Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.63 KB, 80 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2006 đánh dấu 20 năm đổi mới của Đảng và Nhà nước và kết quả là
thành tựu mà công cuộc đổi mới mang lại là vô cùng lớn. Đồng thời bước sang
thế kỷ mới, thế kỷ 21 – một thế kỷ đánh dấu sự phát triển của toàn nhân loại. Hoà
nhịp cùng xu thế phát triển ấy, Việt Nam cũng đang có những bước đi vững chắc
trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Có thể nhận định rằng trong những năm qua, nền kinh tế thị trường
Việt Nam đã đạt được những thành tựu khả quan, từng bước tạo điều kiện cho
nước ta tham gia, hoà nhập vào nền kinh tế rộng lớn của thế giới đang diễn ra một
cách năng động, đa dạng và sâu sắc. Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thế
giới trong xu hướng toàn cầu hoá đem lại rất nhiều có hội nhưng cũng không ít
thách thức và rủi ro cho hoạt động kinh tế của Việt Nam nói chung và của ngành
ngân hàng nói riêng.
Ngành ngân hàng với nhiều hoạt động truyền thống như hoạt động huy
động vốn, hoạt động đầu tư cho vay thì một số hoạt động mới cũng ra đời đáp
ứng đòi hỏi cấp thiết của nền kinh tế. Hoạt động bảo lãnh cũng là một hoạt động
ra đời theo yêu cầu đó - yêu cầu khách quan và chủ quan hạn chế rủi ro trong
hoạt động kinh doanh nhằm phòng ngừa rủi ro, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh
doanh thông qua việc đảm bảo cho khách hàng bằng uy tín của ngân hàng. Hoạt
động bảo lãnh không những tạo điều kiện cho khách hàng nắm bắt được các cơ
hội kinh doanh mà còn nâng cao uy tín cũng như vị thế của ngân hàng trong khu
vực và trên thế giới.
Tuy nghiệp vụ bảo lãnh quan trọng như vậy nhưng so với các nghiệp vụ
truyền thống khác thì nghiệp vụ bảo lãnh còn khá mới mẻ. Do đó, nghiệp vụ bảo
lãnh chưa được hoàn thiện về mặt quy trình, về trình độ chuyên môn nghiệp vụ
của cán bộ, một số loại hình bảo lãnh và các sản phẩm từ hoạt động bảo lãnh vẫn
chưa được thực hiện. Đôi khi, rủi ro phát sinh ngay từ chính bản thân doanh
nghiệp. Xuất phát từ những lý do đó, việc phát triển hoạt động bảo lãnh theo
Chuyên đề thực tập
chiều rộng và theo chiều sâu là vô cùng cần thiết để đáp ứng những đòi hỏi cấp
bách của nền kinh tế


Từ những lý do đó, đồng thời được thực tập tại Phòng Khách hàng doanh
nghiệp trong Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thanh Xuân và tìm hiểu về
nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng nên em đã chọn đề tài: “Giải pháp phát triển
hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương Thanh Xuân” làm chuyên đề
thực tập. Chuyên đề được trình bày ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu
tham khảo, bao gồm ba chương chính:
Chương 1: Nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng Công thương
Việt Nam
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân
hàng Công thương Việt Nam.
Dưới sự giúp đỡ của các cán bộ phòng Khách hàng doanh nghiệp của
Ngân hàng, đồng thời việc hoàn thành chuyên đề của em là được sự chỉ bảo,
hướng dẫn tận tình của PGS – TS Nguyễn Thị Thu Thảo. Em xin chân thành cảm
ơn!
Sau đây là những nội dung trong chuyên đề thực tập của em:
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG 1
NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Với quá trình hình thành và phát triển lâu đời, cho đến nay các ngân hàng đã
trở thành một hệ thống lớn mạnh trên toàn cầu góp phần chi phối các hoạt động
sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế. Trong đó, ngân hàng thương mại
chiếm ưu thế bởi sự đa dạng về chức năng, linh hoạt trong cung cấp dịch vụ, ưu
thế về qui mô tài sản cũng như số lượng của các ngân hàng thương mại.
Các tổ chức tài chính quốc tế định nghĩa ngân hàng là tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng,
tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so

với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng
phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các
loại hình ngân hàng khác.” Luật pháp cũng quy định: “Hoạt động ngân hàng là
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán ”.
Xuất phát từ mục tiêu hoạt động được quy định, ngân hàng thương mại đóng vai
trò là một trung gian tài chính đắc lực của nền kinh tế. Ngân hàng khắc phục mâu
thuẫn vốn có giữa người cho vay và người đi vay, chuyển tiết kiệm thành đầu tư,
làm cầu nối giữa hai bộ phận thặng dư chi tiêu và thâm hụt chi tiêu trong nền kinh
Chuyên đề thực tập
tế. Nhờ có sự đa dạng hoá, sự chuyên nghiệp của ngân hàng thương mại mà sự
cho vay, đầu tư được giảm thiểu và phân tán rủi ro. Mặt khác, khả năng thẩm định
thông tin tốt đã giúp ngân hàng vượt qua được tình trạng “ thông tin không đỗi
xứng “ trên thị trường tạo ra khả năng sinh lợi cho ngân hàng.
Ngoài chức năng làm trung gian tài chính, ngân hàng thương mại còn là thủ
quỹ của doanh nghiệp. Với những nghịêp vụ như nhận tiền gửi, cho vay, thanh
toán, chuyển khoản…, ngân hàng có vị trí quan trọng trong việc cất trữ tiền của
doanh nghiệp cũng như phục vụ doanh nghiệp thanh sử dụng số tiền đó.NNgân
hàng thương mại tạo ra tiền dựa trên lượng tiền cơ sở ngân hàng trung ương phát
hành. Thông qua các nghiệp vụ của mình, qui mô vốn tín dụng mà ngân hàng
thương mại tạo ra là rất lớn. Do đó, hệ số tạo tiền cao và khả năng tạo tiền của
ngân hàng thương mại có thể vượt qua sự kiểm soát của ngân hàng Nhà nước nếu
ngân hàng Nhà nước không có các quy định chặt chẽ về hoạt động của ngân hàng
thương mại.
Hiện nay, ngân hàng đã trở thành những trung gian thanh toán lớn nhất tại

