LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang từng bước vượt qua giai đoạn khó khăn của
giai đoạn đầu hội nhập kinh tế thế giới cũng như thoát ra khỏi ảnh hưởng xấu
của cuộc khủng hoảng Tài chính – kinh tế trong thời gian vừa qua, từ đó đặt
nền tảng cho sự phát triển, hội nhập sâu rộng và bền vững cho nền kinh tế.
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng găy gắt, việc hoàn thiện và phát triển
đồng bộ các nghiệp vụ là hướng đi và phương châm cho các ngân hàng tồn tại
và phát triển. Và xét cho cùng đây chính là sự đáp ứng cho yêu cầu hiện đại
hoá, đa dạng hoá hoạt động ngân hàng và xu thế hội nhập của nền kinh tế. Khi
tham gia các giao dịch kinh tế, nếu các đối tác của doanh nghiệp, đặc biệt là
các đối tác nước ngồi, khơng hoàn toàn tin tưởng vào doanh nghiệp, họ
thường yêu cầu một bên thứ ba có uy tín đứng ra đảm bảo cho doanh nghiệp
về khả năng hoàn thành các nghĩa vụ theo hợp đồng kí kết. Và các ngân hàng
là nơi mà doanh nghiệp tìm đến nhiều nhất. Ngân hàng cam kết với bên đối
tác sẽ bồi thường cho họ nếu doanh nghiệp vi phạm các điều khoản trong hợp
đồng kinh tế, giúp các doanh nghiệp nâng cao uy tín của mình trước bạn
hàng.Nghiệp vụ bảo lãnh xuất hiện và ngày càng phát triển từ địi hỏi đó của
thị trường. Nghiệp vụ này tuy khơng cịn q mới mẻ với các ngân hàng Việt
Nam nói chung và ngân hàng Nơng nghiệp và phát triển Nơng thơn nói riêng
nhưng vẫn chưa được phát triển tương xứng với tiềm năng và vai trị của nó
đối với nền kinh tế. Nhận thức được vấn đề trên, sau một thời gian thực tập tại
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội, tôi
quyết định chọn đề tài “Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển Nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội” để nghiên cứu.
1
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là những vấn đề xung
quanh nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
chi nhánh Nam Hà Nội.
Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Các vấn đề lý luận về phát triển bảo lãnh của Ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Agribank Nam Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động bảo lãnh tại
Agribank Nam Hà Nội.
2
CHƯƠNG I : CÁC VẤN ĐỀ VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển
của nền sản xuất hàng hoá: Các ngân hàng thương mại xuất hiện trong nền kinh tế
với tư cách là các nhà tổ chức trung gian, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế có
dư thừa và trên cơ sở đó cấp tín dụng cho các đơn vị kinh tế có nhu cầu tức là luân
chuyển vốn một cách gián tiếp. Hệ thống ngân hàng thương mại có phạm vi hoạt
động rộng rãi vì nó cung cấp các dịch vụ tài chính cho tất cả các lĩnh vực của nền
kinh tế và các tầng lớp dân cư. Tuỳ theo cách tiếp cận mà có các quan điểm khác
nhau về NHTM, điều đó cịn phụ thuộc vào tính chất và mục tiêu của nó trên thị
trường tài chính của từng nước.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp: Một doanh nghiệp đặc
biệt – hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế Hoa Kỳ.
Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài
chính và hoạt động trong ngành cơng nghiệp dịch vụ tài chính.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế Pháp.
Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường
xuyên nhận được của cơng chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số
tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài
chính.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế Việt Nam.
3
Ngân hàng thương mại là một tổ chức mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên
là nhận tiền gửi, trên nguyên tắc hoàn trả, tiến hành cho vay, chiết khấu và làm các
phương tiện thanh tốn.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về NHTM, nhưng tựu chung lại có thể
hiểu tổng quát: Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân
hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chính là huy động tiền gửi
dưới các hình thức khác nhau của khách hàng, trên cơ sở nguồn vốn huy động này
và vốn chủ sở hữu của ngân hàng để thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, chiết
khấu đồng thời thực hiện các nghiệp vụ thanh tốn, mơi giới, tư vấn và một số dịch
vụ khác cho các chủ thể trong nền kinh tế.
1.2.Hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng Thương mại
1.2.1 Sự hình thành và phát triển của hoạt động bảo lãnh
Với tư cách là một dạng nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại, bảo lãnh
xuất hiện đầu tiên tại Mỹ vào giữa những năm 60 trong các giao dịch nội địa
và bắt đầu được sử dụng trong thương mại quốc tế vào đầu năm 70. Vào thời
gian gia này các quốc ở Trung Đơng liên tục kí kết các hợp đồng kinh tế lớn
với các nước phương Tây để thực hiện các dự án cải tạo cơ sở hạ tầng, quốc
phịng, cơng nơng nghiệp. Giá trị của hợp đồng và thế mạnh về tài chính của
các nước Trung Đơng cho phép họ địi hỏi một sự đảm bảo chắc chắn về phía
bạn hàng khi tham gia các giao dịch kinh tế. Để đáp ứng yêu cầu này ngân
hàng các nước phương Tây đã phát hành các bảo lãnh độc lập. Những bảo
lãnh độc lập này thực sự đã đáp ứng được yêu cầu về sự thuận lợi và an toàn
cho các quốc gia nhập khẩu. Doanh số của nghiệp vụ bảo lãnh tăng nhanh
một cách đáng kể. Từ đó đến nay bảo lãnh ngân hàng ngày càng được sử
dụng rộng rãi đặc biệt là những giao dịch có giá trị lớn trong nước cũng như
quốc tế.
4
Tại Việt Nam vào những năm 90 khi bắt đầu hội nhập với kinh tế thế
giới và khu vực thì hoạt động bảo lãnh ngân hàng hình thành là một tất yếu
khách quan. Thời kì này do chưa được ứng dụng nhiều nên cũng chưa có một
hệ thống văn bản điều chỉnh chặt chẽ, các hoạt động bảo lãnh diễn ra tùy tiện
và thiếu hiệu quả. Ngày 17/9/1992, Thống đốc ngân hàng Nhà nước ban hành
Quyết Định số 192/NH-QĐ về bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài.
