Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.64 KB, 26 trang )

LỊCH SỬ ĐẢNG – ƠN TẬP
Khơng viết gạch đầu dịng
Viết tách đoạn
1. Vai trò của các phong trào yêu nước với sự ra đời của ĐCSVN là rất to lớn, hãy
phân tích và chứng minh. Là một người Việt Nam, em có thể đóng góp gì để phát
triển truyền thống yêu nước, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh Covid hiện nay.
(chương I-I)
- Nêu 3 phong trào
+ Khuynh hướng phong kiến (Cần Vương)
+ Khuynh hướng dân chủ tư sản
+ Khuynh hướng vơ sản
- Vai trị:
+ Thơi thúc NAQ đi tìm đường cứu nước
+ Thức tỉnh tinh thần yêu nước và phát huy truyền thống yêu nước
+ Là phương tiện để CNML thâm nhập
+ Là nơi sản sinh ra những chiến sĩ
- Em có thể:
+ Với tư cách một cơng dân,
+ Với tư cách một sinh viên, học tập
Theo học thuyết Mác - Lênin, một Đảng Cộng sản ra đời từ sự kết hợp chủ
nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân. Luận điểm này đúng, nhưng chỉ đúng
với các nước phương Tây, khi giai cấp công nhân đã bước lên vũ đài chính trị với tư
cách một lực lượng cách mạng độc lập, được lý luận khoa học của Mác dẫn đường. Sự
ra đời và phát triển của một loạt Đảng của giai cấp vô sản ở các nước Tây Âu cũng
như ở Nga hồi cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã chứng minh tính đúng đắn của luận
điểm nêu trên.
Cịn ở các nước phương Đơng, đặc biệt là các nước thuộc địa nửa phong kiến
như Việt Nam thì luận điểm đó cần được bổ sung, phát triển cho phù hợp với điều
kiện cụ thể. Những nước này bị chủ nghĩa thực dân thống trị, nền kinh tế hết sức lạc
hậu. Công nghiệp gần như chưa phát triển, giai cấp công nhân tuy đã ra đời và sống
khá tập trung, song cịn nhỏ bé. Vì vậy, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân


chưa đại diện được cho toàn bộ phong trào dân tộc. Hơn nữa, vấn đề dân tộc cần phải
giải quyết trở nên hết sức bức xúc, cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân phải hồ
chung với phong trào u nước của các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội, giai cấp
công nhân phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc để lãnh đạo những cuộc đấu tranh này.


Tinh thần yêu nước đã trở thành truyền thống đấu tranh bất khuất trong lịch sử
dân tộc, có vai trị hết sức to lớn trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, trong các
phong trào cách mạng Việt Nam. Ngay từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm
lược nước ta thì phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo vệ nền
độc lập dân tộc đã bắt đầu. Từ năm 1858 đến trước năm 1930 đã nổ ra các cuộc khởi
nghĩa, phong trào đấu tranh với mục tiêu giành lại nền độc lập dân tộc. Đó là cuộc
chiến đấu của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu;
khởi nghĩa của Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực... Đó là các cuộc
khởi nghĩa theo khuynh hướng phong kiến, theo tiếng gọi "Cần Vương" của Phan
Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Công Tráng... Những cuộc đấu tranh vô cùng
oanh liệt đó của Nhân dân ta chống thực dân Pháp đều bị đàn áp tàn bạo và thất bại.
Mặc dù bị đàn áp dã man nhưng các phong trào yêu nước vẫn tiếp tục phát triển
mạnh. Đã xuất hiện các phong trào yêu nước theo chủ trương mới và có xu hướng tư
sản như các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân, các cuộc khởi
nghĩa của tiểu tư sản, trí thức trong Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học
lãnh đạo... Tuy nhiên, các phong trào đó cũng khơng đi đến thành cơng. Ngun nhân
cơ bản là do các phong trào khơng tìm được đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc
và con đường phát triển đúng đắn, chưa phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội
Việt Nam. Mà điều cốt lõi nhất là các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX chưa tìm
được và chưa có khả năng tập hợp lực lượng đủ sức đánh đuổi thực dân Pháp xâm
lược. Phong trào nông dân không giải quyết được mâu thuẫn giữa địa chủ, phong kiến
và nơng dân, nhân dân lao động nói chung. Phong trào yêu nước muốn phát triển đất
nước theo chiều hướng tư sản và tiểu tư sản không giải quyết được mâu thuẫn giữa
giai cấp công nhân đang phát triển ngày càng mạnh với giai cấp tư sản mà chủ yếu là

tư sản Pháp; do đó, cũng khơng giải quyết được triệt để mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp, không tranh thủ được sức mạnh của phong trào cách mạng
thế giới đang dâng lên mạnh mẽ... Phong trào u nước như khơng có đường ra.
Trong đêm trường tăm tối đó Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của
Đảng là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam. Như vậy, khi đề cập đến sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố là chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào cơng nhân,
Hồ Chí Minh cịn kể đến yếu tố thứ ba, đó là phong trào yêu nước. Đây là một quan
điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam.


