Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Phát triển hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng TMCP việt nam thịnh vượng VPBank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (939.13 KB, 84 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, môi trường kinh tế Việt Nam đã có những biến
chuyển tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động ngân hàng ngày
càng phát triển. Các giao dịch kinh tế ngày càng phát triển không chỉ ở trong
nước mà còn vượt ra khỏi lãnh thổ của một quốc gia, khi người mua và người
bán gặp phải những vấn đề khác biệt và phức tạp về không thời gian, về kinh
tế và xã hội… gây nên những rủi ro cho các thương vụ mua bán. Chẳng hạn
như trong hợp đồng mua bán, rủi ro sẽ xảy ra với người mua nếu như người
bán không giao hàng sau khi hợp đồng đã được ký hay sự mất khả năng thanh
toán của người mua. Để đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho việc hạn chế
những rủi ro này, hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng thương mại đã ra đời đứng dưới góc độ của bên thứ 3 cam kết và bồi thường thiệt hại cho các bên
tham gia hợp đồng. Xuất phát từ tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn của vấn
đề này, trong thời gian thực tập tại VPBank, em đã tìm hiểu và nhận thấy hoạt
động bảo lãnh ngân hàng vẫn là một hoạt động mới mẻ và cịn có rất nhiều
vấn đề để đào sâu nghiên cứu nên em đã chọn và phân tích chuyên đề “Phát
triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng
VPBank”.
2. Mục đích nghiên cứu

- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận, nội dung và những vấn đề cơ bản về hoạt
động bảo lãnh ngân hàng.

- Đánh giá thực trạng thực hiện hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng.

- Đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển hoạt động bảo lãnh
ngân hàng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu



Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng
TMCP Việt Nam Thịnh Vượng.
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề: Em tập trung nghiên cứu về hoạt động
bảo lãnh tại NHTM, đứng trên góc độ của Ngân hàng khi nghiên cứu về hoạt
động bảo lãnh ngân hàng tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng trong
khoảng thời gian 3 năm từ năm 2016 đến năm 2018.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chuyên đề được thực hiện trên cơ sở phương pháp thống kê, tổng hợp
phân tích và so sánh kết hợp lý luận với thực tiễn gắn với quan điểm duy
vật biện chứng của chủ nghĩa Mac- Lênin.
5. Kết cấu của chuyên đề
Chuyên đề được chia thành 3 chương:
 Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động bảo lãnh của ngân hàng
thương mại.
 Chương 2: Thực trạng phát triển hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng
TMCP Việt Nam Thịnh Vương.
 Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động bảo lãnh ngân
hàng tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng.


CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO LÃNH CỦA NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI.

1.1.

Những vấn đề cơ bản của hoạt động bảo lãnh NHTM.

1.1.1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng

- Khái niệm bảo lãnh.

Trong pháp luật dân sự ở nước ta, khái niệm bảo lãnh được quy định cụ
thể tại Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 như sau:
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây được gọi là bên bảo lãnh) cam kết với
bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn
thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện được hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ
phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên
được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

- Khái niệm bảo lãnh ngân hàng.
Theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam 2010 có quy định: “Bảo lãnh
ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên
nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay
cho khách hàng khi khách hàng khơng thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín
dụng theo thỏa thuận”.

Theo Thơng tư số 07/2015/TT-NHNN ngày 25/06 /2015 quy định về
bảo lãnh ngân hàng như sau: “Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng,
theo đó bên bảo lãnh cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo
lãnh; bên được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả cho bên bảo lãnh”.


Như vậy một giao dịch bảo lãnh ngân hàng bao giờ cũng liên quan đến
ít nhất ba bên tham gia: bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo

lãnh.

Theo GS. Đinh Xuân Trình (2012) Các bên tham gia bảo lãnh được giới thiệu
như sau:
“Bên bảo lãnh - The Guarantor: Là bên phát hành thư bảo lãnh (ngân
hàng) theo yêu cầu của khách hàng và thường là các Ngân hàng Thương mại
được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng, dùng uy tín và
năng lực tài chính của mình để đứng ra cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng nếu khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Bên được bảo lãnh – The Principal: Là bên đề nghị Ngân hàng phát
hành thư bảo lãnh và là khách hàng của ngân hàng. Bên được bảo lãnh là các
cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện được ngân hàng bảo lãnh và cam kết thực
hiện thay nghĩa vụ khi vi phạm hợp đồng với đối tác của mình.
Bên nhận bảo lãnh - The Beneficiary: Là bên được Ngân hàng bồi
thường khi bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng. bên nhận bảo lãnh là các cá
nhân, tổ chức trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng các cam kết bảo lãnh
của tổ chức tín dụng.
Ngồi ra, hoạt động bảo lãnh ngân hàng có thể có các bên liên quan
khác như: bên bảo lãnh đối ứng, bên xác nhận bảo lãnh, các bên đồng bảo
lãnh, bên bảo đảm cho nghĩa vụ của bên được bảo lãnh…”( GS.Đinh Xuân

Trình, 2012, tr195)


Bên bảo lãnh

Bên được
bảo lãnh

(1)


Bên nhận
bảo lãnh

Hình 1.1: Mối quan hệ giữa các bên trong bảo lãnh
(Nguồn: Trích từ [11], tr.444)
Trong đó:
(1) : Biểu thị mối quan hệ gốc giữa các bên được bảo lãnh và bên nhận bảo
lãnh được thể hiện bằng một hợp đồng gốc (underlying contract)
(2) : Biểu thị mối quan hệ giữa bên được bảo lãnh với Bên bảo lãnh là
Ngân hàng. Bên được bảo lãnh gửi đơn yêu cầu Ngân hàng phát hành
thư bảo lãnh cho bên nhận.
(3) : Biểu thị mối quan hệ giữa Ngân hàng và bên nhận bảo lãnh. Ngân
hàng Bảo lãnh phát hành thư bảo lãnh tới bên nhận bảo lãnh. Bên nhận
bảo lãnh được bồi thường theo thư bảo lãnh từ Ngân hàng nếu bên
được bảo lãnh vi phạm theo hợp đồng gốc.
(GS.TS. Nguyễn Văn Tiến và TS.Nguyễn Thị Hồng Hải, 2015, tr.444)