Tiếp đó là Quyết định số 196/QĐ-NH14 ngày 16/09/1994 về quy chế nghiệp
vụ bảo lãnh ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triến thì hoạt động bảo lãnh
càng đa dạng, phí dịch vụ từ bảo lãnh đã đem lại cho các ngân hàng khoản thu
nhập không nhỏ. Ngày 25/08/2000, quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14
của Thống đốc ngân hàng nhà nước ra đời thay thế cho qui chế bảo lãnh trước
đây. Gần đây nhất là quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN sửa đổi quyết định số
283. Các qui định về bảo lãnh đã được sửa đổi phù hợp với điều kiện kinh tế
xã hội, góp phần thúc đẩy hoạt động bảo lãnh ngày càng phát triển.
1.2.2 Khái niệm về bảo lãnh Ngân hàng
1.2.2.1. Khái niệm bảo lãnh Ngân hàng
Trong thương mại quốc tế, bảo lãnh ngân hàng được xem như một kỹ
thuật tài trợ ngoại thương nhằm chống đỡ những rủi ro mà người thụ hưởng
bảo lãnh phải gánh chịu do sự vi phạm nghĩa vụ của bên được bảo lãnh.
Theo từ điển pháp luật của Mỹ thì bảo lãnh là một thỏa thuận mà theo
đó người bảo lãnh chấp thuận sẽ thực hiện nghĩa vụ của bên nợ chỉ khi bên nợ
không trả nợ, là việc bên bảo lãnh bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có
nghĩa vụ trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện.
Theo bộ luật dân sự Việt Nam điều 336 thì bảo lãnh là việc người thứ ba
(gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh)
sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh)
5
nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ..
Theo luật các TCTD, bảo lãnh ngân hàng được hiểu là một trong các
hình thức cấp tín dụng được thực hiện thơng qua sự cam kết bằng văn bản của
TCTD với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết.
Như vậy,các loại văn bản được thiết lập có liên quan trong quan hệ bảo
lãnh đó là: hợp đồng kinh tế, hợp đồng bảo lãnh, thư bảo lãnh. Hợp đồng kinh
tế là hợp đồng được kí kết giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng, là
cơ sở để thiết lập các hợp đồng tiếp theo. Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng giữa
người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh. Thư bảo lãnh được
thực hiện nhằm ràng buộc giữa người thụ hưởng và ngân hàng phát hành bảo
lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh độc lập với hợp đồng kinh tế. Mục đích của bảo
lãnh là bồi thường cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực
hiện hợp đồng của người được bảo lãnh nhưng việc thanh toán chỉ dựa vào
những điều khoản, điều kiện trong hợp đồng bảo lãnh. Cho dù người được
bảo lãnh trên thực tế có thực hiện hợp đồng hay khơng và ngời thụ hưởng có
quyền thơng báo về những thiệt hại xảy ra hay không, mức thiệt hại thực tế là
bao nhiêu, cũng không ảnh hưởng hoặc liên quan đến hợp đồng bảo lãnh giữa
người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh. Điều đó có nghĩa là
một khi các điều kiện qui định trong hợp đồng bảo lãnh được thỏa mãn về mặt
pháp lý thì người thụ hưởng không cần thiết phải chứng minh vi phạm của
người được bảo lãnh mà chỉ cần lập các chứng từ theo như yêu cầu của bảo
lãnh. Trách nhiệm thanh toán của ngân hàng cũng độc lập với những thỏa
thuận giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng. Khi các điều kiện thanh
tốn được đáp ứng thì ngân hàng khơng có quyền viện dẫn bất cứ lí do gì để
6
từ chối hoặc có thể hợp đồng kinh tế thay đổi cũng khơng ảnh hưởng gì đến
hợp đồng bảo lãnh.
- Dựa vào biểu hiện bên ngồi thì việc bảo lãnh có ba bên bao gồm
bên bảo lãnh, bên thụ hưởng bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Mối quan hệ
giữa các chủ thể trong BLNH được thể hiện như sau:
* Quan hệ giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh là
mối quan hệ gốc, là cơ sở phát sinh yêu cầu bảo lãnh. Trong mối quan hệ này,
người được bảo lãnh có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện đối với bên thụ
hưởng bảo lãnh. Nghĩa vụ đó có thể là nghĩa vụ tài chính như nghĩa vụ trả nợ
cũng có thể là nghĩa vụ phi tài chính như bảo hành sản phẩm hay cung cấp
thiết bị…Tuy nhiên nghĩa vụ này không được thực hiện ngay lập tức có thể
do khó khăn tạm thời về tài chính hay không muốn ứ đọng vốn… người được
bảo lãnh muốn gia hạn nợ trong một khoảng thời gian nhất định. Trong khi đó
người thụ hưởng lại khơng hồn tồn tin tưởng vào bạn hàng của mình cho
nên họ yêu cầu có một sự đảm bảo chắc chắn cho việc thực hiện hợp đồng, họ
yêu cầu bảo lãnh của ngân hàng.
* Quan hệ giữa người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh
là quan hệ dịch vụ bảo lãnh trong đó ngân hàng cấp tín dụng và khách hàng
hưởng tín dụng. Bảo lãnh ngân hàng đưa ra những cam kết bằng chứng thư và
hạch toán theo dõi ngoại bảng vì trên thực tế chưa sử dụng vốn ngay để cho
vay.Như vậy, bảo lãnh ngân hàng được coi như là một hình thức cấp tín dụng
gián tiếp.
* Quan hệ giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người thụ hưởng bảo
lãnh : ngân hàng cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ đối với người thụ hưởng bảo
lãnh thay cho người được bảo lãnh nếu người được bảo lãnh vi phạm hợp
đồng đã kí kết. Khi có được cam kết với người được bảo lãnh ngân hàng sẽ
phát hành thư bảo lãnh để bảo vệ quyền lợi cho người thụ hưởng bảo lãnh.
7
- Phân biệt bảo lãnh và bảo hiểm :
Bảo lãnh thường do ngân hàng thực hiện còn bảo hiểm do công ty bảo
hiểm thực hiện.
Bảo lãnh nhằm chống đỡ rủi ro và đền bù những thiệt hại khi có rủi ro
xảy ra còn bảo hiểm chỉ nhằm khắc phục những thiệt hại chứ khơng có tác
dụng phịng ngừa rủi ro.
Bảo lãnh dùng chính tiền của người gây ra vi phạm để bù đắp cho
người bị thiệt hại còn bảo hiểm phân chia tổn thất của người nhận tiền bảo
hiểm cho những người tham gia bảo hiểm.