hầu hết các quốc gia. Thay cho khách hàng, ngân hàng thương mại thực hiện
thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ với những phương thức thanh toán không
dùng tiền mặt hết sức thuận lợi. Các ngân hàng còn tiến hành thanh toán bù trừ
lẫn nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh
toán bằng những công nghệ thanh toán hiện đại, đạt hiệu quả cao.
Tóm lại, nhờ sự chuyên môn hoá và công nghệ hiện đại, ngân hàng ngày
một trở thành công cụ đắc lực phục vụ cho nền kinh tế. Thành công của các ngân
hàng thương mại còn đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội.
1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ
vàng và nghề cho vay nặng lãi. Trải qua hàng trăm năm phát triển, ngày nay ngân
hàng thương mại đã có bốn nghiệp vụ cơ bản như huy động vốn, cấp tín dụng,
Chuyên đề thực tập
thanh toán và hoạt động khác. Trong đó, nghiệp vụ huy động vốn và cấp tín dụng
là hai nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng thương mại.
Nghiệp vụ huy động vốn thuở sơ khai xuất phát từ nhu cầu cất trữ hộ tiền
của những người giàu có. Thực hiện cất trữ hộ đã làm tăng thu nhập, tăng khả
năng đa dạng các loại tiền, tăng quy mô tài sản của người kinh doanh tiền tệ. Huy
động vốn thông qua cất trữ hộ tiền là một điều kiện để nghiệp vụ thanh toán ra
đời. Dần dân, cùng với sự phát triển của ngành ngân hàng, huy động vốn không
chỉ là giữ hộ tiền mà còn là đi vay từ những người có vốn nhàn rỗi. Đến nay,
trong thời kỳ hiện đại, ngân hàng thực hiện nghiệp vụ huy động thông qua các
hoạt động chủ yếu sau: huy động tiền gửi gồm có tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết
kiệm của dân cư, tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, tiền gửi
của các ngân hàng khác. Ngân hàng cũng huy động vốn thông qua tiền vay gồm
tiền vay Ngân hàng nhà nước, vay các tổ chức tín dụng khác và vay trên thị
trường vốn…
Song song với nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ tín dụng là một nghiệp
vụ mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. Chính vì vậy, hoạt động tín dụng là
động lực thúc đẩy hoạt động huy động vốn để tìm kiếm những nguồn vốn mới.

Ngân hàng thương mại cung cấp các hình thức tín dụng đa dạng từ cho vay ngắn
hạn, trung và dài hạn cho đến cho vay tiêu dùng, tài trợ dự án, bảo lãnh, leasing
(thuê mua). Nghiệp vụ huy động vốn và nghiệp vụ tín dụng đã giúp ngân hàng
thực hiện được chức năng trung gian tài chính, đáp ứng nhu cầu luân chuyển vốn
trong nền kinh tế.
Nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng ra đời không những tiện lợi cho khách
hàng truyền thống mà còn khuyến khích các khách hàng mới tăng tiền gửi vào
ngân hàng để sử dụng dịch vụ. Cùng với sự phát triển của công nghệ hiện đại,
thanh toán không dùng tiền mặt thông qua ngân hàng đã mang lại lợi ích cao, tiết
kiệm thời gian và chi phí. Các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt gồm có
séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, LC (letter of credit), hối phiếu, tín dụng chứng
từ…
Chuyên đề thực tập
Ngoài những nghiệp vụ trên, ngân hàng còn thực hiện nhiều nghiệp vụ mới
nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng đồng thời tăng khả năng cạnh tranh trên thị
trường. Ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho khách hàng như dịch vụ môi giới
mua bán chứng khoán, mua bán tài sản, đầu tư, dịch vụ tư vấn: cung cấp các tiện
ích như dịch vụ hỗ trợ sau cho vay, home – banking, dịch vụ uỷ thác… Lợi nhuận
mà những loại hình này đem lại đang dần thay đổi tỷ trọng doanh thu trong các
ngân hàng hiện đại trên thế giới.
Trong ngân hàng, nghiệp vụ bảo lãnh cũng được coi là một nghiệp vụ tín
dụng được phân theo hình thức cấp tín dụng . Tuy nhiên, nghiệp vụ bảo lãnh là
một nghiệp vụ mới được hình thành dựa trên nhu cầu của khách hàng về bảo đảm
sự tin cậy trong quan hệ kinh tế. Do đó, nghiệp vụ bảo lãnh có những đặc điểm và
tính chất riêng biệt so với nghiệp vụ tín dụng. Có thể nhận định rằng, nghiệp vụ
bảo lãnh là một nghiệp vụ có tiềm năng mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
1.2. Nghiệp vụ bảo lãnh tai Ngân hàng thương mại
Khi nền kinh tế thị trường phát triển, sự giao lưu buôn bán trong một quốc
gia và giữa các quốc gia trở nên phổ biến. Mặc dù thông tin kinh tế rất đa dạng
nhưng không phải lúc nào các doanh nhân cũng có đầy đủ thông tin về đối tác

kinh doanh. Sự cần thiết của chữ tín trong quan hệ kinh tế là rất quan trọng nhưng
không thể được xác lập ngay lần đầu. Trong khi đó, ngân hàng với vị trí là một tổ
chức tài chính trung gian lại có đầy đủ uy tín và thông tin về khách hàng. Xuất
phát từ nhu cầu bảo đảm uy tín cho khách hàng và khả năng đáp ứng của ngân
hàng, nghiệp vụ bảo lãnh ra đời đã giải quyết nhu cầu cấp bách trong nền kinh tế.
1.2.1. Khái niệm nghiệp vụ bảo lãnh
Chuyên đề thực tập
Ở mỗi nước khác nhau lại có một định nghĩa về nghiệp vụ bảo lãnh, tuy
nhiên bản chất của nghiệp vụ bảo lãnh là không thay đổi. Theo luật các tổ chức
tín dụng và quyết định 283/QĐ - NHNN nước ngày 25/03/2000:
- B ảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên
bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên bảo lãnh. Khách hàng
phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã đước trả thay.
- B ên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng đã được quy định tại điều 3 của Quy
chế bảo lãnh ngân hàng theo quyết định 283/2000 của NHNN gồm có:
+ Ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân
hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng liên doanh,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Viêt Nam, ngân hàng hợp tác, các loại hình
ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng thành lập và hoạt động
theo Luật tổ chức tín dụng được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng theo quy
định của pháp luật có liên quan và quy định tại Quy chế này.
+ Các ngân hàng được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện
thanh toán quốc tế được thực hiện bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán và các hình
thức bảo lãnh khác mà bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân nước ngoài.
+ Tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh hối phiếu, lệnh phiếu theo quy định
của pháp luật về thương phiếu.
- B ên được bảo lãnh là các khách hàng được quy định tại điều 4 của Quy
chế bảo lãnh ngân hàng theo Quyết định 283/2000 của Ngân hàng Nhà nước gôm

có:
+ Các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam:
doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
hợp danh, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, doanh
nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
doanh nghiệp tư nhân.
Chuyên đề thực tập
+ Các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức
tín dụng.
+ Hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại điều 94 của
Bộ luật dân sự.
+ Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh
và tham gia đấu thầu các dự án tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án
đầu tư tại Việt Nam.
+ Hộ kinh doanh cá thể.
Theo bản sửa đổi số 112 ngày 11/02/2003, những đối tượng không được
bảo đảm bao gồm:
+ Thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc, phó tổng
giám đốc của tổ chức tín dụng.
+ Cán bộ nhân viên đang thực hiện thẩm định bảo lãnh.
+ Bố mẹ, vợ chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, ban kiểm soát,
tổng giám đốc, phó tổng giám đốc. Tuy nhiên, bố mẹ, vợ chồng, con của tổng
giám đốc, phó tổng giám đốc nếu có nhu cầu bảo lãnh sẽ được hội sở chính của tổ
chức tín dụng quyết định.
- Bên nhận bảo lãnh là các cá nhân tổ chức trong và ngoài nước có quyền
thụ hưởng các cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng.
Bản chất của bảo lãnh là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. Nhờ nguồn
tài trợ này khách hàng có thể thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh
một cách thuận lợi và nhanh chóng. Tuy nhiên, bảo lãnh ngân hàng phải có những
yếu tố phân biệt với các loại bảo lãnh khác như:

- Bảo lãnh ngân hàng là cam kết về nghĩa vụ tài chính.
- Bảo lãnh ngân hàng chỉ được thực hiện khi có sự vi phạm hợp đồng của
khách hàng.
- Bảo lãnh ngân hàng không phải phương tiện thanh toán mà là phương tiện
bảo đảm.
Chuyên đề thực tập
Bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng và được theo dõi ngoài bảng cân
đối kế toán. Khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ tài chính cam kết thì
ngân hàng sẽ phải chịu trách nhiệm chi trả hoặc bồi thường cho người được bảo
lãnh. Trong trường hợp đó, ngân hàng sẽ hạch toán ghi nợ khách hàng. Nếu khách
hàng không có khả năng trả thì khoản nợ đó sẽ đưa vào nợ xấu, nợ quá hạn và áp
dụng lãi phạt.
Chính vì trường hợp khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ cam kết
hoàn toàn có thể xảy ra nên bảo lãnh chính là một cách để san sẻ rủi ro đồng thời
tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính giữa ngân hàng với khách hàng. Qua hoạt
động bảo lãnh, ngân hàng và khách hàng cùng có lợi. Khách hàng nhờ có sự đảm
bảo của ngân hàng có thể tiến hành kinh doanh mà không gặp trở ngại. Về phía
ngân hàng, bảo lãnh đem lại khoản thu, chủ yếu là phí bảo lãnh và các phí khác

liên quan đến hoạt động bảo lãnh.
1.2.2. Đặc điểm của nghiệp vụ bảo lãnh.
- B ảo lãnh là một nghiệp vụ được hình thành dựa trên sự thoả thuận của
các bên tham gia. Trong nghiệp vụ bảo lãnh có ba tài liệu cơ sở gồm hợp đồng
ban đầu giữa bên được bảo lãnh, thư bảo lãnh do ngân hàng phát hành cho bên
nhận bảo lãnh. Sau khi thẩm định các vấn đề liên quan, ngân hàng chấp nhận bảo
lãnh cho khách hàng (bên được bảo lãnh). Ngân hàng và khách hàng sẽ tự thoả
thuận với nhau về hình thức bảo lãnh, điều kiện trả tiền và các điều kiện khác.
Trong trường hợp ký hợp đồng bảo lãnh, điều khoản trong đó cũng phải được
hình thành từ sự thoả thuận của ngân hàng và khách hàng. Thư bảo lãnh do ngân
hàng phát hành vẫn phải dựa trên hợp đồng ban đầu và bất cứ sự thay đổi nào đều

phải có sự đồng ý của các bên liên quan.
- Bảo lãnh là một cam kết bằng văn bản do đó tất cả các hoạt động có liên
quan đến bảo lãnh đều phải được lập trên cơ sở chứng từ. Hợp đồng bảo lãnh,
Chuyên đề thực tập
hợp đồng cơ sở ban đầu, thư bảo lãnh đều được lập bằng văn bản. Tất cả các
chứng từ, tài liệu đều phải đầy đủ thông tin theo quy định và được theo dõi bảo
quản.
- B ảo lãnh có tính độc lập đối với các văn bản khác. Mặc dù có trích thông
tin từ các văn bản đó nhưng hợp đồng bảo lãnh độc lập với các bên nhận bảo
lãnh, thư bảo lãnh độc lập với bên được bảo lãnh, hợp đồng ban đầu độc lập với
ngân hàng. Cụ thể, người đứng ra cam kết phải chịu trách nhiệm trả tiền ngày lần
đầu tiên người thụ hưởng có yêu cầu cho dù có sự nghi ngờ và điều tra giữa bên
được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Theo UCP 845 của ICC, “ về bản chất bảo
lãnh là giao dịch tách rời khỏi hợp đồng cơ sở hay các điều kiện dự thầu mà bảo
lãnh lấy làm căn cứ và bên nhận bảo lãnh không hề quan tâm hay bị ràng buộc
bởi hợp đồng và các điều kiện dự thầu đó, dù có trích tham chiếu đến chúng trong
bảo lãnh”.
- B ảo lãnh có hiệu lực mạnh vì nó là một cam kết không huỷ ngang và vô
điều kiện với người thụ hưởng. Khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ tài chính của
mình thay cho khách hàng, bất kể khách hàng đó trong thực tế có thật sự vi phạm
hợp đồng ban đầu hay không, ngân hàng vẫn phải chi trả cho bên nhận bảo lãnh
một cách vô điều kiện.
1.2.3. Vai trò của nghiệp vụ bảo lãnh.
Nghiệp vụ bảo lãnh rất có ý nghĩa không chỉ đối với bên nhận bảo lãnh, bên
được bảo lãnh mà còn đối với ngân hàng và nền kinh tế. Bên nhận bảo lãnh là bên
yều cầu đối tác của mình phải có thư bảo lãnh của ngân hàng. Thư bảo lãnh của
ngân hàng chính là một sự đảm bảo để bên nhận bảo lãnh tin tưởng hợp tác với
bên được bảo lãnh. Bảo lãnh mang chức năng pháp lý vì thông qua thư bảo lãnh,
bên được bảo lãnh phải thừa nhận nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của mình. Nhờ
vậy, bên thụ hưởng có thể tiếp tục thực hiện hoạt động kinh doanh một cách suôn