1.1.2. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
 Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập tương đối.
“Đây chính là đặc điểm nổi bật của hoạt động bảo lãnh – tính độc lập
và tách biệt riêng với các quan hệ thương mại hay hợp đồng gốc. Mặc dù cơ
sở để ngân hàng phát hành bảo lãnh là dựa vào nội dung của hợp đồng thương
mại giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh nhưng một khi đã được
phát hành thì cam kết bảo lãnh lại độc lập và tách rời khỏi cơ sở hình thành
nó. Mục đích của bảo lãnh ngân hàng là phịng ngừa rủi ro và bồi thường tổn


thất cho bên nhận bảo và việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh không phụ thuộc
vào bất kỳ yếu tố nào ngồi giao dịch bảo lãnh. Sở dĩ nói tính độc lập của bảo
lãnh ngân hàng là tương đối bởi vì tùy từng trường hợp mà tính độc lập có thể

cao hoặc thấp, nó phụ thuộc vào điều kiện đi kèm.”
(GS.TS. Nguyễn Văn Tiến và TS. Nguyễn Thị Hồng Hải, 2015, tr.444)
 Bảo lãnh ngân hàng là hình thức tài trợ thơng qua uy tín và là một hoạt
động ngoại bảng.
Bản chất bảo lãnh ngân hàng là một hình thức tài trợ bằng uy tín của
ngân hàng đối với khách hàng. Trong hoạt động bảo lãnh, các giao dịch giữa
bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh được thực hiện là nhờ có sự cam kết
của ngân hàng sẽ bồi thường cho bên nhận bảo lãnh nếu bên được bảo l ãnh vi
phạm hợp đồng. Với việc thực hiện bảo lãnh, ngân hàng đã tạo ra sự đảm bảo
chắc chắn cho bên nhận bảo lãnh thơng qua uy tín của chính ngân hàng đồng
thời cũng tạo điều kiện cho bên được bảo lãnh ký hợp đồng với bên nhận bảo
lãnh một cách thuận lợi hơn nhờ sự đảm bảo về uy tín của ngân hàng khi hai
bên chưa thực sự tin tưởng lẫn nhau.
Khi tiến hành cam kết thì ngân hàng chưa phải xuất quỹ tiền ngay nên
không làm ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn vốn và tài sản của ngân hàng nên nó
được coi như là một hoạt động ngoại bảng. Tuy nhiên khi có rủi ro xảy ra thì
ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh và lúc này
ngân hàng phải thực sự xuất quỹ ra và nó trở thành một khoản cho vay thật sự
đối với bên được bảo lãnh và khơng được theo dõi ở ngoại bảng.
Ngồi ra Bảo lãnh Ngân hàng có một số đặc điểm như: Giao dịch bằng
chứng từ và chỉ dựa trên chứng từ, Bảo lãnh ngân hàng là mối quan hệ nhiều
bên, phụ thuộc lẫn nhau…


1.1.3. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng.
Các tác giả trong cuốn Giáo Trình Thanh Tốn Quốc Tế & Tài Trợ Ngoại
Thương đã chỉ các chức năng của bảo lãnh ngân hàng như: Chức năng pháp
lý, Chức năng thúc đẩy, Chức năng bồi thường, Công cụ tài trợ.
 Chức năng pháp lý.
“Theo yêu cầu của bên người bán, NH phát hành thư bảo lãnh cho người

mua hưởng, điều này hàm ý người bán đã thừa nhận nghĩa vụ thực hiện hợp
đồng của mình.”
 Bảo lãnh ngân hàng được sử dụng như một công cụ tài trợ.
Không chỉ là công cụ đảm bảo đối với bên nhận bảo lãnh, bảo lãnh
ngân hàng cịn là cơng cụ tài trợ thực sự về mặt tài chính cho người được bảo
lãnh. Trong nhiều trường hợp, nhờ có bảo lãnh ngân hàng mà người được bảo
lãnh không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh chóng, được vay nợ, hoặc
được kéo dài thời gian thanh tốn tiền hàng hóa, dịch vụ... Như vậy, mặc dù
khơng trực tiếp cấp vốn nhưng với việc phát hành bảo lãnh, ngân hàng đã
giúp khách hàng của họ được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như khi
được cho vay thật sự. Với ý nghĩa này, bảo lãnh ngân hàng được coi là một
trong những dịch vụ ngân hàng có ý nghĩa quan trọng, đáp ứng kịp thời các
yêu cầu phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, làm giảm bớt căng thẳng
về nguồn vốn hoạt đọng của các doanh nghiệp.
 Bảo lãnh được sử dụng như một công cụ để đơn đốc hồn thành hợp
đồng.
“Khi người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng đã cam kết thì người nhận
bảo lãnh sẽ có quyền yêu cầu ngân hàng bảo lãnh thanh toán bất cứ khi nào
trong suốt thời gian hiệu lực của bảo lãnh và ngân hàng có quyền địi lại
khoản tiền này từ người được bảo lãnh.”
Vì vậy, về phía ngân hàng bảo lãnh, do ln chịu áp lực của việc bồi
hồn bảo lãnh, cộng với uy tín của ngân hàng có thể bị ảnh hưởng nên ngân
hàng sẽ thường xuyên kiểm tra, giảm sát, đốc thúc bên được bảo lãnh thực


hiện hợp đồng đã kí kết. Cịn về phía người được bảo lãnh luôn bị áp lực của
việc phải bồi hoàn bảo lãnh nếu họ vi phạm hợp đồng dẫn đến người bảo lãnh
phải trả thay, khi đó lãi suất áp dụng đối với khoản nhận nợ bên bảo lãnh ln
cao hơn lãi suất cho vay thơng thường. Từ đó mà bảo lãnh ngân hàng đã tạo
ra mối liên kết trách nhiệm tài chính và sản sẻ rủi ro giữa các bên tham gia

bảo lãnh. (GS. TS. Nguyễn Văn Tiến và TS. Nguyễn Thị Hồng Hải, 2015,

tr.449-450)
1.1.4. Phân loại bảo lãnh ngân hàng.