Hồ Chí Minh thấy rõ vai trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với quá trình hình
thành của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời Người cũng đánh giá rất cao vai trị
của giai cấp cơng nhân Việt Nam. Nhưng Người bổ sung yếu tố phong trào yêu nước,
coi nó là một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt
Nam là vì:
Thứ nhất, phong trào u nước có vị trí, vai trị cực kỳ to lớn trong q trình
phát triển của dân tộc Việt Nam. Là giá trị văn hoá trường tồn trong văn hố Việt
Nam.
Thứ hai, phong trào cơng nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì
hai phong trào đó đều có mục tiêu chung: giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được
hồn tồn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa, phong trào u nước có
trước phong trào cơng nhân, phong trào cơng nhân xét về nghĩa nào đó nó lại là phong
trào yêu nước.
Thứ ba, phong trào nông dân kết hợp với phong trào cơng nhân. Nói đến
phong trào u nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân. Do đó, giữa phong
trào cơng nhân và phong trào u nước có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Thứ tư, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc
đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chính vì vậy, sự xuất hiện của nhân tố phong trào yêu nước trong sự hình
thành Đảng Cộng sản Việt Nam như một điều hiển nhiên, tất yếu. Các phong trào đó
tuy thất bại nhưng cũng có tác động rất to lớn, thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm
đường cứu nước ngày 5/6/1911 tại bến cảng Nhà Rồng, làm thức tỉnh tinh thần yêu
nước và phát huy truyền thống yêu nước, là phương tiện để chủ nghĩa Mác – Lê Nin
thâm nhập, là nơi sản sinh ra những chiến sĩ. Nó nhân lên sức mạnh của Đảng, tạo chỗ
dựa vững chắc cho Đảng, cho giai cấp công nhân VN.
Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã từng bước vào nhiều cuộc chiến
với quy mơ, tính chất khác nhau. Từ cuối năm 2019, có một cuộc chiến khơng có
tiếng súng nhưng lại rất nguy hiểm, ảnh hưởng đến tính mạng của người dân trên
phạm vi tồn cầu. Đó là cuộc chiến chống Covid-19.
Trải qua nhiều năm kháng chiến để bảo vệ tổ quốc thì Việt Nam ta càng thấy
rõ Lịng u nước chính là vũ khí hàng đầu để dân tộc Việt Nam mới có thể chiến
thắng được mọi ách của giặc ngoại xâm. Từ đó, chúng tơi nghĩ mỗi người cần có lịng
tự tơn dân tộc, có lịng yêu nước.


Lịng u nước tại thời bình thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau, có thể kể
đến đó là: Tình cảm gắn bó với quê hương, đất nước, điều này thể hiện qua việc bản
thân mỗi chúng ta luôn hướng về cội nguồn, ông bà, cha mẹ, tổ tiên, quê hương của
mình và khi đi xa ln hướng về q hương, Tổ quốc.
Là người con Việt nam thì phải có tình thương u đối với đồng bào, giống
nịi, dân tộc, phải cảm thông sâu sắc nỗi đau của đồng bào, dân tộc, mong muốn đồng
bào mình được sống ấm no, hạnh phúc. Vì thế, ngay khi quỹ Vacxin COVID-19 được
thành lập, em đã qun góp vào đó, mong rằng mình có thể đóng góp một phần nào
đó giúp đẩy lùi dịch COVID
Tích cực học tập, rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ. Tuân
thủ quy định 5K và các chỉ thị của Đảng, không để dịch bệnh lây lan.
Trung thành với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, Cảnh giác trước âm
mưu chia rẽ, xuyên tạc của các thế lực thù địch; phê phán, đấu tranh với những thái

độ, việc làm gây tổn hại đến an ninh quốc gia, xâm phạm chủ quyền và tồn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, chọn lọc các thơng tin khi tham gia MXH
2. Cách mạng tháng 8/1945 có phải là một sự ăn may hay khơng? Vì sao? Nghiên
cứu vấn đề này có ý nghĩa gì với cá nhân em.
- Khách quan (ăn may): Nhật đầu hàng Đồng minh -> Nhật ở VN hoang mang, hỗn
-

loạn
Chủ quan:
+ Sự lãnh đạo: hoạch định chủ trương, đường lối,
+ chuẩn bị về mọi mặt để khi thời cơ tới có thể chớp thời cơ
Bài học về thời cơ
+ Khi ra trường, khách quan (thị trường nhộp nhịp), chủ quan (chuẩn bị về bằng
cấp, kiến thức, kĩ năng)
+ Không bi quan khi yếu tố bên ngồi khơng thuận lợi
Trong suốt q trình lịch sử lâu dài đó, máu của các chiến sĩ cách mạng và

đồng bào đã đổ xuống trên mặt trận chống đế quốc và tay sai.Thắng lợi của cuộc cách
mạng tháng 8 là thắng lợi của cả một quá trình chuẩn bị lâu dài của Đảng, là sự kết
hợp của cả yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan
Nhìn vào lịch sử thì thấy, cùng vào thời điểm năm 1945, không phải bất cứ nơi
nào đang chịu ách chiếm đóng của Phát-xít đều có thể bùng nổ cách mạng và giành
thắng lợi. Chỉ có quốc gia nào có sự chuẩn bị chu đáo, có sự lãnh đạo của Đảng tiên
phong, chớp được thời cơ và huy động được sức mạnh của tồn dân tộc thì mới có khả


năng giành được chính quyền. Điều đó bác bỏ những luận thuyết cho rằng, do thời cơ
quá thuận lợi như vậy cho nên việc giành chính quyền quá đơn giản.
Cũng cần nói rằng, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không phải là thành
quả của một số ngày mà là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của