Chuyên đề thực tập
sẻ và thuận lợi. Bảo lãnh thực chất đã tạo lòng tin cho bên nhận bảo lãnh trong
giao dịch với đối tác.
Ngược lại đối với bên được bảo lãnh, khoản bảo lãnh giúp bên được bảo
lãnh chiếm dụng vốn của người thụ hưởng trong một thời gian dưới nhiều hình
thức. Nhờ đó, rút ngắn được vòng quay của vốn và đẩy nhanh được quá trình sản
xuất kinh doanh, lưu thông hàng hoá. Bên được bảo lãnh chỉ phải trả một khoản
phí cho ngân hàng bảo lãnh và được đảm bảo đầy đủ quyền lợi theo hợp đồng
kinh doanh ban đầu. Mặt khác, bảo lãnh đã thực hiện một chức năng thúc đẩy đối
với khách hàng. Vì khi vi phạm hợp đồng, bên được bảo lãnh phải chi phí bồi
thường và những chi phí này thường lớn nên buộc bên được bảo lãnh phải thực
hiện đúng hợp đồng ký kết.
Nói chung, đối với cả hai nghiệp vụ, bảo lãnh đã góp phần bỏ hình thức đặt
cọc trong giao dịch giữa bên mua và bên bán, giúp bên mua có thể sử dụng số tiền
đặt cọc đó vào mục đích khác có lợi hơn. Đồng thời bảo lãnh ngân hàng giúp các
bên rút ngắn thời gian tìm hiểu đối tác, rút ngắn khoảng cách địa lý và tiết kiệm
chi phí. Những đối tác ở vùng châu á hoàn toàn có thể yên tâm giao dịch với các
đối tác từ khắp nơi trên thế giới vì đã có sự bảo lãnh của các ngân hàng có quan
hệ địa lý với các ngân hàng đặt tại nước mình.
Bảo lãnh là một trong những cách khắc phục hậu qủa khi xảy ra tổn thất
nhằm giảm thiểu thiệt hại cho các bên tham gia đặc biệt là với bên nhận bảo lãnh.
Đây chính là chức năng đền bù của bảo lãnh. Bên nhận bảo lãnh sẽ được ngân
hàng bù đắp thiệt hại nếu có sự vi phạm hợp đồng. Ngoài ra, trong nền kinh tế thị
trường cạnh tranh hiện nay, cơ hội kinh doanh rất quý giá đối với tất cả các thành
phần kinh tế. Chính vì vậy, bảo lãnh là một công cụ đắc lực để các khách hàng
của ngân hàng kịp thời nắm bắt được các cơ hội kinh doanh.
Đối với bản thân ngân hàng, bảo lãnh góp phần huy động những nguồn vốn
lớn thông qua hoạt động ký quỹ cho bảo lãnh. Ngân hàng chỉ phải trả lãi không
ky hạn cho những khoản ký quỹ đặc biệt là những khoản ký quỹ lớn và có thời
Chuyên đề thực tập

hạn bảo lãnh tương đối dài. Không phải nguồn vốn nào cũng có điều kiện thuận
lợi cho ngân hàng khi huy động đặc biệt về lãi áp dụng như các khoản bảo lãnh.
Trong nền kinh tế, khi các đơn vị kinh tế được tạo điều kiện thuận lợi để sản xuất
kinh doanh thì bộ máy của nền kinh tế cũng được vận hành có hiệu quả. Nhờ có
nghiệp vụ bảo lãnh làm thông suốt hoạt động kinh doanh, mô hình luân chuyển
H-T được đẩy nhanh, rút ngắn vòng quay của vốn trong nền kinh tế thị trường.
Đây là một đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế nói chung trên thế giới.
1.2.4. Phân loại
1.2.4.1. Theo phương thức phát hành.
- B ảo lãnh trực tiếp là loại hình bảo lãnh ngân hàng mà trong đó ngân hàng
phát hành cam kết thanh toán không huỷ ngang trực tiếp với bên nhận bảo lãnh.
Đồng thời bên được bảo lãnh cũng phải thực hiện nghĩa vụ trực tiếp với ngân
hàng phát hành bảo lãnh.
Bảo lãnh trực tiếp thường được sử dụng trong phạm vi một quốc gia và chịu
sự chi phối của pháp luật trong nước. Ngân hàng bảo lãnh sẽ trực tiếp gửi thư bảo
lãnh đến bên thụ hưởng và khi hết hạn có thể trực tiếp tất toán với người hưởng
mà không cần sự hoàn trả thư gốc. Tuy nhiên, đối với trường hợp ngân hàng phát
hành có ngân hàng đại lý tại nước ngoài nơi bên nhận bảo lãnh đóng trụ sở, ngân
hàng đại lý đó sẽ đóng vai trò là ngân hàng thông báo thư bảo lãnh cho bên thụ
hưởng. Ngân hàng thông báo không chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Sơ đồ 1: Sơ đồ bảo lãnh trực tiếpS
Ngõn hàng bảo lónh
Bờn được b ảo lónh
Bờn nhận b ảo lónh
((2)(9((22)
(1)
(3)
Chuyên đề thực tập
Trường hợp đặc biệt của phương thức bảo lãnh trực tiếp là bảo lãnh phát

hành trái phiếu. Ngân hàng phát hành cũng có nghĩa vụ trực tiếp với công ty thực
hiện phát hành trái phiếu nhưng người yêu cầu bảo lãnh và người thụ hưởng là
một. Ngân hàng và công ty phát hành trái phiếu sẽ ký hợp đồng bảo lãnh thanh
toán qua trái phiếu đối với người mua. Nếu công ty không thu đủ số tiền cần huy
động trong lần phát hành trái phiếu, ngân hàng sẽ bù đắp.
- Bảo lãnh gián tiếp là loại hình bảo lãnh mà ngân hàng phát hành đã phát
hành bảo lãnh thay cho một ngân hàng khác phục vụ bên được bảo lãnh. Ngân
hàng phục vụ bên được bảo lãnh phải có quan hệ đại lý với ngân hàng phát hành
bảo lãnh và được gọi là ngân hàng chỉ dẫn. Hai ngân hàng liên hệ với nhau bằng
văn bản. Khi tổn thất xảy ra, trước hết ngân hàng phát hành sẽ chịu trách nhiệm
bồi thường trực tiếp với bên thụ hưởng, sau đó yêu cầu ngân hàng chỉ thị thanh
toán. Tiếp theo, ngân hàng chỉ thị sẽ buộc bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ
trả nợ cho mình. Quan hệ pháp lý ở đây là quan hệ thực thi nghiệp vụ bảo lãnh
cùng với việc làm rõ trách nhiệm giữa ngân hàng nước ngoài và ngân hàng trong
nước người được bảo lãnh.
Hình 2: Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp
Ngân hàng phát hành
Ngân hàng chỉ dẫn
Bên được bảo lãnh
Bên nhận bảo lãnh
(3)
(4)
(1)
(2)
(1) Bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh ký kết hợp đồng kinh tế.
(2) Bên được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng chỉ dẫn chỉ định một ngân hàng
tại nước của bên nhận bảo lãnh để phát hành thư bảo lãnh.
Chuyên đề thực tập
(3) Ngân hàng chỉ dẫn yêu cầu ngân hàng phát hành phát hành thư bảo lãnh
cùng thư bảo lãnh đối ứng cho bên nhận bảo lãnh.