1.1.4.1. Phân loại theo hình thức sử dụng.
 Bảo lãnh vô điều kiện (Unconditional Guarantee)
Đây là loại bảo lãnh trong đó việc thanh tốn sẽ được thực hiện ngay sau
khi ngân hàng nhận được yêu cầu đầu tiên của người thụ hưởng và xem đó là
một lệnh thanh tốn khơng địi hỏi phải có chứng từ kèm theo. Loại bảo lãnh
này có tính độc lập cao nhất với các giao dịch khác kể cả hợp đồng cơ sở mà
theo đó nó được phát hành. Người bảo lãnh khơng được viện dẫn bất cứ lý do
gì để từ chối thanh toán. Loại bảo lãnh này được sử dụng rất phổ biến vì sự
thuận tiện và lợi thế cho phía người hưởng và phù hợp với tập quán, thông lệ
giao dịch của ngân hàng thương mại trên thế giới.
 Bảo lãnh có điều kiện (Conditional guarantee)
Đây là loại bảo lãnh mà “người thụ hưởng, nếu muốn được trả tiền phải
xuất trình chứng từ của phía thứ ba hoặc của Tồ án để chứng minh sự vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng của đối tác. Loại bảo lãnh này gây ra sự chậm trễ
trong thanh toán trả bồi thường cho người thụ hưởng”. Do kém linh hoạt và
không hợp với thông lệ giao dịch ngân hàng nên bảo lãnh có điều kiện ít được
sử dụng trong nghiệp vụ ngân hàng thương mại.( Đinh Xuân Trình, 2012,

tr.198)
1.1.4.2. Phân loại theo phương thức phát hành thư bảo lãnh.
 Bảo lãnh trực tiếp (Direct Guarantee)


Bảo lãnh trực tiếp là bảo lãnh trong đó ngân hàng bảo lãnh chịu trách
nhiệm phát hành bảo lãnh trực tiếp theo yêu cầu của bên được bảo lãnh. Bảo

lãnh trực tiếp thơng thường có ba bên tham gia: ngân hàng phát hàng bảo
lãnh, bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh. Tuy nhiên, trong trường hợp bên
nhận 11 bảo lãnh là người nước ngồi thì có thể có thêm ngân hàng ở cùng
quốc gia với bên nhận bảo lãnh đóng vai trị là ngân hàng thơng báo thư bảo

lãnh.

Bên bảo lãnh

(4)

NH Bảo lãnh

(3)
(2)

Bên được bảo
lãnh

(4)

(1)

Bên nhận bảo
lãnh

Hình 1.2: Sơ đồ Bảo lãnh trực tiếp
(Nguồn : Trích từ [11], tr.450)
Quy trình bảo lãnh trực tiếp:


(1) Bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thỏa thuận, kí kết hợp đồng
gốc.

(2) Bên được bảo lãnh đề nghị ngân hàng phục vụ mình phát hành bảo
lãnh cho bên nhận bảo lãnh (bên thụ hưởng)

(3) Trường hợp khơng có ngân hàng đại lý, ngân hàng bảo lãnh phát
hành bảo lãnh và chuyển trực tiếp cho bên nhận bảo lãnh.

(4) Trường hợp có ngân hàng đại lý, ngân hàng phát hành bảo lãnh và
chuyển cho bên nhận bảo lãnh thông qua ngân hàng thông báo.


 Bảo lãnh gián tiếp (Indirect Guarantee)
Bảo lãnh gián tiếp hay còn gọi là bảo lãnh đối ứng là một loại bảo lãnh
trong đó bên được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình (Ngân hàng chỉ
thị - Istrucing Bank) đề nghị một ngân hàng khác (Ngân hàng bảo lãnh –
Issuing Bank) phát hành thư bảo lãnh chuyển cho người thụ hưởng. Như vậy,
bảo lãnh gián tiếp có ít nhất hai ngân hàng tham gia: Ngân hàng phát hành
bảo lãnh và Ngân hàng chỉ thị. Ngồi ra, có thể xuất hiện thêm một ngân hàng
giữ vai trị thơng báo với bên nhận bảo lãnh.

(3)

Ngân hàng chỉ thị

Ngân hàng thông báo

(2)


Bên được bảo lãnh

(4)

(1)

Bên nhận bảo lãnh

Hình 1.3: Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp
(Nguồn : Trích từ [11], tr.452)
Quy trình bảo lãnh gián tiếp:
(1) Bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thỏa thuận, kí kết hợp đồng gốc
(2) Bên được bảo lãnh đề nghị ngân hàng phục vụ mình (Ngân hàng chỉ thị)
chỉ thị cho ngân hàng đại lý phát hành thư bảo lãnh và chuyển cho người thụ
hưởng
(3) Ngân hàng chỉ thị phát hành bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng thứ hai
(4) Ngân hàng thứ hai phát hành bảo lãnh cho bên người nhận bảo lãnh.
 Bảo lãnh được xác nhận


Bảo lãnh được xác nhận là việc xác nhận của một ngân hàng đối với một
bảo lãnh của một ngân hàng khác phát hành để xác nhận lại tính bảo đảm của
bảo lãnh.

(3)
Ngân hàng phát
hành

Ngân hàng xác nhận


(2)

(1)

Bên được bảo lãnh

(4)

Bên nhận bảo lãnh

Hình 1.4: Sơ đồ xác nhận bảo lãnh
(Nguồn : Trích từ [11], 456)
Quy trình bảo lãnh xác nhận:
(1) Bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thỏa thuận, ký kết hợp đồng gốc
(2) Bên được bảo lãnh chỉ thị phát hành bảo lãnh.
(3) Ngân hàng phát hành phát hành bảo lãnh
(4) Ngân hàng xác nhận xác nhận bảo lãnh và là ngân hàng thông báo.

1.1.4.3. Phân loại theo tính chất hợp đồng cơ sở
Đây là cách phân loại thông dụng nhất và cách này cho biết mục đích sử
dụng của từng loại bảo lãnh. Các loại hình bảo lãnh theo cách phân loại này
bao gồm:
 Bảo lãnh dự thầu (Bid bond/ Tender guarantee)

- Khái niệm: Bảo lãnh dự thầu là cam kết của ngân hàng với bên nhận
bảo lãnh (bên mời thầu) sẽ trả tiền thay trong phạm vi thời hạn và số tiền bảo
lãnh nếu bên dự thầu vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp
không đủ số tiền phạt cho bên mời thầu.