Khi thanh toán, bảo lãnh thực hiện thanh tốn theo u cầu đầu tiên
cịn bảo hiểm cần có một khoảng thời gian để thu thập đủ bằng chứng và xác
minh mức độ thiệt hại thực tế.
- Phân biệt nghiệp vụ bảo lãnh và tín dụng chứng từ :
Tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó theo yêu cầu của nhà
nhập khẩu, một ngân hàng sẽ phát hành một bức thư gọi là L/C, theo đó ngân
hàng phát hành cam kết sẽ trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu cho nhà xuất
khẩu khi người này xuất trình cho ngân hàng phát hành bộ chứng từ thanh
toán phù hợp với điều khoản và điều kiện của L/C.
Như vậy, L/C là hợp đồng kinh tế độc lập chỉ của hai bên là người thụ
hưởng và ngân hàng phát hành, ngân hàng phát hành đại diện cho khách hàng
của mình, tiếng nói chính thức của người mở L/C khơng được thể hiện trong
L/C. Cịn hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng giữa người được bảo lãnh và ngân
hàng phát hành, giữa người thụ hưởng và ngân hàng phát hành chỉ có ràng
buộc bởi một thư bảo lãnh do ngân hàng đơn phương phát hành.
Trong L/C, ngân hàng phát hành khơng chỉ đóng vai trị là người thu
hộ , chi hộ mà còn là người đại diện cho nhà nhập khẩu thanh toán tiền hàng
cho nhà xuất khẩu, đảm bảo cho nhà xuất khẩu nhận được khoản tiền tương
8
ứng với hàng hoá mà họ đã cung ứng; đồng thời đảm bảo cho nhà nhập khẩu
nhận được số lượng và chất lượng hàng do bộ chứng từ đại diện và tương ứng
với số tiền mình đã bỏ ra. Cịn bảo lãnh ngân hàng chỉ đơn thuần là ngân hàng
dùng uy tín của mình để đảm bảo cho nghĩa vụ hoàn thành hợp đồng của bên
được bảo lãnh và bù đắp phần nào rủi ro cho bên thụ hưởng. Có nghĩa là với
hình thức tín dụng chứng từ ngân hàng phát hành phải có nghĩa vụ đầu tiên
thanh tốn cho người thụ hưởng khi ngươì này xuất trình bộ chứng từ phù
hợp, còn với bảo lãnh ngân hàng trách nhiệm thanh toán đầu tiên thuộc về
khách hàng trong hợp đồng chính, ngân hàng chỉ thực hiện trách nhiệm của
mình khi và chỉ khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ của họ.
Thư tín dụng có tính độc lập so với hợp đồng cơ sở và hàng hoá. L/C
chỉ giao dịch bằng chứng từ và chỉ căn cứ vào chứng từ , khơng hề căn cứ vào
tình hình thực tế của hàng hố. Cịn bảo lãnh chỉ đơn thuần là cam kết bảo
lãnh theo yêu cầu và chỉ đề cập tới các tài liệu liên quan trong từng trường
hợp cụ thể. Như thế, bảo lãnh ngân hàng rủi ro hơn cho các khách hàng và ít
rủi ro cho ngân hàng cịn tín dụng chứng từ thì rủi ro hơn cho ngân hàng phát
hành và ít rủi ro cho khách hàng.
Nhìn chung hai hình thức này đều là các cơng cụ tài chính được các
doanh nghiệp sử dụng nhiều trong các giao dịch quốc tế. Là công cụ giúp cho
các doanh nghiệp hồn thành tốt các hợp đồng của mình và đem lại những
thuận lợi đáng kể
1.2.2.2. Đặc điểm bảo lãnh Ngân hàng
Về thực chất, bảo lãnh là lời hứa thanh toán của Ngân hàng với người
được yêu cầu bảo lãnh khi người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng. Bảo lãnh là một công cụ bảo đảm, chứ khơng phải là cơng cụ thanh
tốn. Nghiên cứu đặc điểm của bảo lãnh đưa ra cơ sở phân cho việc phân biệt
9
giữa bảo lãnh với cơng cụ thanh tốn và bảo đảm khác như thư tín dụng, bảo
hiểm…
Bảo lãnh ngân hàng có những đặc điểm cơ bản sau:
- Tính độc lập tương đối đối với hợp đồng chính
Đây là một đặc điểm quan trọng của bảo lãnh ngân hàng. Mặc dù mục
đích của bảo lãnh là bồi hồn cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc
không thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh nhưng nó vẫn có sự độc
lập tương đối với hợp đồng chính. Việc thanh tốn của bảo lãnh chủ yếu căn
cứ vào các điều khoản, điều kiện đã được thỏa thuận và quy định trong thư
bảo lãnh. Ngân hàng bảo lãnh không thể dựa vào những vấn đề phát sinh
trong quan hệ hợp đồng để từ chối nghĩa vụ của mình.
Như vậy, liệu rằng trong thực tế người được bảo lãnh có thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với người nhận bảo lãnh hay khơng và người
nhận bảo lãnh có được quyền bồi thường như đã quy định trong hợp đồng cơ
sở hay không? Đây không phải là vấn đề đặt ra đối với các ngân hàng trong
quan hệ với người nhận bảo lãnh. Theo đó, khi xem xét u cầu địi tiền của
người nhận bảo lãnh, nếu các điều khoản, điều kiện của thư bảo lãnh được
thỏa mãn, người nhận bảo lãnh về mặt pháp lý được quyền yêu cầu đòi tiền và
không cần thiết phải chứng minh các vi phạm của người được bảo lãnh bằng
cách nào khác ngoài các quy định trong thư bảo lãnh.
Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng, tính độc lập của bảo lãnh là phụ
thuộc vào chính các điều kiện của bảo lãnh. Ví dụ như: nếu bảo lãnh quy định
việc thanh toán là theo văn bản yêu cầu của người thụ hưởng thì người thụ
hưởng có thể u cầu thanh tốn mà khơng cần một điều kiện nào khác ngoài
văn bản yêu cầu. Nhưng nếu bảo lãnh yêu cầu một chứng từ cụ thể như: phán
quyết của tòa án, hoặc văn bản của bên thứ ba xác nhận sự vi phạm của người
10
được bảo lãnh, văn bản của người được bảo lãnh thừa nhận sự vi phạm của
mình thì tính độc lập của bảo lãnh sẽ bị giảm sút.