(4) Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh cho bên nhận bảo lãnh.
- Đồng bảo lãnh là loại hình bảo lãnh được áp dụng cho những khoản bảo
lãnh lớn, vượt quá khả năng của một ngân hàng làm được. Để giảm thiểu rủi ro do
những khoản bảo lãnh lớn gây ra, nhiều ngân hàng cùng đứng ra thực hiện bảo
lãnh. Một ngân hàng sẽ được chọn làm ngân hàng phát hành, các ngân hàng còn
lại đóng vai trò thành viên. Ngân hàng phát hành sẽ chịu trách nhiệm thu phí và
chịu trách nhiệm thanh toán nếu phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Sau đó, dựa
vào tỷ lệ đóng góp của các thành viên để chia số phí thu được hoặc truy đòi trách
nhiệm.
Hình 3: Sơ đồ đồng bảo lãnh.
Ngân hàngN thành viên
Ngân hàngNthành viên
Ngân hàngN thành viên
Ngân hàng thành viên
Bờn được b ảo lónh
Bờn nhận b ảo lónh
(2)
(3)
(1)
(1) Bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh ký kết hợp đồng kinh tế.
(2) Bên được bảo lãnh yêu cầu các ngân hàng xem xét phát hành thư bảo
lãnh.
(3) Ngân hàng phát hành gửi thư bảo lãnh đến bên nhận bảo lãnh.
1.2.4.2.Theo phương thức đòi tiền.
- Bảo lãnh có điều kiện là loại bảo lãnh trong trường hợp ngân hàng phải
thanh toán chỉ khi bên nhận bảo lãnh xuất trình đầy đủ các giấy tờ được quy định
từ trước như bằng chứng vi phạm có thể xác nhận của bên được bảo lãnh, các vận
đơn, hoá đơn thương mại…
Chuyên đề thực tập
Bảo lãnh có điều kiện bảo vệ quyền lợi của bên được bảo lãnh nhằm tránh

mọi sự lợi dụng hoạt động bảo lãnh của bên thụ hưởng để chiếm đoạt tài sản. Tuy
nhiên, bảo lãnh có điều kiện lại gây cản trở cho bên nhận bảo lãnh khi nhận bồi
thường.
- Bảo lãnh vô điều kiện là loại hình bảo lãnh mà ngân hàng sẽ thanh toán
ngay cho bên thụ hưởng khi có sự vi phạm hợp đồng xảy ra. Ngân hàng chỉ yêu
cầu bên nhận bảo lãnh gửi công văn ghi rõ sự vi phạm kèm theo bản gốc hợp
đồng ban đầu.
Bảo lãnh vô điều kiện lại đảm bảo quyền lợi cho bên nhận bảo lãnh. Tuy
bảo lãnh vô điều kiện bất lợi cho bên được bảo lãnh khi bên thụ hưởng gian dối
nhưng lại được sử dụng phổ biến hiện nay vì tính thuận tiện trong giao dịch.
1.2.4.3. Theo mục tiêu bảo lãnh.
- B ảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu là một bảo lãnh ngân hàng do ngân
hàng phát hành cho chủ thầu để đảm bảo nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách
hàng. Trong trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà
không nộp hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Giá trị bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu thường chiếm từ 1 đến 5% giá trị
hợp đồng kinh tế giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Bảo lãnh sẽ hết
hiệu lực khi người tham gia dự thầu không trúng thầu hoặc đã trúng thầu và ký
kết hợp đồng với chủ thầ. Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu tránh cho chủ thầu
bị thiệt hại khi người tham gia dự thầu rút lui hoặc thay đổi không ký hợp đồng
khi đã trúng thầu.
- B ảo lãnh thực hiện hợp đồng l à một bảo lãnh của ngân hàng cho bên
nhận bảo lãnh nhằm bảo đảm thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách
hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trong trường hợp khách
Chuyên đề thực tập
hàng không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng thì tổ chức tín
dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Bảo lãnh thường được phát hành cho người bán. Giá trị bảo lãnh từ 5 đến
10% giá trị hợp đồng theo thoả thuận của các bên. Trong trường hợp đặc biệt, giá

trị bảo lãnh có thể lên đến 15% hoặc giảm dần theo tiến độ thực hiện hợp đồng.
- B ảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước hay bảo lãnh hoàn thanh toán
là một bảo lãnh ngân hàng đảm bảo cho bên nhận bảo lãnh về việc đảm bảo nghĩa
vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận
bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng với bên nhận bảo lãnh
và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ tiền
ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì ngân hàng sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho
bên nhận bảo lãnh.
- B ảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm là một bảo lãnh của ngân hàng
đảm bảo khách hàng của mình thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng sản
phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách
hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất
lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền
phạt cho bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã
cam kết.
- B ảo lãnh vay vốn là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay (tổ
chức tín dụng, cá nhân…) về việc trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng (người
đi vay) không trả được. Bảo lãnh vay vốn rất phức tạp trong khâu thẩm định
khách hàng và tài sản đảm bảo. Những khoản vay có thể lớn, rủi ro cao trong khả
năng trả nợ có thể khiến ngân hàng từ chối bảo lãnh.
- Bảo lãnh đảm bảo thanh toán là một bảo lãnh ngân hàng cho bên nhận bảo
lãnh rằng ngân hàng cam kết sẽ thanh toán tiền theo đúng hợp đồng thanh toán
cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đủ. Giá trị
bảo lãnh có thể là 100% hoặc 110% trị giá hợp đồng tuỳ theo các bên thoả thuận.
Chuyên đề thực tập
Loại hình bảo lãnh nay đảm bảo cho nhà cung cấp được thanh toán đầy đủ và
đúng hạn sau khi đã giao hàng hoá cho bên mua.
- B ảo lãnh bảo hành là cam kết của ngân hàng về việc bồi thường giá trị
bảo lãnh cho bên nhần bảo lãnh (người có chứng nhận bảo hành) không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ bảo hành như đã quy định.