- Giá trị của bảo lãnh: được quy định theo mức ký quỹ chuẩn do người tổ
chức đấu thầu đưa ra, thông thường là từ 1% -3% tổng giá trị ước tính của giá
bỏ thầu.
- Mục đích của bảo lãnh: Khẳng định việc tham gia đấu thầu là nghiêm
túc và người dự thầu sẽ ký hợp đồng nếu trúng thầu. Việc phát hành bảo lãnh
dự thầu còn bảo đảm cho chủ thầu về khả năng tài chính của người thầu.
- Hiệu lực của bảo lãnh: Bảo lãnh sẽ chấm dứt khi bên được bảo lãnh
không trúng thầu, hoặc sau khi kí kết hợp đồng, hoặc chấp nhận kí hợp đồng
nếu bên được bảo lãnh trúng thầu.
 Bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Performance Guarantee):
- Khái niệm: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của ngân hàng bảo
lãnh về việc thực hiện hợp đồng của bên được bảo lãnh. Trong trường hợp
bên được bảo lãnh không thực hiện hợp đồng mà không nộp hoặc không nộp
đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh thì ngân hàng trả thay trong phạm vi số
tiền và thời hạn bảo lãnh.
- Giá trị của bảo lãnh: Số tiền trong thư bảo lãnh thường có giá trị từ 515 % giá trị hợp đồng cơ sở. Trường hợp đặc biệt trong bảo lãnh thực hiện
hợp đồng xây lắp số tiền này có thể hơn 15% nhưng phải được người có thẩm
quyền quyết định đầu tư chấp nhận.
- Hiệu lực của bảo lãnh: Bảo lãnh được kéo dài đến khi hoàn thành hợp
đồng như hàng hố đã giao xong, máy móc thiết bị đã được vận hành, cơng
trình được đưa vào sử dụng sau đó chuyển sang giai đoạn bảo hành.
 Bảo lãnh tiền ứng trƣớc (Advanced Payment Guarantee):
- Khái niệm: Bảo lãnh tiền ứng trước là cam kết của ngân hàng về việc
sử dụng tiền ứng trước của nhà thầu/ Người nhập khẩu với chủ thầu/ Người
xuất khẩu. Ngân hàng sẽ trả thay trong phạm vi số tiền và thời hạn bảo lãnh
nếu bên được bảo lãnh vi phạm họp đồng ứng trước.


- Giá trị của bảo lãnh: Số tiền bảo lãnh có giá trị bằng tồn bộ số tiền ứng
trước của hợp đồng. Tiền bảo lãnh ứng trước sẽ được giảm dần theo các

chuyến giao hàng hoăc theo tiến độ thực hiện cơng trình.

- Thời gian hiệu lực: Bằng thời gian thực hiện hợp đồng tức là kể từ khi
người được bảo lãnh nhận được số tiền đặt cọc cho đến ngày giao hàng cuối
cùng cộng thêm số ngày để người thụ hưởng làm thủ tục đòi tiền.
 Bảo lãnh bảo đảm thanh toán (Payment Guarantee):

- Khái niệm: Đây cam kết của ngân hàng với bên thụ hưởng về việc
thanh toán tiền đúng theo hợp đồng cơ sở của người được bảo lãnh. Trong
truờng hợp người được bảo lãnh không hoặc khơng thanh tốn đủ số tiền theo
hợp đồng thì ngân hàng bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm trả thay cho người được
bảo lãnh.

- Giá trị và thời hạn bảo lãnh: Số tiền và thời hạn bảo lãnh phù hợp với
số tiền và thời hạn thanh toán trong hợp đồng cơ sở.

1.2.

Phương thức Thư tín dụng dự phịng( Standby Letter of credit)
Bên cạnh các loại bảo lãnh thường sử dụng phổ biến trong các NHTM

thì thư tín dụng dự phịng được sử dụng như một bảo lãnh của ngân hàng phát
hành nhằm đảm bảo việc thực hiện hợp đồng liên doanh hay hợp tác hay đảm
bảo cho việc tham gia dự thầu. Bảo lãnh theo yêu cầu và thư tín dụng dự
phịng thực chất là phương thức thanh tốn kèm chứng từ phi thương mại sử
dụng trong ngoại thương.
Các Loại bảo lãnh theo yêu cầu thường được dùng trong các HĐ
thương mại trong nước cịn thư tín dụng dự phịng thường được dùng quốc tế.

1.2.1. Sự ra đời của thư tín dụng dự phịng (Standby LC)

Thư tín dụng dự phịng (LC dự phịng) là một loại tín dụng thư do ngân
hàng Mỹ sang tạo ra. Theo Đạo luật nội địa của Hoa Kỳ ban hành ngày
03/06/1894, trong đó khơng cho phép ngân hàng đứng ra cam kết trả nợ cho
người khác. Điều đó có nghĩa là NHTM của Mỹ khơng được phép phát hành


bảo đảm nợ cho khách hàng. Do đó, để phát triển hoạt động của mình thì các
ngân hàng tìm kiếm phương tiện tài trợ khác không bị pháp luạt ngăn cấm đó
là chấp nhận hối phiếu và phát hành tín dụng thư dự phòng. Các giao dịch này
thực chất là bảo lãnh nhưng lại không bị coi là trái luật.
Ngân hàng chỉ có trách nhiệm thanh tốn khi nhận được hối phiếu hay
những chứng từ yêu cầu thanh toán theo như quy định trong thư tín dụng dự
phịng. Thư tín dụng dự phòng là một sản phẩm được ưa chuộng không những
ở Mỹ mà ở rất nhiều nơi trên thế giới.

1.2.2. Phạm vi sử dụng
Tín dụng dự phịng sử dụng như một bảo lãnh của ngân hàng , thường
được phát hành để bảo lãnh cho các khoản vay của các hợp đồng vay nợ quốc
tế như các khoản tín dụng thương mại dành cho nhà nhập khẩu hay để đảm
bảo việc trả các khoản tiền ứng trước
Ngoài ra thực tế cho thấy thư tín dụng dự phịng được sử dụng để kết
hợp với các phương thức bảo lãnh và thanh tốn khác.

1.2.3. Các nhóm L/C dự phịng cơ bản
Trong Giáo trình Thanh Tốn Quốc Tế trong ngoại thương và tài trợ thương
mại quốc tế , GS Đinh Xuân Trình đã chỉ ra 3 nhóm L/C dự phịng cơ bản

sau:
 Nhóm thư tín dụng dự phịng thương mại chứng từ là loại tín dụng
dự phịng dùng cho các hợp đồng thương mại.

Cơ chế vận hành như sau:

(1) Hợp đồng mua bán – Người bán (Người hưởng lợi) và Người mua
(người xin phát hành)

(2) Người xin phát hành(Người mua) đăng ký mở L/C qua ngân hàng.
(3) Ngân hàng phát hành mở L/C dự phòng
Ngân hàng phát hành thường yêu cầu một ngân hàng( gọi là ngân hàng
thông báo) tại nước của người hưởng lợi tiến hành thơng báo thư tín dụng
dự phịng cho người hưởng lợi (người bán).