dân tộc Việt Nam vì độc lập tự do gần một thế kỷ, là kết quả của quá trình chuẩn bị
lực lương lâu dài dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản từ năm 1930 mà trực tiếp là
cuộc vận động cứu nước giai đoạn 1939-1945.
Từ ngày thành lập Đảng (3/2/1930), trong 15 năm đó Đảng của ta đã không
ngừng đưa ra những sách lược sát với từng tình hình cụ thể
Qua cao trào 1930 -1931 với đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh đã cho
thấy sự lãnh đạo tài tình của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lần đầu tiên trong lịch
sử Việt Nam một chính quyền Xơ Viết (theo kiểu vơ sản ra đời) đáp ứng yêu cầu cấp
thiết lúc bấy giờ là giành độc lập dân tộc mặt dù phong trào này chỉ giành thắng lợi ở
một vài nơi trong một thời gian ngắn. Đây được xem là đợt Tổng dợt đầu tiên cho
cách mạng tháng 8
Sau đó là cuộc vận động dân tộc dân chủ 1936-1939, trong thời kì khủng
hoảng kinh tế thế giới và nguy cơ chủ nghĩa phát xít đang đe dọa. Đảng đã kịp thời
chuyển hướng chỉ đạo chiến lượt để thu hút sự tham gia và ủng hộ của mọi tầng lớp
nhân dân trong nước. Nhờ đó cơ sở Đảng không ngừng phát triển lớn mạnh và có uy
tín lớn trong quần chúng nhân dân. Đây được xem là đợt tổng dợt thứ 2 cho cách
mạng tháng 8
Rồi đến cao trào cách mạng 1939-1945: Đây là thời kỳ diễn ra cuộc chiến
tranh thế giới. Chủ nghĩa phát xít ngày càng lớn mạnh và hung hăng hơn. Năm 1940,
phát xít Nhật nhảy vào Đơng Dương, thực dân Pháp hai tay dâng Đông Dương cho
Nhật. Nhân dân ta phải chịu sự áp bức của hai tầng áp bức Nhật - Pháp, đời sống ngày
càng khó khăn, mà tiêu biểu là nạn đói năm 1945 làm hơn 2 triệu đồng bào chết đói.
Trước tình hình đó, Đảng lại tiếp tục chuyển hướng chỉ đạo chiến lượt. Tạm gác khẩu
hiệu "đánh đổ đế quốc-phong kiến" và "người cày có ruộng", thay vào đó là khẩu hiệu
đánh đuổi phát xít và bọn phản động thuộc địa Pháp, thực hiện tự do dân sinh, dân
chủ, hịa bình, cơm áo cho nhân dân. Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất chống
phát xít ở Đông Dương, tiến hành đấu tranh công khai nửa công khai, hợp pháp nửa
hợp pháp... Nhờ đó mà ngày càng thu được sự đồng tình ủng hộ của mọi giai tầng
trong xã hội như công- nông, tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và cả những người Pháp có
tinh thần chống phát xít. Đây được xem là thời kì tiền khởi nghĩa tạo điều điện trực

tiếp cho cách mạng tháng 8 giành thắng lợi.


Trong suốt q trình lịch sử lâu dài đó, máu của các chiến sĩ cách mạng và
đồng bào đã đổ xuống trên mặt trận chống đế quốc và tay sai.
Tháng 8-1945, Nhật đầu hàng Đồng minh, Chiến tranh thế giới thứ hai kết
thúc. Trước tình hình biến chuyển nhanh chóng có lợi cho cách mạng, Trung ương
Đảng triệu tập Hội nghị tồn quốc, nhận định điều kiện khởi nghĩa chín muồi và cử ra
Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc. Tiếp đó, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào quyết định
chủ trương tổng khởi nghĩa và thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc (Chính phủ lâm
thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Nghị quyết Quốc dân Đại hội nhấn mạnh: Không
phải Nhật bại là nước ta tự nhiên được độc lập. Nhiều sự gay go trở ngại sẽ xảy ra.
Chúng ta phải khôn khéo và kiên quyết. Khôn khéo để tránh những sự khơng có lợi
cho ta. Kiên quyết để giành cho được hoàn toàn độc lập.
Ngày 16-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta. Hưởng ứng lời kêu gọi, nhân dân ta nhất tề nổi dậy. Chưa đầy nửa
tháng, Tổng khởi nghĩa CMT8 đã giành toàn thắng, quân Nhật đầu hàng, vua Bảo Đại
thoái vị. Bộ máy thống trị thực dân, phát xít và phong kiến tay sai bị lật đổ. Chính
quyền cách mạng được thiết lập trên toàn quốc.
Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên
ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới: Việt Nam đã trở
thành nước tự do, độc lập đồng thời khai sinh ra nước Việt Nam DCCH, nay là nước
CHXHCN Việt Nam.
Như vậy, thắng lợi của CMT8 không phải “từ trên trời rơi xuống” và càng
không phải là sự “ăn may”, “cướp công” như các thế lực thù địch rêu rao. Mà đó là
kết quả tất yếu của quá trình vận động cách mạng lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh của
Nhân dân Việt Nam. Thắng lợi đó khẳng định sức mạnh khối đại đồn kết toàn dân
tộc, được tổ chức chặt chẽ, chuẩn bị kỹ lưỡng, đặt dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là nghệ thuật khởi nghĩa từng phần, kịp

thời nắm bắt và chớp thời cơ “ngàn năm có một” để tiến lên tổng khởi nghĩa giành
tồn thắng.
Mặt khác, CMT8 thành cơng là kết quả vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, đã được Hồ Chí Minh phát biểu
trong luận điểm nổi tiếng: Cách mạng ở các nước thuộc địa có thể và phải chủ động
tiến lên giành thắng lợi, không thụ động chờ thắng lợi cách mạng vơ sản ở chính quốc.
Các dân tộc thuộc địa càng không thể xin “mẫu quốc ban ơn”, “rủ lịng thương” cho
mình được độc lập. Từ quan điểm đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đường