- B ảo lãnh phát hành là một bảo lãnh ngân hàng cho công ty phát hành trái
phiếu rằng ngân hàng cam kết thanh toán tiền mua trái phiếu cho người hưởng
nếu công ty không có khả năng trả hoặc trả không đủ vốn vay cho người mua trái
phiếu khi đến hạn.
1.2.4.4. Theo tính chất
- Bảo lãnh có thể chuyển nhượng và bảo lãnh không thể chuyển nhượng:
Bảo lãnh có thể chuyển nhượng là loại bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh có
thể chuyển quyền thụ hưởng cho một đối tượng khác không giới hạn, miễn là
quyền chuyển nhượng đó được ghi rõ từ khi bảo lãnh được phát hành.
Ngược lại, bảo lãnh không thể chuyển nhượng là loại bảo lãnh mà bên nhận
bảo lãnh không được chuyển quyền thụ hưởng cho đối tượng khác. Điều này cũng
phải được ghi rõ ngay khi phát hành bảo lãnh.
- Bảo lãnh tuần hoàn là một bảo lãnh ngân hàng mà giá trị bảo lãnh được
lập lại như cũ sau thời hạn một năm.
- Bảo lãnh xác nhận là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng (bên
nhận bảo lãnh) phát hành cho bên nhận bảo lãnh để đảm bảo cho khả năng thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng được xác nhận bảo lãnh (bên được
xác nhận bảo lãnh). Trong trường hợp bên được xác nhận bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình đã cam kết đối với bên nhận
bảo lãnh thì bên xác nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được xác
nhận bảo lãnh.
Chuyên đề thực tập
1.2.4.5. Theo tài sản đảm bảo.
- B ảo lãnh có tài sản đảm bảo là loại hình bảo lãnh có áp dụng các hình
thức bảo lãnh như: ký quỹ, cầm cố tài sản, thế chấp tài sản. Ký quỹ một phần
hoặc toàn bộ giá trị bảo lãnh. Sau khi bảo lãnh kết thúc, tuỳ từng trường hợp cụ
thể mà ngân hàng sẽ xử lý tài sản đảm bảo này hoặc trả cho bên được bảo lãnh.
- B ảo lãnh không có tài sản đảm bảo là loại hình bảo lãnh chỉ cần đảm bảo
bằng uy tín như bảo lãnh của bên thứ ba. Sau khi kết thúc, nếu phải thực hiện
nghĩa vụ thì bên bảo lãnh thứ ba sẽ thực hiện trước tiên. Nếu không phải thực

hiện nghĩa vụ, ngân hàng không phải xử lý về tài sản đảm bảo.
1.2.5. Quy trình bảo lãnh.
Quy trình bảo lãnh nói chung gồm những bước sau:
Bước 1: Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi ngân hàng ghi rõ số
tiền, điều kiện bảo lãnh. Ngân hàng phân tích khách hàng, hợp đồng kinh tế giữa
khách hàng và bên thứ ba, yêu cầu bảo lãnh của bên thứ ba. Qua đó, ngân hàng
xác định rủi ro và các biện pháp phòng ngừa.
Bước 2: Ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng.
Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng độc lập với hợp đồng kinh tế giữa khách
hàng và ngân hàng thể hiện ràng buộc tài chính giữa ngân hàng và bên thứ ba.
Nội dung chính của hợp đồng:
- Số tiền và thời hạn bảo lãnh của ngân hàng.
- Các điều khoản vi phạm hợp đồng kinh tế dẫn đến nghĩa vụ chi trả cuả
ngân hàng .
- Các tài liệu cần thiết mà bên thứ ba cần có để chứng minh sự vi phạm hợp
đồng của bên được bảo lãnh.
- Hình thức bảo lãnh.
Chuyên đề thực tập
- Phí bảo lãnh, số tiền ký quỹ hoặc tài sản đảm bảo cho bảo lãnh mà khách
hàng phải thực hiện đối với ngân hàng.
- Trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng khi ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ
với bên thứ ba.
Bước 3: H ình thức bảo lãnh.
Ngân hàng có thể thực hiện bảo lãnh dưới các hình thức sau:
- Phát hành thư bảo lãnh: hình thức áp dụng cho mọi loại bảo lãnh.
- Mở thư tín dụng: áp dụng cho bảo lãnh thanh toán.
- Ký hối phiếu nhận nợ: áp dụng cho bảo lãnh vay vốn.
- Khách hàng sẽ thoả thuận hoặc trực tiếp yêu cầu ngân hàng hình thức bảo
lãnh.
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động bảo lãnh của ngân hàng

thương mại.
Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại đang ngày càng đóng vai trò
tích cực trong hoạt động ngân hàng. Hoạt động bảo lãnh không ngừng mang lại
lợi nhuận mà còn nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường đầy biến động và
cạnh tranh. Để có thể làm tốt công tác bảo lãnh, sau một thời gian hoạt động,
ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá hoạt động bảo lãnh trong một thời kỳ đó nhằm
rút kinh nghiệm. Kết quả hoạt động của phòng bảo lãnh không chỉ ghi nhận
những thành tựu các cán bộ ngân hàng đã làm được mà còn chỉ ra những hạn chế
cần được khắc phục.
Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hoạt động bảo lãnh tại một ngân hàng khác
nhau thì khác nhau. Tuy nhiên, về bản chất, các chỉ tiêu vẫn bao gồm chỉ tiêu
mang tính chất định lượng và chỉ tiêu mang tính định tính. Sau khi tổng hợp các
số liệu, cán bộ phòng bảo lãnh sẽ tiến hành phân tích và lập báo cáo thường niên
của bộ phận bảo lãnh.
Chuyên đề thực tập
1.3.1. Các chỉ tiêu định lượng.
- Trong số những chỉ tiêu định lượng, chỉ tiêu có tính chất đánh giá và bao
trùm hơn cả là chỉ tiêu doanh thu từ hoạt động bảo lãnh. Chỉ tiêu doan thu cho
biết số tiền mà khách hàng trả ngân hàng cho dịch vụ bảo lãnh và các dịch vụ
khác đi kèm. Doanh thu bảo lãnh được tính từ tổng số phí mà bảo lãnh đã thu
được từ khách hàng.
Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh ngoài số liệu tuyệt đối còn phải được xem
xét trong mối tương quan với doanh thu từ các hoạt động khác của ngân hàng. Đó
là tỷ trọng doanh thu từ hoạt động bảo lãnh trong tổng doanh thu của ngân hàng.
Chỉ tiêu cho biết khả năng sinh lời và vị trí của hoạt động bảo lãnh trong ngân
hàng. Chỉ tiêu này được tính như sau:
Tỷ trọng doanh thu từ hoạt động bảo lãnh (%)
=
Doanh thu từ hoạt động bảo lónh
Tổng doanh thu của ngân hàng

