò
quyết định nhất bảo đảm cho giai cấp cơng nhân hồn thành được sứ mệnh lịch sử
của mình.
Tính tất yếu của sự hình thành, phát triển chính đảng của giai cấp cơng nhân

Trong thực tế lịch sử, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai
cấp tư sản đã nổ ra ngay từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển, theo quy
luật có áp bức có đấu tranh. Mặc dù phong trào cơng nhân có thể phát triển về số
lượng, quy mơ cuộc đấu tranh có thể được mở rộng nhưng cuối cùng đều bị thất bại
vì thiếu một lý luận khoa học và cách mạng soi đường. Chỉ khi nào giai cấp cơng
nhân đạt đến trình độ tự giác bằng cách tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng thì
lúc đó phong trào đấu tranh của giai cấp này mới thật sự là phong trào mang tính
chất chính trị. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ khi đi vào phong trào công
nhân mới được biến thành sức mạnh vật chất để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây
dựng xã hội mới. Như vậy, đảng cộng sản là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân.
Khi đảng cộng sản ra đời, thông qua sự lãnh đạo của đảng, giai cấp cơng nhân
nhận thức được vai trị, vị trí của mình trong xã hội, hiểu được con đường, biện
pháp đấu tranh cách mạng, từ đó tập hợp được đơng đảo quần chúng nhân dân lao
động, thực hiện việc lật đổ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp mình, giải phóng
tồn xã hội và tổ chức xây dựng xã hội mới về mọi mặt.
Đảng cộng sản muốn hoàn thành vai trị lãnh đạo cách mạng thì trước hết phả
ln luôn chăm lo xây dựng về tư tưởng và tổ chức, phải ln ln làm cho đảng
vững mạnh về chính trị, khơng ngừng nâng cao về trí tuệ, gắn bó với quần chúng
nhân dân, có năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn.
Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đảng viên là những người được trang bị lý luận, nắm được quan điểm, đường lối
của đảng, do vậy "họ hơn bộ phận cịn lại của giai cấp vơ sản ở chỗ là họ hiểu rõ
những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản" . Cán bộ, đảng
viên phải tuyên truyền phổ biến quan điểm, đường lối của đảng tới các tầng lớp


nhân dân làm cho quần chúng nhân dân hiểu và phải bằng hành động gương mẫu
của mình để tập hợp, lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các phong trào cách mạng.
Đảng cộng sản có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp cơng

nhân và quần chúng nhân dân lao động, vì thế đảng có thể thực hiện giác ngộ quần
chúng nhân dân, đưa họ tham gia các phong trào cách mạng. Có tập hợp được quần
chúng nhân dân, huy động được quần chúng tham gia các phong trào cách mạng thì
những chủ trương, đường lối của đảng mới được thực hiện và khi đó đảng mới có
sức mạnh, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mới thực hiện được.
Đảng cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và cả dân tộc.
Khi nói tới vai trị tham mưu chiến đầu của đảng là muốn nói tới vai trị đưa ra
những quyết định của đảng, nhất là trong những thời điểm lịch sử quan trọng.
Những quyết định đúng đắn sẽ tạo điều kiện đưa phong trào cách mạng tiên lên,
ngược lại có thể gây ra những tổn thất cho cách mạng. Sở dĩ đảng cộng sản trở
thành đội tham mưu chiến đấu của giai cấp cơng nhân vì đảng bao gồm những
người tiên tiến trong giai cấp công nhân, được trang bị lý luận khoa học, cách mạng
và là những người được tôi luyện từ trong thực tiễn phong trào cách mạng.
5. Cách mạng xã hội chủ nghĩa với việc hồn thành sứ mệnh lịch sử của giai
cấp cơng nhân
Trong thời đại xã hội nào, những người lao động sản xuất trong các ngành sản
xuất công nghiệp, dịch vụ cơng nghiệp hay những người cơng nhân đều có vai trị
sáng tạo chân chính ra lịch sử và là những người giữ vai trị quyết định sáng tạo
cơng cụ sản xuất, gía trị thặng dư và chính trị xã hội. Chủ nghĩa xã hội khoa học là
một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác - Lênin đã nghiên cứu một cách
tồn diện về các quy luật chính trị xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát
triển của các hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong đó, chủ nghĩa xã
hội khoa học đã tập chung nghiên cưú những nguyên tắc căn bản, những điều kiện,
con đường, hình thức, phương pháp đấu tranh của giai cấp công nhân để thực hiện
chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội. Từ vai trị to lớn của giai
cấp cơng nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân có ý nghĩa
quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn. Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên xô, nhiều người đã bộc lộ sự dao động và hoài
nghi về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Bọn cơ hội xét lại và các thế lực
chống cộng có cơ hội mới để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vai



trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn mới hiện nay,
công cuộc công nghiệp hố, hiện đại hố đang diễn ra trên tồn thế giới, chủ nghĩa
xã hội đang ở trong thời kỳ thoái trào, thời đại ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi tồn thế giới cịn đang có
nhiều biến động, tiêu cực. thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân được đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương diện: lý luận
và thực tiễn. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một phạm trù cơ bản nhất
của chủ nghĩa xã hội khoa học, do đó nó đã được C.Mác - Ph.Ăngghen và Lênin
nghiên cứu và phát triển hết sức hoàn thiện trong trong quá trình phát triển của lịch
sử thế giới. Xét trên phương diện lịch sử, những nhận định và lý luận của các ơng
về giai cấp cơng nhân có tác dụng to lớn và đúng đắn.Còn đối với nước ta, vấn đề
trên được Đảng ta rất chú trọng. Vì thế, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
không chỉ thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc, mà đây cịn là
một trong những đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà lý luận, nhà nghiên cứu
lịch sử, và của nhiều thế hệ công nhân, sinh viên.


Phần III: Sứ mệnh lịch sử cụ thể của giai cấp cơng nhân Việt Nam trong q trình
phát triển cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay

Trong những năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã có những bước phát
triển tích cực, mạnh mẽ, đang tăng nhanh về số lượng, ngày càng đa dạng về cơ
cấu, đồng thời chất lượng đội ngũ được nâng lên, đã xuất hiện bộ phận cơng nhân
trí thức. Cùng với các giai cấp, giai tầng xã hội khác trong khối đại đồn kết tồn
dân tộc, giai cấp cơng nhân đã có đóng góp to lớn vào q trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Về mặt sản xuất, giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu, có vai trị to
lớn trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù về số lượng giai cấp công nhân ở nước ta
chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số dân cư (khoảng 13%) nhưng nắm giữ những cơ

sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định phương
hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế. giai cấp công nhân là lực lượng lao động
đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà nước. Hằng năm giai cấp cơng nhân đóng
góp khoảng 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm hơn 60% ngân sách nhà nước.
Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là nhân tố quan trọng để đưa công cuộc đổi
mới đi vào chiều sâu, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết
Hội nghị Trung Ưowng lần thứ 6 (khóa X) khẳng định: "Giai cấp cơng nhân nước ta
có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong
là Ðảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến;
giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nịng cốt trong liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của
Ðảng".
Mục tiêu phấn đấu của chúng ta đến năm 2020 là đưa Việt Nam cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong thời gian từ nay đến mốc thời
gian đó, kinh tế thế giới chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức, tốc độ tăng trưởng
kinh tế sẽ cao, khoảng cách giữa các nước giàu và nghèo sẽ ngày càng gia tăng. Do
vậy, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đất nước phải đẩy mạnh hơn,
cơng nghiệp hố phải gắn với kinh tế tri thức để rút ngắn thời gian, bảo đảm kinh tế
phát triển bền vững, môi trường được bảo vệ, an sinh xã hội được tăng cường, xã
hội phát triển hài hịa, nguồn nhân lực ngày càng có chất lượng, trình độ cao. Trong


×