Đối với các ngân hàng, tính độc lập của bảo lãnh mang lại nhiều
thuận lợi. Một khi có u cầu địi tiền theo thư bảo lãnh của người nhận bảo
lãnh thì ngân hàng chỉ có trách nhiệm xem xét, kiểm tra các chứng từ được
xuất trình có phù hợp với những điều khoản, điều kiện quy định trong thư bảo
lãnh hay không.
- Bảo lãnh là một cam kết mang tính chất bảo đảm gián tiếp
Đặc điểm này thể hiện rõ vai trò trung gian của ngân hàng. Ở đây,
người có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ chính là khách hàng (người được
bảo lãnh). Cịn ngân hàng đứng ra đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của khách
hàng. Ngân hàng không phải ngay lập tức sử dụng vốn của mình mà chỉ thực
hiện thay khi người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ.
Xuất phát từ đặc trưng này mà trên thế giới hình thành một số quan
điểm khác nhau về bảo lãnh. Quan điểm thứ nhất cho rằng: tất cả các hình
thức mang tính chất bảo đảm gián tiếp của ngân hàng như thư tín dụng trả
chậm, thư tín dụng trả ngay…đều được coi là hình thức bảo lãnh. Quan điểm
thứ hai cho rằng, một số hình thức kể trên khơng phải là hình thức bảo lãnh
đơn thuần mà nó là các phương tiện thanh tốn hay là một hình thức tín dụng.
Trong đề tài này, bảo lãnh ngân hàng được quan niệm là những cam
kết mang tính chất đảm bảo gián tiếp của ngân hàng. Như vậy, số dư bảo lãnh
sẽ bao gồm tổng số dư bảo lãnh và các cam kết phát hành theo hình thức tín
dụng chứng từ, ngoại trừ hình thức mở thư tín dụng trả ngay được khách hàng
kí quỹ đủ hoặc được cho vay 100% giá trị thanh toán.
- Cam kết bảo lãnh ngân hàng phải được lập bằng văn bản
Bảo lãnh ngân hàng không chấp nhận việc bảo lãnh hoặc đảm bảo
bằng miệng. Văn bản bảo lãnh có thể là thư, điện, Telex hoặc ký hậu trên các
11
hối phiếu, lệnh phiếu, giấy nhận nợ…
1.2.3 Vai trò của bảo lãnh Ngân hàng
1.2.3.1Đối với hoạt động Ngân hàng
Nền kinh tế ngày càng phát triển đồng nghĩa với việc nhu cầu về các
sản phẩm dịch vụ càng cao.Việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ giúp các ngân
hàng đứng vững trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Nghiệp vụ bảo lãnh
ra đời đã góp phần thỏa mãn tốt hơn những địi hỏi đó. Hơn nữa,Ngân hàng
có thể củng cố mối quan hệ với khách hàng truyền thống và tiếp cận được với
các khách hàng tiềm năng.
Để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, các ngân hàng đã không
ngừng mở rộng và phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Trong đó dịch
vụ bảo lãnh đã đem lại cho các ngân hàng một nguồn thu nhập không nhỏ.
Bảo lãnh là nghiệp vụ tín dụng bằng chữ kí vì vậy ngân hàng chỉ cần sử dụng
uy tín của mình để thực hiện nghiệp vụ này mà khơng phải sử dụng vốn ngay.
Ngân hàng có thêm cơ hội để sử dụng nguồn vốn đó vào các hoạt động đầu tư
khác vì việc giải ngân sẽ chỉ diễn ra trong tương lai khi có những vi phạm xảy
ra. Khi khách hàng có u cầu bảo lãnh họ cần phải kí quỹ một khoản tiền
nhất định, được giữ trong tài khoản phong tỏa. Ngân hàng kiếm lời từ việc thu
phí và cũng có thể chiếm dụng vốn mà khơng cần phải trả lãi.
Điều kiện quan trọng để ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này chính là uy
tín của ngân hàng. Uy tín của ngân hàng càng cao thì số lượng cũng như chất
lượng các hợp đồng bảo lãnh càng lớn. Điều này có nghĩa rằng khi thực hiện
bảo lãnh để tăng thu nhập cho mình các ngân hàng cũng đang nâng cao uy tín
và hình ảnh đối với khách hàng.
Ngồi ra, nghiệp vụ bảo lãnh được thực hiện còn thúc đẩy việc mở rộng
các nghiệp vụ khác như : thanh toán, chuyển tiền, chuyển đổi và mua bán
ngoại tệ trong những hợp đồng kinh tế của khách hàng với nước ngoài.
12
1.2.3.2 Đối với hoạt động của doanh nghiệp
Đối với người được bảo lãnh:
Bảo lãnh ngân hàng giúp giảm bớt sự căng thẳng về nguồn vốn hoạt
động của doanh nghiệp. Trong những hợp đồng cụ thể, do bên được bảo lãnh
chưa đủ uy tín với bên thụ hưởng, họ có thể yêu cầu ngân hàng bảo lãnh, nhờ
đó bên thụ hưởng bảo lãnh sẽ tài trợ trước một phần vốn cho bên được bảo
lãnh giúp họ tiếp tục sản xuất kinh doanh một cách thuận lợi mà không phải
đi vay mượn.
Đối với hình thức bảo lãnh vay vốn trong và ngồi nước thì bảo lãnh
ngân hàng góp phần đáp ứng u cầu phát triển và mở rộng sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt là những hợp đồng mua thiết bị vật tư trả
chậm, bảo lãnh ngân hàng tạo điều kiện thu hút vốn mạnh mẽ. Doanh nghiệp
có thể tiếp cận và ứng dụng các công nghệ hiện đại để phát triển và mở rộng
hoạt động kinh doanh của mình.
Trong hợp đồng bảo lãnh qui định nếu doanh nghiệp không hồn thành
được nghĩa vụ của mình họ sẽ phải bồi hoàn giá trị hợp đồng lớn hơn giá trị
ban đầu tức là giá trị hợp đồng cộng với mức lãi, phạt nhất định. Trong quá
trình thực hiện hợp đồng, ngân hàng phát hành cũng thường xuyên kiểm tra
giám sát tạo ra áp lực thực hiện tốt hợp đồng, giảm thiểu vi phạm từ phía
người được bảo lãnh.Cho nên việc bảo lãnh của ngân hàng cũng thúc đẩy
doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc hơn, hoàn thành đúng tiến độ hợp đồng đã kí
với bên đối tác.