x
100
- Chỉ tiêu chi phí từ hoạt động bảo lãnh phản ánh các khoản tiền mà ngân
hàng bỏ ra để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và các nghĩa vụ khác có liên quan đến
hoạt động bảo lãnh. Chi phí từ hoạt động bảo lãnh bao gồm khoản tiền thanh toán
cho bên nhận bảo lãnh khi bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng, các khoản phí
và thuế khác. Chi phí này được đưa vào chi phí ngoài lãi để hạch toán.
Chi phí từ hoạt động bảo lãnh không những phản ánh số tiền ngân hàng đã
chi trả trong hoạt động bảo lãnh mà còn cho thấy mức độ hiệu qủa của công tác
bảo lãnh trong thời gian đó. Nếu chi phí bảo lãnh quá lớn và liên quan đến việc
thực hiện bồi thường cho người hưởng chứng tỏ hoạt động bảo lãnh không thành
công, quá trình thẩm định có sai sót hoặc công tác quản lý, phòng ngừa rủi ro
Chuyên đề thực tập
chưa tốt. Giảm chi phí một cách tương đối trong hoạt động bảo lãnh chính là một
cách để tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
- Bên cạnh doanh thu và chi phí, lãi từ hoạt động bảo lãnh cũng là một chỉ
tiêu hết sức quan cho biết khả năng sinh lời của hoạt động bảo lãnh. Lãi từ hoạt
động bảo lãnh chính là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí đã bỏ ra trong
hoạt động bảo lãnh để đạt được doanh thu đó.
Lãi từ hoạt động bảo lãnh= Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh – Chi phí từ
hoạt động bảo lãnh
Lãi từ hoạt động bảo lãnh cũng góp phần tạo nguồn để ngân hàng tái đầu tư
mở rộng hoạt động nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng. Lãi năm nay tăng
trong tương quan so sánh với chi phí, doanh thu và lãi của năm trước sẽ phản ánh
sự gia tăng về chất lượng và giá trị của khoản bảo lãnh.
- Doanh số bảo lãnh trong năm là một chỉ tiêu cho thấy số lượng bảo lãnh
được thực hiện trong năm. Chỉ tiêu thường được xem xét cùng với các chỉ tiêu
khác để đánh giá mức độ hiệu quả của công tác bảo lãnh. Số lượng bảo lãnh được
thực hiện trong năm nay tăng so với năm trước chưa chắc đã thể hiện chất lượng
hoạt động bảo lãnh tăng và doanh thu từ hoạt động bảo lãnh tăng.

- Ngoài các chỉ tiêu trên, ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu dư nợ bảo lãnh
quá hạn để phân tích. Sau khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết
thay cho bên được bảo lãnh, ngân hàng sẽ đưa số tiền trả thay đó vào khoản nợ
của khách hàng. Đến kỳ hạn trả nợ, nếu khách hàng không có khả năng thanh
toán và không được gia hạn nợ thì khoản tiền đó sẽ được đưa vào nợ quá hạn và
áp dụng lãi phạt. Tuy nhiên, nếu khoản nợ quá hạn phát sinh từ một khoản bảo
lãnh có thời hạn trên một năm thì tính chính xác của chỉ tiêu này không cao. Có
thể các khoản nợ quá hạn từ hoạt động bảo lãnh phát sinh trong năm không lớn
nhưng nợ quá hạn từ năm trước còn đọng lại thì sẽ làm ảnh hưởng đến sự nhìn
nhận đúng đắn về tính hiệu quả của hoạt động bảo lãnh trong năm.
Chuyên đề thực tập
Ngân hàng cũng sẽ xem xét chỉ tiêu nay trong mối quan hệ với doanh số
bảo lãnh trong năm.
Các khoản nợ quá hạn từ hoạt động bảo lãnh sẽ được xử lý như nợ quá hạn
từ hoạt động tín dụng khác. Nợ quá hạn từ 6 tháng đến 1 năm là nợ quá hạn khê
đọng. Nợ quá hạn từ một năm trở lên là nợ quá hạn khó đòi.
- Kết hợp phân tích cùng với các chỉ tiêu trên, ngân hàng sử dụng hệ thống
các chỉ tiêu tổng hợp về tài đảm bảo, tính đa dạng của sản phẩm bảo lãnh và mức
phí cạnh tranh so với các ngân hàng khác…
1.3.2. Các chỉ tiêu định tính.
Không kém phần quan trọng, các chỉ tiêu định tính cung cấp cho ngân hàng
sự đánh giá từ những góc độ khác nhau. Bản thân ngân hàng không thể tự hoàn
thiện mình nếu như không có sự phản hồi của nền kinh tế và khách hàng.
Xét trrên góc độ tổng thể của nền kinh tế, hoạt động bảo lãnh sẽ đáp ứng
được nhu cầu phát triển kinh tế nếu chiến lược phát triển hoạt động bảo lãnh của
ngân hàng phù hợp với chiến lược phát triển chung của toàn xã hội. Chỉ tiêu mức
độ đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế được phân tích dựa trên cơ cấu của hoạt động
bảo lãnh so với cơ cấu của nền kinh tế. Nếu những hoạt động bảo lãnh của ngân
hàng phục vụ những ngành nghề, những hoạt động kinh doanh được ưu tiên phát
triển thì chắc chắn hoạt động bảo lãnh góp không nhỏ cho nền kinh tế.

Mặt khác, hiệu quả của hoạt động bảo lãnh còn thể hiện ở tổng giá trị gia
tăng mà hoạt động bảo lãnh tạo ra cho xã hội. Bất cứ một hoạt động dịch vụ nào
trong ngân hàng cũng tạo ra giá trị gia tăng. Tuy nhiên, để tính được một cách
chính xác lượng giá trị gia tăng từ hoạt động bảo lãnh phải thông qua giá trị gia
tăng từ hoạt động tín dụng nói chung. Ngân hàng sẽ dựa vào doanh số hoạt động
bảo lãnh so với tổng số lượng các khoản tín dụng để tính toán chỉ tiêu này.
Sự phản hồi của khách hàng cũng là một yếu tố quan trọng đánh giá chất
lượng hoạt động bảo lãnh. Khách hàng tìm đến những dịch vụ ngân hàng bởi sự
Chuyên đề thực tập
thuận tiện trong sử dụng giúp khách hàng nắm bắt được cơ hội kinh doanh.
Khách hàng không chỉ yêu cầu sự đảm bảo của ngân hàng mà còn yêu cầu sự
nhanh chóng về thời gian xem xét, sự đơn giản về thủ tục tiến hành, sự thuận lợi
trong các điều khoản mà ngân hàng cung cấp. Mức ký quỹ thấp cùng một mức
phí phù hợp trong hoàn cảnh cạnh tranh khắc nghiệt giữa các ngân hàng sẽ càng
hấp dẫn khách hàng. Chất lượng dịch vụ sẽ được phản ánh đầy đủ khi khách hàng
sử dụng dịch vụ và phản hồi kết quả điều tra từ phía khách hàng.
1.3.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động bảo lãnh.
Bất cứ một đơn vị nào khi tham gia vào hoạt động kinh tế đều chịu sự tác
động của rất nhiều yếu tố trong nền kinh tế và ngân hàng cũng không phải là một
ngoại tệ. Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng bị chi
phối bởi rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Những nhân tố này quyết định
đến hoạt động bảo lãnh từ nhiều khía cạnh, tác động trực tiếp đến hướng phát
triển của hoạt động này trong hiện tại và tương lai.
Một trong các yếu tố đầu tiên mang tính chất khách quan có tầm ảnh hưởng
quan trọng là môi trường. Môi trường ở đây như một chiếc kiềng ba chân bao
gồm ba yếu tố môi trường chính trị, môi trường pháp luật, môi trường kinh tế.
Môi trường chính trị xã hội là một tác nhân vĩ mô tác động một cách tổng
hợp đến mọi hoạt động kinh tế xã hội. Môi trường chính trị xã hội có ổn định thì
mọi hoạt động kinh tế mới có thể diễn ra thuận lợi. Ngược lại, nếu một xã hội bất
ổn thì chắc chăn kèm theo đó là một nền kinh tế phát triển không lành mạnh. Hoạt