(4) Người hưởng lợi nhận được thư tín dụng dự phòng.
(5) Người hưởng lợi tiến hành giao hàng.
(6) Người hưởng lợi xuất trình chứng từ địi tiền người xin mở thư tín
dụng dự phịng (Thường chỉ gồm hối phiếu địi tiền, bản copy hóa đơn
và bản copy B/L).

(7) Nếu người xin mở tín dụng thư khơng thanh tốn (trường hợp vi
phạm), người hưởng lợi chuẩn bị các chứng từ quy định trong thư tín
dụng dự phịng u cầu để xuất trình địi bồi thường.

(8) Người hưởng lợi xuất trình chứng từ cho ngân hàng xuất trình
(Presenting bank).
(9) Ngân hàng xuất trình chuyển bộ chứng từ đến ngân hàng phát hành để
yêu cầu thanh toán.

(10)

Ngân hàng phát hành sẽ thanh toán cho người hưởng lợi (Người


bán).
 Nhóm tín dụng dự phịng nghĩa vụ tài chính:
Cơ chế vận hành như sau:

(1) Hợp đồng tín dụng – Người cho vay (hay ngân hàng cho vay) đồng ý
cấp phương tiện tín dụng cho người vay nợ với điều kiện một ngân
hàng khác đồng ý phát hành một tín dụng thư dự phịng cho họ hưởng.

(2) Người xin mở tín dụng gửi thư ủy thác cho ngân hàng của mình yêu
cầu ngân hàng người cho vay mở L/C dự phòng.

(3) Ngân hàng phát hành phát hành L/C dự phòng cho người hưởng lợi.
(4) Người cho vay cấp phương tiện tín dụng cho người đi vay.
(5) Nếu người đi vay vi phạm khơng thanh tốn, Người hưởng lợi chuẩn
bị các chứng từ quy định trong L/C dự phòng để đòi tiền ngân hhangf

phát hành.
(6) Ngân hàng phát hành sẽ chi trả tiền người hưởng lợi nếu nhận được
chứng từ phù hợp (chứng từ chứng minh vi phạm) với các điều kiện và
điều khoản quy định trong thư tín dụng dự phịng.


 Nhóm thư tín dụng dự phịng đảm bảo thực hiện.
Cơ chế vận hành như sau:

(1) Hợp đồng xuất nhập khẩu – Người xuất khẩu (Người yêu cầu phát
hành L/C dự phòng) và người nhập khẩu (người hưởng lợi L/C dự

phịng). Nếu người xuất khẩu khơng giao hàng thì ngân hàng phát hành

L/C phải bồi thường.

(2) Người xuất khẩu yêu cầu ngân hàng phát hành một L/C dự phòng để
đảm bảo thực hiện hợp đồng xuất khẩu.

(3) Ngân hàng phát hành mở một L/C dự phòng cho người nhập hưởng lơi
(4) Nếu như người yêu cầu mở tín dụng vi phạm hợp đồng, người hưởng
lợi chuẩn bị các chứng từ qui định trong L/C và gửi chúng tới ngân
hàng phát hành để yêu cầu thanh toán.

(5) Ngân hàng phát hành chi trả người hưởng lợi khi nhận được bộ chứng
từ phù hợp (hối phiếu đòi tiền và tuyên bố vi phạm).
(GS. Đinh Xuân Trình, 2012, tr.207 - 209)

1.2.4. Các loại L/C dự phịng
 Tín dụng dự phịng đảm bảo thực hiện(Performance Standby)
Là loại TDDP được phát hành nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ thực hiện hiện
hợp đồng chứ không phải nghĩa vụ trả tiền, bao gồm cho cả mục đích trang
trải các khoản thiệt hại phát sinh do vi phạm của người xin mở tín dụng trong
q trình thực hiện hợp đồng cơ sở
Khi ký kết hợp đồng, người mua thường sẽ bị gặp phải những rủi ro như
người bán không tiến hành giao hàng, hoặc giao hàng chậm, không đảm bảo
chất lượng,... Để giảm thiểu những rủi ro cho người mua thì tín dụng dự
phịng hợp đồng được sử dụng
 Thư tín dụng dự phịng cho khoản ứng trước (advance payment

standby)
Là loại thư tín dụng dự phịng dảm bảo trách nhiệm đối với khoản tiền mà
người thụ hưởng đã cấp cho người mở tín dụng thư,



Trong thực tiễn, việc các bên cấp tín dụng thương mại cho nhau đã trở nên
rất phổ biến. Đó cũng được coi là một cách thức đẻ dành được những ưu đãi
trong hợp đồng cho doanh nghiệp mình so với các doanh nghiệp cùng
ngành(như ưu đãi về giá…)
 Thư tín dụng dự phòng đảm bảo dấu thầu hay dự thầu (bid bond/tender

bond standby)
Là loại thư tín dụng dự phịng đảm bảo cho trách nhiệm phải thực hiện hợp
đồng của người u cầu mở thư tín dụng dự phịng khi anh ta trúng thầu.
Trong thư tín dụng dự phịng đảm bảo dự thầu này, Ngân hàng phát hành
cam kết sẽ bồi thường cho người thụ hưởng tín dụng thư nếu người yêu cầu
đã mở trúng thầu nhưng lại rút lui không thực hiện hợp đồng. Khoản tín dụng
dự phịng này sẽ giúp người thụ hưởng trang trải thiệt hại do chậm chễ tiến độ
thi cơng hay chi phí để tổ chức một cuộc đầu thầu khác.
Tín dụng dự phịng dự thầu mang lại lợi ích cho cả 2 phía của hợp đồng cơ
sở.
 Tín dụng dự phịng đối ứng (counter standby)
Loại tín dụng thư này được phát hành nhằm đảm bảo việc phát hành một
thư tín dụng riêng biệt hay một cam kết khác của chính người hưởng lợi quy
định trong thư tín dụng dự phịng đối ứng
 Tín dụng dự phịng tài chính (financial standby)
Là loại tín dụng dự phịng bảo lãnh trách nhiệm trả tiền bao gồm bất kì
chứng từ nào chứng minh một trách nhiệm trả lại khoản tiền đã vay
 Thư tín dụng dự phịng trả tiền trực tiếp (direct-pay standby)
Là loại thư tín dụng dự phịng đảm bảo thanh toán khi nghĩa vụ thanh toán
hợp đồng cơ sở đến hạn. Nó có đặc trưng tương tự như thư tín dụng dự phịng
tài chính nhưng lại khơng quan tâm đến việc có xảy ra vi phạm hay khơng.
Đây là loại hình thư tín dụng dự phịng chưa có hình thức bảo lãnh ngân hàng
tương ứng