Khách hàng có nhu cầu ngân hàng bảo lãnh cũng sẽ được hưởng các
dịch vụ đi kèm như tư vấn về việc phân tích tình hình tài chính, đánh giá vốn
vay và sử dụng vốn vay hiệu quả. Kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của ngân hàng vì vậy ngân hàng
ln có những hỗ trợ kịp thời và hiệu quả cho doanh nghiệp được bảo lãnh.
13
Đối với người thụ hưởng bảo lãnh:
Khi đã có bảo lãnh của ngân hàng, người thụ hưởng bảo lãnh sẽ có một
đảm bảo chắc chắn cho việc thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh.
Bằng cam kết của ngân hàng rằng sẽ bồi thường cho người thụ hưởng bảo nếu
như xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh,bên thụ hưởng
bảo lãnh sẽ yên tâm hơn khi kí kết hợp đồng và cũng khơng cần tốn kém thời
gian, chi phí cho việc tìm hiểu đối tác. Khi có rủi ro xảy ra họ chỉ cần xuất
trình những bằng chứng chứng tỏ sự vi phạm của bên được bảo lãnh thì ngân
hàng sẽ phải thực hiện nghĩa vụ trả thay vô điều kiện.
1.2.3.3 Đối với nền kinh tế
Chính sách kinh tế nước ta đã phát triển theo nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa thì bảo lãnh là một nghiệp vụ rất cần thiết. Bảo
lãnh ngân hàng là chất xúc tác giúp cho các hợp đồng thương mại xây
dựng,các giao dịch hàng hóa trong nước và quốc tế được kí kết một cách
thuận lợi, đáp ứng nhu cầu về vốn cũng như giúp doanh nghiệp có điều kiện
tiếp xúc với cơng nghệ tiên tiến trên thế giới, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.
Bảo lãnh ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc hơn
đồng nghĩa với việc lành mạnh hóa mơi trường kinh doanh trong nước.Doanh
nghiệp làm ăn hiệu quả hơn góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế đất
nước.
Với những ý nghĩa trên, bảo lãnh ngân hàng đóng vai trị ngày càng
quan trọng trong hoạt động ngân hàng, hoạt động của doanh nghiệp cũng như
cả nền kinh tế.
1.2.4. Các văn bản pháp luật điều chỉnh nghiệp vụ bảo lãnh
- Luật các tổ chức tín dụng ngày 12/12/1997 và luật sửa đổi bổ sung
một số điều của luật các tổ chức tín dụng ngày 1/10/2004.
14
- Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/08/2000 của Thống
đốc ngân hàng Nhà nước về việc ban hành qui chế bảo lãnh ngân hàng.
- Quyết định số 386/2001/QĐ-NHNN ngày 11/04/2001 của ngân hàng
Nhà nớc về việc sửa đổi bổ sung quyết định 283.
- Quyết định số 112/2003/QĐ-NHNN ngày 11/04/2001 của ngân hàng
Nhà nước về việc sửa đổi bổ sung quyết định 283.
- Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/06/2006 của Thống đốc
ngân hàng Nhà nước về việc ban hành qui chế bảo lãnh ngân hàng.
Ngồi ra cịn một số văn bản pháp luật khác liên quan điều chỉnh từng
loại bảo lãnh cụ thể.
1.2.5. Phân loại bảo lãnh Ngân hàng
1.2.5.1. Căn cứ vào bản chất của bảo lãnh
1.2.5.1.1. Bảo lãnh đồng nghĩa vụ
Là loại bảo lãnh mang tính truyền thống. Đặc trưng của loại bảo lãnh
này là ngân hàng và người được bảo lãnh được xem là cùng nghĩa vụ. Tuy
nhiên nghĩa vụ của khách hàng là nghĩa vụ đầu tiên, nghĩa vụ của ngân hàng
là nghĩa vụ bổ sung. Nghĩa vụ bổ sung chỉ được thực hiện khi và chỉ khi có
bằng chứng xác nhận về việc nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm. Loại bảo lãnh này
thường ít được sử dụng trong các giao dịch quốc tế mà chủ yếu sử dụng trong
phạm vi nội địa là do đặc trưng của bảo lãnh đồng nghĩa vụ đòi hỏi ngân hàng
phải can thiệp khá sâu vào hợp đồng kinh tế giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh
1.2.5.1.2. Bảo lãnh độc lập
Là loại bảo lãnh của ngân hàng hiện đại. Cơ chế hoạt động dựa trên hai
nguyên tắc là nguyên tắc độc lập và nguyên tắc hoàn toàn phù hợp. Tức là
nghĩa vụ của người được bảo lãnh và của ngân hàng hoàn toàn tách rời nhau
và việc thanh toán chỉ căn cứ vào những điều khoản, điều kiện của văn bản
15
bảo lãnh. Tuy nhiên tính độc lập của loại bảo lãnh này mang tính tương đối,
phụ thuộc vào các điều kiện thanh toán đã được qui định trong thư bảo lãnh
giữa ngân hàng và người thụ hưởng bảo lãnh. Bảo lãnh độc lập mang lại sự
thuận lợi lớn cho cả người thụ hưởng bảo lãnh và ngân hàng phát hành cho
nên loại bảo lãnh này được sử dụng chủ yếu trong các giao dịch quốc tế
1.2.5.2. Căn cứ vào mục đích bảo lãnh
1.2.5.2.1. Bảo lãnh dự thầu
Bảo lãnh dự thầu là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư (hay chủ
thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các
quy định trong hợp đồng dự thầu.
- Mục đích: Đảo bảo cho việc người dự thầu không rút lui, không ký
hợp đồng hay thay đổi ý định đã được trúng thầu. Nếu người dự
thầu đã trúng thầu nhưng không ký hợp đồng thì chủ thầu (người thụ
hưởng) sẽ rút dần thanh tốn từ bảo lãnh để trang trải cho chi phí
đấu thầu, thiệt hại do chậm tiến độ thi công hay chi phí để tổ chức
lại một cuộc đấu thầu khác.
- Trị giá của bảo lãnh: Thơng thường có giá trị từ 1- 5% giá trị hợp
đồng đấu thầu.
Thời hạn hiệu lực: Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh sẽ chỉ chấm dứt khi
bên được bảo lãnh (người tham gia dự thầu) không trúng thầu hoặc sau khi ký
kết hợp đồng hoặc chấp nhận ký kết hợp đồng nếu bên được bảo lãnh trúng
thầu.