động bảo lãnh cũng không nằm ngoài quy luật chung ấy. Với một thể chế chính trị
bền vững và phù hợp với xu thế thời đại, các ngân hàng mới được tạo điều kiện
đẩy mạnh hoạt động bảo lãnh của mình trong nhiều quan hệ kinh tế khác nhau khi
hoạt động đầu tư và hoạt động thương mại gia tăng. Các nhà đầu tư rất quan tâm
đến sự ổn định về mặt chính trị và các ngân hàng coi đó là một tiền đề tất yếu để
hoạt động bảo lãnh được ra đời và phát triển.
Chuyên đề thực tập
Bên cạnh môi trường chính trị xã hội, môi trường pháp luật cũng tác động
không nhỏ đến bất cứ hoạt động kinh tế nào trong một quốc gia. Tuân thủ pháp
luật là nghĩa vụ và trách nhiệm của tất cả đối tượng trong đó có các ngân hàng và
hoạt động ngân hàng. Hệ thống pháp luật có đầy đủ, đồng bộ thì ngân hàng mới
có thể xây dựng những chiến lược kinh doanh hiệu quả bao gồm cả chiến lược
kinh doanh phát triển hoạt động bảo lãnh. Với mỗi quốc gia khác nhau, hệ thống
văn bản pháp lý quy định hoạt động bảo lãnh có thể khác nhau nhưng bản chất
hoạt động bảo lãnh là không đổi. Điều các ngân hàng lưu ý khi thực hiện các hoạt
động bảo lãnh là chấp hành pháp luật, giữ nguyên bản chất và ý nghĩa kinh tế
đúng đắn của hoạt động đó. Tuy nhiên, trong khi chấp hành các hoạt động bảo
lãnh, ngân hàng vấp phải những khó khăn xuất phát từ các văn bản và các yêu cầu
thực tế phát sinh cần được điều chỉnh. Vì vậy, hoàn thiện các văn bản pháp quy
cho hoạt động bảo lãnh đang ngày càng trở nên cần thiết.
Sẽ là thiếu cân đối nếu không kể đến yếu tố môi trường kinh tế – một chân
trong chiếc kiềng ba chân vững chãi. Môi trường kinh tế chính trị là nơi phát sinh
đòi hỏi phải có sự ra đời của hoạt động bảo lãnh. Sự phát triển không ngừng của
nền kinh tế khiến cho môi trường kinh tế vừa hứa hẹn nhiều cơ hội thuận lợi vừa
chứa đựng những yếu tố cạnh tranh khắc nghiệt và rủi ro không thể ngờ tới đối
với tất cả các nhà đầu tư. Sự biến đổi của môi trường kinh tế sẽ tác động đến xu
hướng của hoạt động bảo lãnh. Môi trường kinh tế thuận lợi có thể làm gia tăng
các hoạt động thương mại từ đó làm gia tăng quy mô cũng như chất lượng của
hoạt động bảo lãnh. Mặt khác, môi trường kinh tế biến động theo chiều hướng bất
lợi sẽ làm giảm khả năng phát triển của hoạt động bảo lãnh.

Nhân tố khách quan thứ hai tác động đến hoạt động bảo lãnh là khách hàng.
Khách hàng chính là chủ thể tham gia trực tiếp vào hoạt động bảo lãnh. Khách
hàng bao gồm cá nhân và doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thực
hiện hoạt động bảo lãnh, tính đa năng và mức độ hoàn thiện trong hoạt động bảo
lãnh. Hoạt động bảo lãnh chỉ có thể được tiến hành khi khách hàng có đủ điều
kiện được bảo lãnh. Điều kiện được bảo lãnh sẽ xét trên góc độ năng lực tài chính
Chuyên đề thực tập
và khả năng tài chính đảm bảo cho khoản bảo lãnh là chủ yếu. Khách hàng có
một khả năng tài chính tốt cùng với những khoản đảm bảo chắc chắn cho ngân
hàng sẽ góp phần tạo hiệu quả trong hoạt động bảo lãnh.
Tính đa dạng trong sản phẩm bảo lãnh xuất phát từ chính nhu cầu của khách
hàng. Khách hàng luôn muốn có các sản phẩm bảo lãnh phù hợp với từng hoạt
động giao dịch đồng thời có các yếu tố thuận lợi cho công việc kinh doanh của
họ. Chính vì vậy, để cạnh tranh với các đối thủ khác, ngân hàng không những
phải cung cấp được nhiều sản phẩm bảo lãnh mà còn hoàn thiện những sản phẩm
đó theo đòi hỏi của khách hàng và bản thân ngân hàng.
Ngoài các yếu tố khách quan trên, ngân hàng với các yếu tố chủ quan cũng
ảnh hưởng đến hoạt động của chính ngân hàng đó. Chiến lược kinh doanh của
ngân hàng là yếu tố chủ quan đầu tiên. Chiến lược kinh doanh có tầm ảnh hưởng
bao trùm lên toàn bộ hoạt động của ngân hàng gồm cả hoạt động bảo lãnh. Một
chiến lược hiệu quả, có tầm nhìn xa, có mục tiêu cụ thể và rõ ràng sẽ làm cho
hoạt động bảo lãnh được tiến hành một cách có phương hướng và có kết quả.
Chiến lược kinh doanh làm cho hoạt động bảo lãnh tập trung vào các vấn đề thị
trường, khách hàng và sản phẩm phù hợp với từng thời kì, từng giai đoạn cụ thể
sẽ có tác dụng thúc đẩy hoạt động bảo lãnh.
Ngoài chiến lược kinh doanh, hoạt động bảo lãnh còn chịu sự chi phối của
các chính sách và các quy định của ngân hàng cho hoạt động bảo lãnh. Bên cạnh
việc chấp hành pháp luật, mỗi ngân hàng đều có một quy tắc hoạt động riêng.
Thực hiện hoạt động bảo lãnh đúng quy tắc là một phần tất yếu để hoạt động kinh
doanh của ngân hàng được tiến hành trôi chảy và hạn chế gặp phải các rủi ro.

Chính sách của ngân hàng trong hoạt động bảo lãnh sẽ đề ra các mục tiêu cần
phấn đấu và các hướng phát triển cho hoạt động bảo lãnh. Yếu tố định hướng này
chỉ là sợi chỉ xuyên suốt quá trình thực hiện hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng.
Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh cũng là một vấn đề cần được quan tâm. Quy
trình bảo lãnh với những phần quan trọng như công tác thẩm định, xây dựng hợp
đồng bảo lãnh và quy trách nhiệm khi kết thúc bảo lãnh có tác động trực tiếp đến
Chuyên đề thực tập

×