 Tín dụng dự phòng bảo hiểm (insurance standby)


Là loại thư tín dụng dự phịng bảo đảm nghĩa vụ bảo hiểm hoặc tái bảo
hiểm của người xin phát hành tín dụng thư. Đây là cam kết của ngân hàng

phát hành sẽ thanh tốn khoản tiền phí bảo hiểm nếu như người u cầu mở
thư tín dụng dự phịng khơng nộp phí bảo hiểm hoặc tái bảo hiểm đúng hạn.
 Tín dụng dự phịng thương mại (Commercial Standby)
Là loại thư tín dụng dự phịng được phát hành nhằm bảo lãnh cho trách
nhiệm của người xin mở tín dụng phải thanh tốn cho hàng hóa hay dịch vụ
trong trường hợp khơng thanh tốn bằng các phương thức thanh tốn khác.
Do tính chất dự phịng, trong loại hình giao dịch này, người bán vẫn đòi
tiền trực tiếp người mua và chỉ khi người mua khơng thanh tốn thì người bán
mới xuất trình chứng từ u cầu thanh tốn đến ngân hàng.
(GS. Đinh Xuân Trình, 2012, tr.209-213)

1.3.

Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Thương mại.

1.3.1. Quan điểm về phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
“Phát triển nói chung là khuynh hướng vận động của sự vật, có hướng
đi lên từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn cả về mặt lượng lẫn mặt chất”. Theo đó, sự phát triển hoạt động
ngân hàng cần địi hỏi ngân hàng phải có những phương án, cách thức hữu
hiệu để có thể phát triển hoạt động bảo lãnh theo cả chiều rộng và chiều sâu.
Cụ thể, sự phát triển theo chiều rộng có nghĩa là sự tăng lên về doanh số, dư
nợ bảo lãnh, đa dạng hóa các loại hình bảo lãnh và tăng doanh thu từ hoạt
động này. Còn sự phát triển theo chiều sâu là sự hồn thiện hơn trong quy

trình, sự đơn giản, gọn nhẹ trong các thủ tục. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng
cần có biểu phí hợp lý, biết áp dụng cơng nghệ hiện đại vào hoạt động của
mình đồng thời nâng cao trình độ của cán bộ nhân viên để hoạt động bảo lãnh
đi vào hoạt động một cách nhanh chóng, an tồn và hiệu quả.


1.3.2. Các tiêu chí đánh giá hoạt động bảo lãnh

Theo Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng VPBank tổng hợp, các tiêu chí để
đánh giá hiệu quả của hoạt động bảo lãnh dựa vào những chỉ tiêu như sau:

1.3.2.1. Các chỉ tiêu định lượng
 Thứ nhất, doanh số bảo lãnh
Doanh số bảo lãnh là chỉ tiêu phản ánh tổng giá trị các khoản bảo lãnh
phát sinh trong một thời kì nhất định, thường là một năm (khơng kể món bảo
lãnh đấy đã tất toán hay chưa). Đây là chỉ tiêu phản ánh tình hình hoạt động
bảo lãnh của ngân hàng trong một thời kì nhất định. Khi đánh giá hoạt đơng
bảo lãnh dựa trên doanh số bảo lãnh cần chú ý các chỉ tiêu sau:
 Mức tăng trưởng doanh số bảo lãnh:
Mức tăng doanh số BL = Doanh số BL năm (n) – Doanh số BL năm (n -1).
 Tốc độ tăng trưởng doanh số bảo lãnh

 Tỷ trọng doanh số từ hoạt động bảo lãnh so với tổng doanh thu dịch
vụ.

 Thứ hai, số món bảo lãnh
Số món bảo lãnh là số lượng sản phẩm bảo lãnh được ngân hàng cung cấp
cho khách hàng trong một khoảng thời gian. Số món bảo lãnh phát hành tăng
lên qua các năm thể hiện hoạt động hiệu quả, đang phát triển quy mô.
 Thứ ba, lợi nhuận từ hoạt động bảo lãnh ngân hàng

Lợi nhuận từ hoạt động bảo lãnh là tổng số tiền mà ngân hàng thu được
từ dịch vụ bảo lãnh và các dịch vụ khác phát sinh kèm theo. Chỉ tiêu


này phản ánh trực tiếp hiệu quả của hoạt động bảo lãnh. Lợi nhuận bảo
lãnh được tính từ tổng doanh thu bảo lãnh thu được trừ đi chi phí.
 Thứ tƣ, dƣ nợ bảo lãnh quá hạn
Dư nợ bảo lãnh quá hạn là những khoản vốn mà Ngân hàng đã trả thay cho
người được bả lãnh, nhưng đến hạn thanh tốn khách hàng khơng có đủ tiền
trả hoặc khơng được gia hạn nợ trong khi khách hàng không chịu trả cho
Ngân hàng. Dư nợ ngân hàng càng lớn càng thể hiện Ngân hàng đang đứng
trước nguy cơ mất vốn, chất lượng của bảo lãnh không tốt.
Tỷ lệ dư nợ quá hạn=

100%

Các ngân hàng thường duy trì tỷ lệ nợ xấu dưới 5%, khi tỷ lệ dư nợ quá
hạn lớn thì chứng tỏ hoạt động bảo lãnh ngân hàng chưa thực sự an toàn và
hiệu quả, chưa đảm bảo được chất lượng của hoạt động bảo lãnh.

1.3.2.2. Các chỉ tiêu định tính:
 Thứ nhất, sự đa dạng của các sản phẩm bảo lãnh:

Danh mục bảo lãnh phản ánh sự phát triển của hoạt động bảo lãnh tại
Ngân Hàng. Danh mục bảo lãnh cũng cung cấp cho khách hàng mức độ đa
dạng về sản phẩm này. Sự đa dạng trong danh mục bảo lãnh cho thấy ngân
hàng có khả năng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của khách h àng hay không và
thể hiện sự quan tâm trong việc phát triển hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng
đó. Đối với ngân hàng có xu hướng phát triển và đẩy mạnh hoạt động này thì
danh mục sản phẩm bảo lãnh sẽ ngày càng nhiều và phong phú từ đó sẽ thu