lối cách mạng đúng đắn: Tự lực, tự cường, đem sức ta mà giải phóng cho ta. Bởi vậy,
giá trị lịch sử và thời đại của CMT8 rất to lớn, ảnh hưởng sâu rộng, khơng chỉ ở Việt
Nam, mà cịn thức tỉnh các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới vùng lên đấu tranh
giành độc lập.
Bằng khả năng cách mạng của cả dân tộc, chúng ta mới có khả năng đập tan
bộ máy chính quyền của đế quốc tay sai, thiết lập chính quyền cách mạng, đồng thời
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, phải giành được chính quyền trước khi qn Đồng
Minh vào Đơng Dương và đứng ở vị thế người làm chủ nước nhà để đón tiếp qn
Đồng minh vào giải giáp vũ khí của qn đội Nhật.
Nếu như khơng có một cuộc cách mạng thành cơng, khơng thành lập được
chính quyền nhân dân thì đất nước Việt Nam lại dễ dàng chuyển vào tay một thế lực
thực dân khác, một chính quyền thuộc địa khác. Bởi vậy, giá trị của Cách mạng tháng
Tám, giá trị của việc giành chính quyền là khơng thể phủ nhận.
Chính Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ nhận
thức được tầm quan trọng của thời cơ mà còn dự báo được thời cơ, đánh giá chính xác
thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Cơ hội là điều kiện thuận lợi, thời điểm hội tụ những điều thích hợp cho chúng
ta tận dụng và tạo ra những thành công cho bản thân. Cơ hội mang đến cho chúng ta
niềm tin, niềm hi vọng để ta đạt được mục đích. Cơ hội tạo ra cho chúng ta một sức
mạnh to lớn và động lực để ta vượt qua những thử thách, khó khăn trong cuộc sống.

Cơ hội khơng chỉ do người khác hay do thời điểm tạo ra cho chúng ta mà đôi khi ta
phải biết tự tạo ra thời cơ cho mình. Khi đã nhận ra được cơ hội đang ở trước mắt,
chúng ta phải chủ động và tận dụng nó một cách khéo léo để có thể vượt qua những
thử thách. Khi đã có cơ hội trong tay, chúng ta phải biết chắt chiu, trân trọng nó vì cơ
hội khơng có nhiều và cũng khơng lặp đi lặp lại được. Và khi ta đã tận dụng được cơ
hội mà ta có trong tay, thì dù khó khăn hay thử thách khó đến mấy, chúng ta cũng sẽ
vượt qua để đi đến thành công.
Để minh chứng cho những điều trên chúng ta có thể nói đến chiến thắng của
cuộc cách mạng tháng 8 khi Đảng và Nhà nước đã chớp thời cơ ngàn năm có một để
giành lấy độc lập và khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hịa. Hay ta cũng có
thể kể đến những chiến thắng của đội tuyển bóng đá nam Việt Nam trước Thái Lan và
Indonesia khi lần lượt Công Vinh và Minh Tuấn đã chớp thời cơ mà đồng đội tạo ra để
ghi những bàn thắng quý hơn vàng và mang lại cảm xúc vừa vỡ òa, vừa hạnh phúc
cho hàng triệu con tim Việt Nam. Tuy vậy, bên cạnh đó vẫn cịn rất nhiều người khơng


biết trân trọng và tận dụng những cơ hội mà cuộc đời mang lại cho họ. Và thế là họ cứ
như vậy dần dần chìm vào những ngày tháng tăm tối của kẻ thất bại.
Đời người thường khó tránh khỏi những thay đổi bất ngờ trong cuộc sống.
Nhưng đôi khi bất ngờ đó lại chính là cơ hội dẫn bạn đến với thành cơng vì thế bạn
hãy gạt bỏ cái tự ti của mình, hãy tin rằng có rất nhiều cơ hội tốt nhưng có điều chúng
ta chưa biết đến mà thơi, vì trong cuộc sống chỉ có những người đánh mất cơ hội, chứ
khơng có những người khơng có cơ hội. Cơ hội đến với những người như nhau,
nhưng nắm bắt khác nhau thì chất lượng cuộc sống khác nhau... Chuyện một ông chủ
của công ty dọn hầm cầu tại Mỹ và là một triệu phú từng dí dỏm chia sẻ bí quyết
thành cơng của mình như sau: “Tơi đi khảo sát thị trường và phân tích những cơng
việc mà mọi người đang tìm kiếm nhiều, sau đó tơi chọn một công việc hiếm người
theo đuổi, và thế là tơi thành cơng, tơi nhận thấy tơi có đam mê về… phân của người
khác”. Lý do để họ thành công đó chính là họ biết nắm bắt cơ hội có thể chỉ xảy ra
một lần trong đời. Thực trạng hiện nay là hàng năm có hàng nghìn sinh viên được đào

tạo ra với những tấm bằng cử nhân tiến sĩ,… trong tay nhưng rồi sao họ vẫn khơng có
việc làm và vẫn phải đi làm trái nghề, vậy tại sao ngay từ đầu học khơng lựa chọn
khác đi. Bạn có biết rằng khi bạn theo đuổi niềm đam mê bạn đã bỏ qua thời gian của
mình dành cho nhiều cơ hội khác. Điều quan trọng là bạn phải tự đánh giá được năng
lực mình ở đâu, năng lực thực sự là gì? Tạo hố rất cơng bằng, ln ban cho tất cả
mọi người cơ hội như nhau. Có thể những cơ hội đó khơng hiện rõ trước mắt bạn, có
thể nó xuất hiện một cách bất ngờ xong bạn có thành công hay không đều phụ thuộc
vào khả năng nắm bắt được sự bất ngờ ấy của bạn.
3. Sau CMT8 1945, CMVN lâm vào trạng thái ngàn cân treo sợi tóc, Đảng đã làm
gì để đưa đất nước thốt khỏi trang thái trên. Liên hệ điều kiện hiện nay khi đất
nước đối mặt với Covid thì Đảng và Nhà nước đã làm gì?
- Khái qt tình trạng khó khăn sau CMT8 (tại sao nói là ngàn cân treo sợi tóc):
-