1.2.5.2.2. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của ngân hàng về việc chi trả
tổn thất thay cho khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp
đồng như cam kết, gây tổn thất cho bên thứ ba. Các hợp đồng được bảo lãnh
như hợp đồng cung cấp hàng hoá, xây dựng, thiết kế…
16
- Mục đích: Trong trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng cấp
không đúng hạn, không đúng chất lượng cam kết.. thì đều gây tổn
thất cho bên thứ ba. Và bảo lãnh ngân hàng một mặt bù đắp một
phần tổn thất cho bên thứ ba (đảm bảo cho họ tránh được rủi ro) mặt
khác thúc đẩy khách hành nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng.
- Trị giá của bảo lãnh: Tùy theo loại hình và quy mơ hợp đồng, giá trị
bảo lãnh thực hiện hợp đồngtừ 10 – 15 % tổng giá trị hợp đồng.
Trường hợp đặc biệt, mức bảo lãnh thực hiện hợp đồng có thể yêu
cầu trên 15% nhưng phải được người có thẩm quyền quyết định đầu
tư chấp thuận. Tuy nhiên số tiền bảo lãnh có thể giảm dần theo tiến
độ thực hiện hợp đồng.
- Thời hạn hiệu lực: Thư bảo lãnh có giá trị cho đến ngày hoàn thành
hợp đồng. Thời hạn hiệu lực được xác định cụ thể theo thoả thuận
giữa hai bên. Thời hạn sẽ bắt đầu từ ngày kết thúc đấu thầu kéo dài
đến khi hồn thành hợp đồng như: hàng hố đã giao xong, máy móc
thiết bị đã được vận hành, cơng trình đã đưa vào sử dụng…
1.2.5.3.3. Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước
Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước là cam kết của ngân hàng về việc hoàn
trả tiền ứng trước cho bên mua (người hưởng bảo lãnh) nếu bên cung cấp
(người được bảo lãnh) không trả hoặc trả khơng đầy đủ.
- Mục đích: đảm bảo cho bên hưởng bảo lãnh sẽ nhận lại được số tiền
trước kia đã đặt cọc cho bên được bảo lãnh để giúp thực hiện hợp
đồng như đã thỏa thuận, nhưng trên thực tế không thực hiện được.
Bảo lãnh tiền ứng trước thường được sử dụng trong các hợp đồng
mua bán máy móc thiết bị hoặc các hợp đồng có giá trị lớn.
-
Trị giá của bảo lãnh: số tiền bảo lãnh bằng số tiền đặt cọc (kể cả tiền
lãi) được tính từ ngày nhận được số tiền đặt cọc tới ngày giao hàng
17
cuối cùng cộng thêm một số ngày để bên thụ hưởng làm thủ tục đòi
tiền. Bảo lãnh loại này cũng có một số điều khoản quy định giảm
giá trị bảo lãnh tương ứng với số lượng hàng hoá được giao đối với
các loại hàng hố sản xuất, máy móc, cơng trình… số tiền đặt cọc
thường từ 5- 10% giá trị hợp đồng.
- Thời hạn hiệu lực: bằng thời gian thực hiện hợp đồng tức là kể từ
khi người được bảo lãnh nhận được số tiền đặt cọc cho đến ngày
giao hàng cuối cùng, có thể cộng thêm một số ngày làm thủ tục đòi
tiền do hai bên quy định.
1.2.5.2.4. Bảo lãnh bảo hành chất lượng sản phẩm theo hợp đồng
Bảo lãnh bảo hành chất lượng sản phẩm theo hợp đồng là loại bảo lãnh
mà ngân hàng bảo lãnh cam kết với chủ thầu trong trường hợp chủ thầu vi
phạm hợp đồng về chất lượng sản phẩm phải bồi thường cho chủ thầu mà nhà
thầu không bồi thường hoặc bồi thường khơng đủ thì ngân hàng bảo lãnh phải
chịu trách nhiệm trả thay cho nhà thầu.
- Mục đích: loại bảo lãnh này áp dụng chủ yếu trong xây dựng và các
hợp đồng cung ứng thiết bị đồng bộ để bảo hành thiết bị máy móc…
Trong thời gian bảo hành này nếu có sự cố xảy ra đối với sản phẩm
phát sinh do chất lượng sản phẩm khơng đảm bảo thì bên nhận bảo
lãnh có quyền yêu cầu được bồi thường từ phía ngân hàng bảo lãnh.
- Trị giá bảo lãnh: Theo thoả thuận thường bằng 5 – 10% giá trị hợp
đồng.
Thời hạn hiệu lực: Từ lúc bắt đầu lắp ráp sử dụng thiết bị cho đến hết
thời hạn bảo hành của thiết bị.
1.2.5.2.5. Bảo lãnh bảo đảm thanh toán
Bảo lãnh bảo đảm thanh toán là cam kết của ngân hàng về việc thanh
toán tiền theo đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng
18
của ngân hàng khơng thanh tốn đủ.
- Mục đích: Cung cấp sự đảm bảo cho người thụ hưởng có thể nhận
được khoản thanh toán một cách thuận lợi, đầy đủ đúng hạn về các
sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ đã cung ứng cho người được bảo
lãnh.
-
Trị giá bảo lãnh: Số tiền bảo lãnh thường bằng 100% giá trị hợp
đồng.
- Thời hạn hiệu lực: Do các bên tự thoả thuận.
1.2.5.3.6. Bảo lãnh hoàn trả vốn vay
Bảo lãnh hoàn trả vốn vay là cam kết của ngân hàng đối với người cho
vay (tổ chức tín dụng, các cá nhân..) về việc sẽ trả gốc và lãi đúng hạn nếu
khách hàng (người đi vay) không trả được. Việc bảo lãnh này thường rất phức
tạp, khối lượng tiền bảo lãnh lớn nên rủi ro của ngân hàng trong trường hợp
người đi vay không trả được nợ cũng lớn theo. Vì vậy ngân hàng cần phải
xem xét kỹ tính khả thi của dự án, tài sản thế chấp.. trước khi phát hành thư
bảo lãnh.
-
Trị giá của bảo lãnh: Theo thoả thuận, có thể chỉ gồm phần gốc hoặc
có tính cả lãi và chi phí, phải quy định rõ lãi và chi phí đã thoả thuận
chưa hay cịn phải tính tiếp.