hút nhiều đối tượng khách hàng hơn, ngược lại, một danh mục các sản phẩm
sơ sài và giới hạn các đối tượng khách hàng sẽ chứng tỏ Ngân hàng đó chưa
thực sự quan tâm đến hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
 Thứ hai, mạng lƣới ngân hàng đại lý
Mạng lưới ngân hàng đại lý là các chi nhánh của ngân hàng, là nhân tố tác
động để hoạt động bảo lãnh được diễn ra suân sẻ hơn đồng thời cũng là chỉ


tiêu để đánh giá mức độ uy tín, năng lực và khả năng hợp tác của một ngân
hàng trong các giao dịch quốc tế, trong đó có hoạt động bảo lãnh.
 Thứ ba, mức độ đơn giản, gọn nhẹ trong quy trình, thủ tục bảo

lãnh.
Tại mỗi ngân hàng khác nhau thì có các quy trình, thủ tục trong hoạt động
bảo lãnh là khác nhau, các thủ tục đều được quy định nhằm mục đích đảm bảo
độ chính xác và rút ngắn thời gian cho cả phía ngân hàng và khách hàng. Quy
trình, thủ tục bảo lãnh của ngân hàng cần được xây dựng dựa trên các tiêu chí
đơn giản, gọn nhẹ, linh hoạt nhưng vẫn đảm bảo chính xác, an tồn để hoạt
động bảo lãnh có thể hồn thiện và phát triển nhanh chóng.
 Thứ tƣ, mức phí của dịch vụ bảo lãnh
Tại khoản 5, Điều 18 , Thông tư Số: 07/2015/TT-NHNN đã chỉ ra rằng:
“Các bên có thể thỏa thuận điều chỉnh mức phí bảo lãnh”. Thêm vào đó, phí
bảo lãnh là thành phần trực tiếp cấu thành nên doanh thu từ hoạt động bảo
lãnh của ngân hàng. Chính vì thế nên ngân hàng ln muốn nâng mức phí bảo
lãnh để tăng thu nhập tuy nhiên khách hàng thì ln muốn mức phí này giảm
xuống để họ phải trả ít chi phí nhất. Cân bằng được lợi ích đôi bên là điều mà
ngân hàng hướng tới. Vì vậy, biểu phí bảo lãnh cần có sự khác biệt giữa các
loại hình bảo lãnh; khác biệt đối với các khách hàng thuộc các phân khúc,
ngành nghề, hay ở các mức xếp hạng tín dụng khác nhau. Phí bảo lãnh cũng
cần linh hoạt, thay đổi theo thực trạng nền kinh tế hay mức độ cạnh tranh để

vừa đảm bảo được doanh thu từ phí bảo lãnh, vừa giữ chân và thu hút được
khách hàng tham gia hoạt động bảo lãnh.

1.3.3. Các rủi ro trong hoạt động bảo lãnh
 Rủi ro đối với ngân hàng
Trên thực tế, phát hành bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ chứa rất
nhiều rủi ro. Ngoài việc các rủi ro gắn với việc truy đòi số tiên mà ngân hàng
đã trả thay cho bên được bảo lãnh như ở các trường hợp thu hồi khoản vay


thơng thường, NH phát hành bảo lãnh cịn phải đối mặt với những rủi ro pháp
lý gắn với cam kết bảo lãnh của mình.
 Thanh tốn số tiền bảo lãnh khi khơng có vi phạm.
Theo khoản 18 , Điều 4, Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày
16 tháng 6 năm 2010 và Khoản 1, Điều 3, Thông tư số 07/2015-NHNN của
Ngân hàng Nhà nước ngày 25 tháng 6 năm 2015 về bảo lãnh ngân hàng
(Thông tư 07), ngân hàng phát hành bảo lãnh sẽ phải thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên này không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết.
Như vậy, khác với bảo lãnh thông thường theo quy định chung về giao
dịch đảm bảo tại Điều 361, Bộ luật Dân sự, bảo lãnh ngân hàng đã loại trừ
khả năng các bên có thể thỏa thuận về việc ngân hàng phát hành bảo lãnh chỉ
phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên được bảo lãnh khơng có khả năng
(tài chính) thực hiện nghĩa vụ của mình
Bảo lãnh ngân hàng khơng phải là cam kết độc lập, tách riêng hoàn toàn
với nghĩa vụ được bảo lãnh do:

- Thứ nhất, ngân hàng phát hành bảo lãnh chỉ thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên này vi phạm (không thực hiện hay
thực hiện không đầy đủ) nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, tức là nếu khơng

có vi phạm từ bên được bảo lãnh thì ngân hàng khơng phải thực hiện thanh
toán số tiền bảo lãnh.

- Thứ hai, Theo quy định tại Điều 22, Thơng tư 07, nếu hợp đồng có
nghĩa vụ được bảo lãnh bị vô hiệu, hủy bỏ hay đơn phương chấm dứt mà các
bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì cam kết bảo lãnh chấm dứt; cịn trong
trường hợp các bên đã thực hiện một phần hay tồn bộ hợp đồng này thì cam
kết bảo lãnh vẫn có hiệu lực và bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh. Như vậy, có thể thấy, cam kết bảo lãnh phụ thuộc vào số phận của hợp
đồng làm phát sinh nghĩa vụ được bảo lãnh.


Theo Điều 21, Thơng tư 07 thì ngân hàng sẽ phải thanh tốn cho bên nhận
bảo lãnh trong vịng 5 ngày làm việc kể từ ngày ngân hàng nhận được yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Do vậy, thời gian để ngân hàng tự xác minh vi
phạm là quá ngắn, hơn thế nữa, ngân hàng cũng khơng có khả năng và cũng
khơng có thẩm quyền để đưa ra khẳng định rằng “đã xảy ra vi phạm chưa” và
“ các chứng từ hay văn bản xuất trình đã chứng minh được vi phạm hay
không”. Đặc biệt, một số trường hợp vi phạm không hiển nhiên thể hiện trên
bề mặt cứng từ loại như biên bản xác nhận vi phạm do 2 bên ký, hoặc phán
quyết của Tịa có hay Trọng tài có thẩm quyền trong đó xác định rõ ràng vi
phạm.
 Gia hạn thời gian thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
Theo quy định chung về bảo lãnh của Bộ luật Dân sự và Thông tư 07
cũng chưa đề cập tới hệ quả pháp lý với việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của
việc bên nhân bảo lãnh có thỏa thuận với bên được bảo lãnh về việc gia han
thêm thời gian thực hiện nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh hoặc sửa đổi và bổ
sung hợp đồng… Rủi ro trong trường hợp này đối với ngân hàng là rất khó từ
chối việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh vì chưa có cơ sở pháp lý rõ ràn g.
 Bên được bảo lãnh phá sản