-

giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm + chính quyền non trẻ
Chính sách của Đảng:
+ Đề ra Chỉ thị kháng chiến kiến quốc (25/11/1945)
+ Giặc đói: Hũ gạo cứu đói, tăng gia sv, tuần lễ vàng
+ Giặc dốt: Phong trào bình dân học vụ
+ Giặc ngoại xâm: Chính sách hồ hỗn (hoà Pháp đuổi Tưởng, hoà Tưởng
chống Pháp): Hiệp định Sơ bộ, Tạm ước, hội nghị Đà Lạt, Phông-ten-blo
Liên hệ:
+ Đầu năm 20: Giãn cách, truy vết, cách li
+ Bh: Truyền thống nhưng điều chỉnh: Tiêm vacxin để tạo ra miễn dịch cộng đồng


Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh
giải phóng dân tộc của ta trong thế kỷ 20. Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập

Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tạo ra cái thế chuyển xoay toàn bộ vận mệnh
của đất nước và dân tộc - từ thuộc địa trở thành độc lập tự do, từ nô lệ trở thành người
chủ.
Nhưng trong những ngày đầu còn trong trứng nước, Nhà nước ta đã phải
đương đầu với những khó khăn chồng chất. Sự tàn phá, cướp bóc trong 80 năm thống
trị của Pháp rồi đến Nhật đã để lại những hậu quả hết sức nặng nề. Hơn hai triệu
người chết đói. 95% dân số mù chữ. Nhà nước mới phải gánh vác những nhiệm vụ to
lớn nhưng ngân khố trống rỗng.
Bên ngoài: Ở miền bắc, 20 vạn quân Tưởng do Mỹ giật dây vào tước vũ khí
quân đội Nhật, thật ra là xâm lược nước ta và quyết tâm đánh đổ Chính phủ Việt
Minh, cho một chính phủ bù nhìn thân Mỹ - Tưởng lên thay. Ở miền nam, Anh ủng hộ
thực dân Pháp đánh chiếm lại Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ, đồng thời có kế hoạch
chiếm lại cả Ðông Dương. Dựa vào thế chủ, bọn phản cách mạng trong nước, bọn
thân Mỹ, thân Tưởng, thân Pháp ra sức phá hoại, hồnh hành. Có bọn đã cướp chính
quyền ở địa phương, lập căn cứ địa chống Việt Minh, chống Chính phủ do Chủ tịch
Hồ Chí Minh lãnh đạo. Có bọn tiến hành phá hoại ở các thành phố và xí nghiệp.
Tình thế lúc bấy giờ quả là nghìn cân treo sợi tóc. Nhưng sợi tóc có treo nổi
nghìn cân khơng? Ðó là câu hỏi đặt ra và chỉ có lịch sử mới trả lời nổi.
Bằng một sự lãnh đạo kiên quyết, bình tĩnh, sáng suốt và đặc biệt sáng tạo
trong vận dụng sách lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Ðảng ta đã thực hiện
mọi biện pháp để giữ vững chính quyền cách mạng, làm thất bại mọi âm mưu của chủ
nghĩa đế quốc và đưa nước ta ra khỏi hiểm nghèo.
Chống giặc đói, chống giặc dốt và chống giặc ngoại xâm là ba nhiệm vụ được
đặt lên hàng đầu.
Với cương vị là người đứng đầu Chính phủ cách mạng lâm thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh xem đói nghèo cũng là một thứ giặc nguy hiểm như giặc dốt và giặc ngoại
xâm. Theo Người: ''Nước nhà đã giành được độc lập tự do mà dân vẫn còn đói nghèo
cực khổ thì độc lập tự do khơng có ích gì''. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ
ngày 03/9/1945, Người đã nêu sáu vấn đề cấp bách trong đó cứu đói là một trong sáu
nhiệm vụ cấp bách hàng đầu Người nói: “Nhân dân đang đói… Hơn hai triệu đồng

bào chúng ta đã chết đói vì chính sách độc ác này… Những người thốt chết đói nay
cũng bị đói. Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống”. Người nêu ra biện pháp khắc
phục: “Tôi đề nghị với Chính phủ là phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất… Tôi


đề nghị mở một cuộc lạc quyên. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta nhịn ăn
một bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại và phát cho người nghèo”.
Người đã khởi xướng, đề xuất và gương mẫu thực hiện phong trào hũ gạo cứu
đói, với nghĩa cử cao đẹp mỗi tuần nhịn ăn một bữa, cùng với phong trào ''Tuần lễ
vàng''. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, ở khắp các địa phương trên cả nước,
Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc vận động nhân dân hưởng ứng lời kêu
gọi. Một phong trào quyên góp, tổ chức “ngày đồng tâm”, “hũ gạo cứu đói”... được
phát động mạnh mẽ. Trên tinh thần “tình làng nghĩa xóm”, hoạn nạn có nhau, chỉ sau
một thời gian ngắn số lương thực cứu đói thu được khá nhiều, giải quyết kịp thời nhu
cầu bức thiết của đời sống nhân dân.
Song song với công tác lạc quyên cứu đói, chính quyền cách mạng cịn phát
động phong trào tăng gia sản xuất để giải quyết nạn đói tận gốc. Đối với Bác, dù trong
bất cứ hoàn cảnh nào, Bác đều đặt vấn đề đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất như
là một nhu cầu nội tại của quốc gia, của cách mạng.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, nhân dân ta đã phát huy tinh thần hăng hái lao
động, đẩy mạnh tăng gia sản xuất. Nhiều quãng đê bị vỡ đã được gia cố lại, đắp thêm
một số đê mới. Cho đến đầu năm 1946, tức là chỉ bốn tháng sau cách mạng, cơng tác
đê điều đã hồn thành. Đồng thời với việc đắp đê, với khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng”,
chính quyền và nhân dân tất cả các địa phương ra sức cải tạo đất công cộng còn trống
như sân bãi, vỉa hè, bờ đê để trồng trọt, nhất là hoa màu ngắn ngày. Kết quả sản lượng
hoa màu đã tăng gấp bốn lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Chỉ trong năm tháng từ tháng
11-1945 đến tháng 5-1946 đã đạt 614.000 tấn, qui ra thóc là 506.000 tấn, hồn tồn có
thể bù đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm 1945. Bằng chứng rõ nhất là dân khơng
đói, giá thóc gạo khơng tăng mà lại giảm. Giặc đói đã bị đánh lui.
Nhiệm vụ chống nạn mù chữ được xếp thứ hai sau nhiệm vụ chống giặc đói