Thời hạn hiệu lực: Là thời hạn hồn trả tín dụng đã thoả thuận, tốt nhất
quy định khoảng 10 ngày kể từ ngày nợ đến hạn
1.2.5.3. Căn cứ vào phương thức phát hành bảo lãnh
1.2.5.3.1. Bảo lãnh trực tiếp
Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng phát hành bảo
lãnh chịu trách nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh, người được bảo lãnh
chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh. Loại
19
bảo lãnh này chịu sự chi phối của luật trong nước và khi hết hạn có thể trực
tiếp tất tốn với với người bảo lãnh mà khơng cần có sự hoàn trả thư bảo lãnh.
Ưu điểm của loại bảo lãnh này là người được bảo lãnh khơng phải mất
thêm phí cho ngân hàng đại lý nước ngoài (ngân hàng trung gian) và thường
được sử dụng trong các quan hệ kinh tế trong nước.
Bảo lãnh trực tiếp thơng thường có ba bên tham gia: Ngân hàng phát
hành bảo lãnh, bên được bảo lãnh, bên hưởng bảo lãnh. Trường hợp bên
hưởng bảo lãnh là người nước ngồi thì có thể thêm ngân hàng ở cùng quốc
gia với bên hưởng bảo lãnh với vai trị là ngân hàng thơng báo. Ngân hàng
thơng báo.
Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp:
NGÂN HÀNG
(3)
PHÁT HÀNH
NGÂN HÀNG
(5)
(2)
BÊN ĐƯỢC
THÔNG BÁO
(4)
(1)
BÊN HƯỞNG
BẢO LÃNH
BẢO LÃNH
(1) Bên được bảo lãnh và bên hưởng bảo lãnh ký kết một hợp đồng cơ
sở trong đó quy định các điều khoản bảo lãnh
(2) Bên được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành thư
bảo lãnh. Bên được bảo lãnh phải chắc chắn rằng những chỉ thị phát hành bảo
lãnh của mình cho ngân hàng là chính xác và rõ ràng. Ngân hàng phát hành sẽ
không chịu trách nhiệm về những chỉ thị phát hành sai, khơng chính xác,
khơng rõ ràng.
Bên xin bảo lãnh có thể phải ký quỹ thế chấp cầm cố tài sản của mình
theo yêu cầu của ngân hàng để xin ngân hàng mở bảo lãnh. Ngân hàng
20
sẽ xem xét tình hình tài chính, tư cách pháp nhân, phương án kinh
doanh để quyết định xem có bảo lãnh hay không.
(3) Ngân hàng phục vụ bên được bảo lãnh phát hành thư bảo lãnh và đề
nghị ngân hàng có trụ sở tại nước bên thụ hưởng thơng báo và chuyển nội
dung thư bảo lãnh tới bên thụ hưởng
(4) Ngân hàng thông báo thực hiện việc thông báo và chuyển nội dung
thư bảo lãnh cho bên thụ hưởng
(5) Trường hợp ngân hàng phát hành trực tiếp đến bên hưởng, không
qua ngân hàng thông báo
1.2.5.3.2. Bảo lãnh gián tiếp
Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng bảo lãnh đã phát
hành bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ cho bên
được bảo lãnh dựa trên một loại bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng hoặc
thư tín dụng dự phịng. Bảo lãnh gián tiếp được thực hiện thường do bên
hưởng bảo lãnh mong muốn thu bảo lãnh được một ngân hàng có trụ sở tại
nước mình phát hành để thuận tiện cho giao dịch hoặc địi tiền sau này. Vì
vậy, bên được bảo lãnh phải yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chỉ định một
ngân hàng đóng trụ sở tại nước thụ hưởng phát hành bảo lãnh. Ngân hàng thứ
nhất trong quan hệ trên gọi là Ngân hàng chỉ dẫn, ngân hàng thứ hai gọi là
Ngân hàng phát hành. Mối quan hệ giữa hai ngân hàng này được thể hiện
bằng văn bản của Ngân hàng chỉ dẫn đề nghị Ngân hàng phát hành thực hiện
việc phát hành bảo lãnh và văn bản của Ngân hàng chỉ dẫn cam kết bồi hoàn
cho Ngân hàng phát hành nếu Ngân hàng phát hành thanh toán bảo lãnh. Việc
này thể hiện bằng một văn bản đối ứng hoặc thư tín dụng dự phịng.
Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp:
NGÂN HÀNG
(3)
NGÂN HÀNG
CHỈ DẪN
PHÁT HÀNH
(2)
(4)
(1)
BÊN ĐƯỢC
BẢO LÃNH
21
BÊN HƯỞNG
BẢO LÃNH
(1) Bên được bảo lãnh và bên hưởng bảo lãnh ký kết hợp đồng cơ sở
trong đó có quy định các điều khoản về bảo lãnh
(2) Bên được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình (ngân hàng chỉ
dẫn) phát hành bảo lãnh
(3) Ngân hàng phục vụ cho bên được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng có
quan hệ đại lý với mình đóng trụ sở tại nước người thụ hưởng phát hành thư
bảo lãnh kèm theo thư bảo lãnh đối ứng hoặc thư tín dụng dự phịng cho ngân
hàng đại lý bên hưởng bảo lãnh
(4) Ngân hàng đại lý phát hành thư bảo lãnh cho bên hưởng bảo lãnh
1.2.5.3.3. Đồng bảo lãnh
Khi ngân hàng thấy mức độ rủi ro lớn của món bảo lãnh hoặc do giới
hạn của luật định mà muốn khách hàng được bảo lãnh nhiều hơn có thể ngân
hàng đó sẽ mời thêm các ngân hàng khách cùng tham gia bảo lãnh. Đây là
trường hợp nhiều ngân hàng cùng bảo lãnh cho một khách hàng với quyền
hạn trách nhiệm như nhau hoặc phân theo một tỷ lệ nhất định.
BÊN ĐƯỢC
NGÂN HÀNG A
BẢO LÃNH
NGÂN HÀNG B
BÊN HƯỞNG
NGÂN HÀNG C
BẢO LÃNH
(1) Bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng ký kết hợp đồng cơ sở
22
(2) Các ngân hàng bảo lãnh cho bên được bảo lãnh
(3) Bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng
(4) Bên thụ hưởng yêu cầu các ngân hàng thực hiện nghĩa vụ
(5) Các ngân hàng thực hiện phần nghĩa vụ của mình
1.2.5.4. Căn cứ vào điều kiện thanh tốn của bảo lãnh
1.2.5.4.1. Bảo lãnh vơ điều kiện
Ở loại hình bảo lãnh vơ điều kiện, ngân hàng có trách nhiệm thanh tốn
ngay không hủy ngang khi nhận được văn bản khiếu nại đầu tiên của bên
hưởng bảo lãnh chỉ ra rằng bên được bảo lãnh không thực hiện theo đứng hợp
đồng mà khơng cần kèm theo bất kì chứng từ nào chứng minh họ bị vi phạm
hợp đồng. Trong trường hợp bên được bảo lãnh chứng minh được mình
khơng vi phạm hợp đồng thì họ có quyền đi kiện để địi lại số tiền đã trả cho
người bảo lãnh.