Khoản 3, Điều 55, Luật Phá sản số 51/2014/QH13 ngày 19 tháng 6
năm 2014 (Luật Phá sản) đặt ra một nguyên tắc theo đó “trong trường hợp
người được bảo lãnh hoặc cả người bảo lãnh và người được bảo lãnh đều mất
khả năng thanh tốn thì người bảo lãnh phải chịu trách nhiệm thay cho người
được bảo lãnh theo quy định của pháp luật”
Khoản 3, Điều 77 của Luật Phá sản quy định bên bảo lãnh sau khi trả
nợ thay cho doanh nghiệp mất khả năng thanh tốn có quyền tham gia Hội
nghị chủ nợ và trở thành chủ nợ khơng có bảo đảm.
Như vậy, pháp luật phá sản đặt ra nghĩa vụ cho bên bảo lãnh phải thực
hiện nghĩa vụ khi khoản nợ đến hạn trong trường hợp bên được bảo lãnh mất
khả năng thanh toán.


 Ngân hàng hồn tồn có thể chịu những rủi ro như : rủi ro tín dụng, rủi
ro lãi suất, rủi ro mất khả năng thanh toán, rủi ro hối đối, rủi ro từ chính bản
thân ngân hàng phát hành bảo lãnh. Tuy từ đầu Ngân hàng chưa phải bỏ vốn
nhưng NH cũng sẽ gặp phải những rủi ro mà chủ yếu từ phía khách hàng khi
KH khơng thực hiện đúng nghĩa vụ theo hợp đồng.

- Theo điểm 2, điều 11, QĐ 60/2009 “ Bên bảo lãnh trả nợ thay khi thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh với lãnh suất bằng 150% lãi suất cho vay tại thời điểm
nhận nợ” do đó NH sẽ phải chịu mọi rủi ro khi lãi suất biến động.

- “Tỷ lệ trích quỹ bảo lãnh là 5% giá trị bảo lãnh, nếu rủi ro thực tế là
lớn hơn 5% giá trị bảo lãnh thì khả năng thanhh tốn trong nghiệp vụ bảo lãnh
sẽ khơng đảm bảo, gây tác động xấu đến khả năng thanh toán chung của ngân
hàng” và ngược lại thì khả năng thanh tốn trong bảo ãnh cũng bị ảnh hưởng
khi khả năng thanh tốn chung của ngân hàng khơng đảm bảo. (Gs.TS
Nguyễn Văn Tiến và TS. Nguyễn Thị Hồng Hải, 2015, tr.468)
Chính ngân hàng cũng sẽ tự tạo rủi ro cho bản thân nếu như trình độ

chun viên cịn kém, dễ dẫn đến việc bên nước ngoài lợi dụng và thỏa thuận
nội dung trong thư bảo lãnh, thư tín dụng hoặc thậm chí là lừa đảo.
 Rủi ro đối với các bên
 Rủi ro đối với bên được bảo lãnh:
Theo GS.TS. Nguyễn Văn Tiến và TS. Nguyễn Thị Hồng Hải đã đưa ra
một số quan điểm với những rủi ro với bên được bảo lãnh rằng
“Nghĩa vụ của bên được bảo lãnh đối với người thụ hưởng trong giao dịch
bảo lãnh ngân hàng là nghĩa vụ chính và trực tiếp. Rủi ro của bên được bảo
lãnh là rủi ro trong kinh doanh, thương mai đơn thuần. Bên được bảo lãnh có
thể gặp rủi ro từ các nguyên nhân như:

- Nguyên nhân từ bên nhận bảo lãnh: Bên được bảo lãnh có rủi ro về
chứng từ khi bên nhận bảo lãnh có ý đồ lửa đảo, nên đã lập và xuất trình bộ
chứng từ giả mạo. Ngồi ra cũng có trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm


hợp đồng do sự cản trở hoặc khơng thiện chí từ phía bên nhận bảo lãnh, do
vậy ngân hàng vẫn có trách nghiệm phải bồi thường cho người thụ hưởng.

- Nguyên nhân chính từ bên được bảo lãnh: Xuất phát từ sự thiếu kinh
nghiệm trọng HĐKD của doanh nghiệp, cập nhập thơng tin khơng kịp thời, độ
chính xác khơng cao , hay đánh giá sai lệch thị trường, trong điều kiện khốc
liệt của thị trường thì chưa thích ứng kịp, chưa đối phó kịp với những biến
động của thị trường từ đó có thể gặp phải các rủi ro như bị cấm đốn, ký các
hợp động hàng hóa bị cấm NK” (GS.TS.Nguyễn Văn Tiến và TS.Nguyễn Thị
Hồng Hải, 2015, tr.466)
Một số rủi ro đối với bên được bảo lãnh như:

- Rủi ro do trình độ nguồn nhân lực trong thực hiện giao kết hợp đồng
cùng khả năng quản trị, điều hành và tầm nhìn của đội ngũ lãnh đạo của bên

được bảo lãnh. Cụ thể do dự nơn nóng, thiếu hiểu biết nên không đánh giá
không đúng thực lực của mình, nơn nóng trong khâu điều hành dẫn đến sựu
đổ vỡ và hậu quả là bên được bảo lãnh phải bồi thường tiền cho bên thụ
hưởng bảo lãnh do vi phạm các giao kết và cam kết trong hợp đòng mua bán
hoặc Bên bảo lãnh phải kí nhận nợ cho khoản vay bắt buộc trong trường hợp
ngân hàng phải thực hiện nghĩa cụ trả thay cho khách hàng
 Gây tổn hại về kinh tế và uy tín với Ngân hàng của chính Doanh nghiệp
đó.

- Rủi ro do có sự thay đổi về điều kiện tự nhiên (bão lũ, thiên tai…),
chiến tranh, dịch bệnh, chính trị - xã hội,… dẫn đến rủi ro là bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng các điều khoản trong HĐ đã
kí kết với bên thụ hưởng bảo lãnh. Đây là những rủi ro tiềm ẩn, khó kiểm sốt
được tuy nhiên nếu có sự nhạy bén, đánh giá đúng đắn và kiểm sốt thường
xuyện và xây dựng đượcnhững kế hoạch dư phịng cần thiết của đội ngũ lãnh
đạo thì rủi ro này sẽ ít nhiều được kiểm sốt.

- Rủi ro do khơng am hiểu về nghiệp vụ bảo lãnh:


×