Ngày 8.9.1945, Chính phủ ban hành sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ
(BDHV) quyết định thành lập cho nơng dân và thợ thuyền những lớp học bình dân
buổi tối. Việc học chữ quốc ngữ bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Hạn
trong một năm, toàn thể dân chúng Việt nam trên 8 tuổi phải biết đọc, biết viết chữ
quốc ngữ.
Lời kêu gọi của Bác về nhiệm vụ chống giặc dốt đã nhanh chóng thấm sâu vào
tâm trí của mọi người dân, làm thức dậy lịng tự tơn dân tộc và thấy rõ trách nhiệm
của mình là chỉ trong vịng một năm, ai ai cũng phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Những nhà có nhà ở rộng rãi mở lớp học tư gia cho bà con xóm giềng, nhiều hồ
thượng, linh mục cho mượn chùa, nhà thờ để làm lớp. Dùng cánh cửa, chiếu trải
xuống đất cho học viên ngồi... Lớp học khắp nơi, học trưa, học chiều, học tối. Lớp


đơng giáo viên, lớp một thầy một trị. Chữ viết sẵn trên bảng, treo trên khóm tre, bụi
chuối, bờ ao để bà con học tập. Để tăng cường và đẩy mạnh việc học, việc hỏi chữ
được thiết lập. Những người nào đọc được các chữ viết trên các bảng đen dựng bên
các bến đị, cổng làng, cổng chợ... thì được đi qua cổng trang trí đẹp gọi là “Cổng vinh
quang” để đi vào chợ, sang sông, về làng...
Chỉ sau một năm hoạt động Bình dân học vụ (08/09/1945 đến 08/09/1946) đã
có 2.520.678 người thốt nạn mù chữ (dân số lúc đó là 22 triệu người).
Chống giặc ngoại xâm, Trước 6/3/1946, ta chủ trương Hòa với quân Tưởng ở
miền Bắc để tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam. Đối với quân Tưởng ở
Miền Bắc:Hòa hoản tránh xung đột, giao thiệp thân thiện, nhân nhượng cho chúng
một số quyền lợi về kinh tế và chính trị như nhận cung cấp lương thực thực phẩm,
nhận tiêu tiền mất giá của chúng, nhường cho tay sai của Tưởng 70 ghế trong Quốc
hội và 4 ghế trong chính phủ khơng qua bầu cử. Qua đó, Làm thất bại âm mưu của
Tưởng, đồng thời vơ hiệu hóa các hoạt động chống phá của bọn tay sai của Tưởng, ta
có điều kiện tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam. Đối với quân Pháp ở Miền
Nam: Kiên quyết chống bọn thực dân Pháp quay trở lại xâm lược.Nhân dân Nam Bộ
đã anh dững chống Pháp bằng mọi thứ vũ khí có sẵn và bằng mọi hình thức.Đồng bào

cả nước hướng về Miền Nam ruột thịt.
Tình hình trên Pháp -Tưởng đã bắt tay câu kết với nhau chúng đã ký hiệp ước
Hoa-Pháp 28/2/1946. Đây là một âm mưu thâm độc của kẻ thù đặt cách mạng nước ta
trước hai con đường phải chọn một trong hai con đường :Một là cầm vũ khí đứng lên
chống Pháp khi chúng vừa đến Miền Bắc. Hoặc là chủ động đàm phán với Pháp để
gạt nhanh 20 vạn quân Tưởng về nước và tranh thủ thời gian để chuẩn bị lực lượng
chống Pháp sau này. Sau khi nhận định đánh giá tình hình ta chọn giải pháp hịa với
Pháp bằng việc ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 với những nội dung chính: Chính
phủ Pháp cơng nhận nước ta là một quốc gia tự do nằm trong khối liên hiệp Pháp, Ta
đồng ý cho 15000 quân Pháp ra Miền Bắc thay cho quân Tưởng và rút dần trong thời
hạn 5 năm. Hai bên ngừng bắn ở Nam Bộ để đàm phán ở Pari. Việc ký Hiệp định Sơ
bộ ta đã loại được một kẻ thù nguy hiểm tránh được một cuộc chiến đấu bất lợi cho ta,
ta có thêm thời gian hịa bình để chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.
Sau Hiệp định sơ bộ, ta thể hiện thiện chí hịa bình cịn Pháp vẫn cố tình trì
hoản việc thi hành và vẫn tăng cường những hành động khiêu khích làm cho cuộc
đàm phán ở Phơng tennơblơ khơng thành, quan hệ Việt Pháp trở nên căng thẳng có
nguy cơ xảy ra chiến tranh. Trước tình hình đó, để kéo dài thêm thời gian hòa hoản
chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tiếp với Pháp bản Tạm