Bảo lãnh vô điều kiện thường bất lợi cho người được bảo lãnh vì việc
bồi thường mang tính chủ quan nên có thể xảy ra trường hợp gian lận, dối trá
của bên hưởng bảo lãnh.
1.2.5.4.2. Bảo lãnh có điều kiện
Bảo lãnh có điều kiện là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng chỉ trả tiền
cho bên thụ hưởng khi bên thụ hưởng xuất trình đủ chứng từ pháp lý đã được
quy định trong thư bảo lãnh để có thể chứng minh bên được bảo lãnh vi phạm
hợp đồng. Bảo lãnh có điều kiện đảm bảo quyền lợi cho bên được bảo lãnh.
Tuy nhiên nếu quy định khơng rõ ràng thủ tục địi tiền thì dễ phát sinh tranh
chấp giữa hai bên. Do vậy, trên thực tế bảo lãnh có điều kiện ít được sử dụng
trong nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng thương mại
1.3. Phát triển hoạt động bảo lãnh Ngân hàng Thương mại
1.3.1. Quan niệm về phát triển nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng
Thương mại
23
Nếu như thư tín dụng đã được các ngân hàng sử dụng rơng rãi từ những
năm 30 thì bảo lãnh ngân hàng mới chỉ ra đời và phát triển vào đầu thập niên
70 của thế kỷ này. Sự phát triển nhanh chóng của các quốc gia sản xuất dầu
hoả ở Trung Đông trong thời gian này cho phép họ ký kết những hợp đồng
lớn với các công ty phương Tây cho những dự án lớn như cải tiến cơ sở hạ
tầng, các tiện ích cơng cộng, dự án cơng nơng nghiệp và quốc phòng. Nguồn
gốc phát sinh nhu cầu bảo lãnh ngân hàng đặc biệt là bảo lãnh thanh toán
ngay lần đầu là từ khu vực này.
Với sự phát triển của thương mại quốc tế ,các giao dịch ngày càng mang
tính tồn cầu. Ví dụ các cơng ty kiến trúc của Hà Lan và Anh có thể cùng
tham gia liên doanh các công ty khác trong một dự án xây dựng một sân bay
và một số cơng trình phụ trợ ở Arập, thuê các nhà thầu phụ Nam Triều Tiên,
mua thiếp bị từ nhà cung cấp ở Pháp.Tầm cỡ và sự phức tạp của các giao dịch
đòi hỏi và thúc đẩy sự phát triển của bảo lãnh ngân hàng.
Bảo lãnh ngân hàng được sử dụng mạnh mẽ trên thế giới và đạt được
doanh số kỷ lục.Chỉ riêng tại Hà Lan, doanh số các loại bảo lãnh do các ngân
hàng Hà Lan phát hành trong năm 1980 là 12. 850 triệu NGL. Con số này
tăng lên 26. 281 triệu NGL vào năm 1990.( Theo số liệu công bố ngày
10/7/1990 của Uỷ ban kiểm soát của Ngân hàng trung ương Hà Lan). Còn
theo Uỷ ban soạn thảo Điều khoản sửa đổi Luật thương mại Hoa Kỳ: Đến
cuối 1995 số tiền bảo lãnh còn hiệu lực tại các ngân hàng Hoa Kỳ lên tới 500
tỷ USD trong đó bảo lãnh của khách hàng Mỹ là 250 tỷ. Trị giá của từng loại
bảo lãnh cũng lên tới hàng chục triệu USD.
Bảo lãnh ngân hàng cịn được phát triển cả về hình thức sử dụng. Thoạt
đầu là loại bảo lãnh có điều kiện được bắt đầu từ thị trường Mỹ. Với các loại
như bảo lãnh bổ xung , bảo lãnh tiền bảo chứng, nó tỏ ra không hiệu quả và
24
bất lợi cho bên yêu cầu bảo lãnh và do người bảo lãnh có thể viện dẫn lý do
biện hộ để khơng thanh tốn dẫn tới các tranh cãi phát sinh. Các ngân hàng
cũng ngần ngại khi phát hành những bảo lãnh này vì họ khơng muốn dính líu
đến các rắc rối trong hợp đồng. Bảo lãnh chỉ được sử dụng ở một số nước
châu Phi, Trung Đơng ít thơng dụng ở thị trường châu Âu. Loại bảo lãnh được
sử dụng nhiều nhất là bảo lãnh thanh toán theo yêu cầu hay bảo lãnh vô điều
kiện.Với loại này người thụ huởng được thanh tốn khi có u cầu mà khơng
cần đưa ra chứng cứ về sự vi phạm. Một số nước vận dụng pha trộn giữa hai
loại trên miễn rằng các bên chấp thuận và ngân hàng đồng ý phát hành.
Hiện nay bảo lãnh ngân hàng phát triển rộng rãi trên nhiều lĩnh vực. Có
thể chắc chắn rằng những thương vụ lớn với nước ngồi hiện nay khơng thể
khơng có một dạng nào đó của bảo lãnh đi kèm.
Bảo lãnh còn đưởc sử dụng rộng rãi trong trị trường nội địa do tính đa
dạng và năng động của nó. Bảo lãnh không chỉ hỗ trợ cho các hợp đồng
thương mại mà cả các giao dịch phi thương mại, tài chính, phi tài chính như:
bảo lãnh thanh tốn, hồn trả tiền ứng trước, thực hiện hợp đồng, bảo lãnh
thuế quan...
Bảo lãnh khơng chỉ được thực hiện như một loại hình dịch vụ mà cịn là
một cơng cụ tài trợ cho các doanh nghiệp. Cùng với tín dụng chứng từ, bảo
lãnh là một trong những loại hình giao dịch thơng dụng và phổ biến nhất
trong các hoạt động ngân hàng trên thế giới.
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng
Thương mại
1.3.2.1. Các chỉ tiêu phản ánh về số lượng
1.3.2.1.1. Sự mở rộng về đối tượng và số lượng khách hàng
25