ước 14/9 tiếp tục nhân nhượng cho chúng một số quyền lợi.(Đây là giới hạn cuối cùng
của sự nhân nhượng)
Việc ký Hiệp định sơ bộ 6/3 và tạm ước 14/9 đã đập tan ý đồ của Pháp trong
việc câu kết với Tưởng để chống lại ta, đẩy nhanh được 20 vạn quân Tưởng và tay sai
về nước, thoát được thế bao vây của kẻ thù, giúp chúng ta có thêm thời gian để củng
cố lực lượng chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
Đối với nội phản, Kiên quyết vạch trần bộ mặt bán dân hại nước của chúng,
trừng trị các tổ chức phản cách mạng và tay sai của Tưởng. Chính phủ ra sắc lệnh giải
tán tổ chức Đại Việt quốc gia xã hội đảng và Đại việt quốc dân đảng…….
Bài học về tinh thần đoàn kết từ Cách mạng Tháng Tám 1945 vẫn luôn là ngọn

đuốc soi đường cho dân tộc Việt Nam đến ngày hôm nay khi cả nước đang đồng lòng
quyết tâm đẩy lùi đại dịch Covid-19.
Đại dịch COVID-19 đã và đang ảnh hưởng lớn đến kinh tế - xã hội và cuộc
sống của hàng triệu gia đình Việt Nam, tạo nên một bức tranh chưa từng có trong lịch
sử đất nước.
Hơn 500 ngày qua, hàng trăm nghìn cán bộ, nhân viên y tế, các chiến sĩ quân
đội, công an đã gác lại cuộc sống cá nhân, không quản khó khăn, nguy hiểm đi vào
những vùng tâm dịch để cứu giúp người dân. Khơng ít trường hợp đã trở thành F0,
F1, có người đã hy sinh khi làm nhiệm vụ. Họ sẵn sàng hy sinh thân mình cho lợi ích
của cộng đồng, của đất nước.
Cách mạng Tháng Tám thành công nhờ Đảng lãnh đạo và sức mạnh của Mặt
trận Việt Minh. Hiện nay dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kịp thời của Đảng, trực tiếp là
Bộ Chính trị, Ban Bí thư với quyết tâm cao của người đứng đầu, cả hệ thống chính trị
vào cuộc, tồn dân chung sức đồng lòng. Trước đây, dưới sự lãnh đạo của Việt Minh,
dân ta tổ chức thành những hội cứu quốc, tất cả vào “Việt Nam hội”, đồng tâm hiệp
lực, muôn người một lịng, vì một Việt Nam hồn tồn độc lập. Cịn hiện nay, rất
nhiều lực lượng hình thành các tổ chức chống dịch như đội ngũ y bác sĩ, công an, bộ
đội, sinh viên ngành Y, nhiều tỉnh tổ chức các lực lượng lên tuyến đầu, tất cả vì miền
Nam ruột thịt, tâm điểm là thành phố Hồ Chí Minh trong đợt bùng phát dịch COVID19 lần thứ tư này.
Cùng với sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, hiện nay Đảng và Chính phủ
đặc biệt chú trọng phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết và sự ủng hộ của quốc tế. Vấn
đề có tính quyết định thắng lợi trong cuộc chiến chống COVID-19 vẫn là vaccine.
Đảng và Chính phủ thời gian qua đã làm rất tốt chính sách “ngoại giao vaccine”.
Cùng với lịng u nước, ý chí tự lực, tự cường của đội ngũ khoa học ngành y dược
trong sản xuất vaccine “Madein Việt Nam”, sự giúp đỡ, ủng hộ của bè bạn quốc tế là


vơ cùng q báu. Bài học về đồn kết quốc tế khơng chỉ có ý nghĩa to lớn trong giai
đoạn chống dịch COVID-19 hiện nay, mà có có ý nghĩa lâu dài trong công cuộc đổi
mới.

Thật xúc động biết bao, trước đây, ở thời điểm quan trọng nhất của cách mạng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh có lời Kính cáo đồng bào kêu gọi toàn dân đoàn kết. Ngày nay,
trong giai đoạn cam go nhất của cuộc chiến chống dịch, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
Việt Nam ra lời kêu gọi gửi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở
nước ngồi về cơng tác phịng, chống đại dịch COVID-19. Lời kêu gọi nhấn mạnh:
“Chúng ta đã cố gắng càng cố gắng hơn nữa; chúng ta đã đoàn kết càng đoàn kết hơn
nữ a; chúng ta đã quyết tâm càng quyết tâm cao hơn nữa”. Lời kêu gọi được phát đi
đúng thời điểm, đi vào trái tim của mỗi một đồng bào Việt Nam yêu nước.
Cũng như thời Cách mạng Tháng Tám, hiện nay Đảng và Chính phủ xác định
càng trong thử thách gian nguy thì lịng yêu nước và tinh thần đoàn kết lại càng vững
vàng, bền chặt và cao hơn bao giờ hết. Việt Nam vừa chống dịch vừa rút kinh nghiệm,
xuất phát, bám sát thực tế với rất nhiều cách làm năng động, sáng tạo thể hiện tinh
thần tương thân tương ái, “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”.
Thật sự cảm động với những “siêu thị 0 đồng”, “suất cơm nghĩa tình”, rau củ quả của
đồng bào dân tộc ít người - dù cịn vơ cùng khó khăn, thiếu thốn - vẫn dành cho nhân
dân vùng dịch. Hàng trăm tổ chức từ thiện đi khắp các ngõ ngách, khu phố ở thành
phố Hồ Chí Minh cung cấp hàng hóa thiết yếu cho dân. Những đoàn xe, đoàn tàu,
chuyến bay từ các tỉnh ở miền Bắc, đem theo vật dụng y tế, vaccine kịp thời chi viện
cho đồng bào miền Nam.
Có thể thấy bài học về lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết trong Cách mạng
Tháng Tám đang được phát huy cao độ trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19
hiện nay. Chắc chắn rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành năng động, sáng
tạo của Chính phủ, cả hệ thống chính trị vào cuộc, cùng sự chung sức đồng lịng mn
người như một của cả dân tộc và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, trận chiến “chống
dịch như chống giặc” nhất định sẽ thắng lợi trong thời gian khơng xa./.
4. Phân tích các chiến lược chiến tranh mà đế quốc Mĩ và tay sai đã triển khai ở
miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 (4 chiến lược). Nghiên cứu vấn đề này
có ý nghĩa gì với nhận thức của cá nhân em.
- Phân tích bối cảnh, nội dung, kết quả
+ Chiến tranh đơn phương: Mĩ gây sự nhưng chưa đáp trả, Đồng Khởi

+ ĐB: Triển khai sau thất bại của chiến tranh đơn phương, dùng “người Việt
đánh ngừoi Viêt”, chiến lược Stalay-Taylo, Khủng hoảng CQ
+ CB: cứu nguy cho quân Nguỵ, lính Mĩ + lính đánh thuê,


+VNHCT: Mĩ rút ra, đẩy quân Nguỵ vào (giống CTĐB chỉ thay tên -> đi vào
-

vịng luẩn quẩn)ĐBP trên khơng
Ý nghĩa: không phải nội chiến mà là chiến tranh xâm lược của thực dân kiểu mới
(dùng người bản xứ đánh người bản xứ), tinh thần yêu nước
Từ sau khi Hiệp định Giơnevơ 1954 được kí kết, nhân dân miền Nam chuyển

từ đấu tranh vũ trang trong kháng chiến chống Pháp sang đấu tranh chính trị, địi thi
hành Hiệp định; rồi phát triển lên đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ, chống những
chính sách khủng bố của kẻ thù. Qua thực tiễn đấu tranh, lực lượng chính trị được bảo
tồn và phát triển, lực lượng vũ trang cà căn cứ địa cách mạng được xây dựng lại ở
nhiều nơi. Đó là điều kiện để tiếp tục đưa cách mạng tiến lên.
Những năm 1957 – 1959, Mĩ và tay sai tăng cường dùng bạo lực khủng bố
phong trào đấu tranh của quần chúng. Tháng 5/1959, chính quyền Sài Gịn ra Luật 10
– 59, đặt cộng sản ngồi vịng pháp luật, làm cho lực lượng cách mạng bị tổn thất
nặng nề. Sự đàn áp của kẻ thù làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam với đế
quốc Mĩ và tay sai càng phát triển gay gắt. Cuộc đấu tranh ở miền Nam địi hỏi phải
có một biện pháp quyết liệt để đưa cách mạng tién lên. Thắng lợi của “Đồng khởi”
dẫn đến sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20-12-1960),
giương cao ngọn cờ đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân miền Nam, đấu tranh chống Mỹ
và tay sai, nhằm thực hiện một miền Nam Việt Nam hồ bình, độc lập, dân chủ, trung
lập, tiến tới hồ bình thống nhất Tổ quốc.
Từ cuối năm 1960, hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài Ngơ
Đình Diệm bị thất bại, đế quốc Mĩ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc

biệt” (1961 – 1965). “Chiến tranh đặc biệt” là một loại hình chiến tranh thực đân mới,
được tiến hành bằng quân đội tay sai, dưới sự chỉ huy của hệ thống cố vấn Mĩ, dựa
vào vũ khí, trang bị kĩ thuật, phương tiện chiến tranh của Mĩ, nhằm chống lại các lực
lượng cách mạng và yêu nước.
Thực hiện liên tiếp hai kế hoạch: “kế hoạch Xtalây – Taylo” (bình định miền
Nam trong vịng 18 tháng) và “kế hoạch Giơn xơn – Mắc Namara” (bình định miền
Nam trong 24 tháng). Tăng cường xây dựng quân đội Sài Gòn làm lực lượng chiến
đấu chủ yếu trên chiến trường; tăng nhanh viện trợ quân sự cho qn đội Sài Gịn, với
nhiều vũ khí và phương tiện chién tranh hiện đại, nhất là các chiến thuật mới như
“trực thăng vận” và “thiết xa vận”; tăng cố vấn Mĩ để chỉ huy, thành lập Bộ chỉ huy
quân sự Mĩ – MACV (năm 1962). Ra sức dồn dân, lập “ấp chiến lược”, dự định dồn
10 triệu nông dân vào 16.000 ấp, nhằm kìm kẹp và bóc lột quần chúng, tách rời nhân
dân với phong trào cách mạng, thực hiện “tát nước bắt cá”.


Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mĩ chuyển sang chiến lược
“Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. “Chiến tranh cục bộ” là một loại hình chiến tranh
xâm lược thực dân mới, được tiến hành bằng quân Mĩ, quân một số nước đồng minh
Mĩ và quân đội Sài Gịn; nhằm nhanh chóng tạo ra ưu thế về quân sự, giành lại thế
chủ động trên chiến trường.
Mĩ triển khai các thủ đoạn: Ồ ạt đổ quân viễn chinh Mỹ, quân các nước thân
Mĩ và phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam. Đến năm 1968,. số quân viễn
chinh Mĩ ở miền Nam lên tới hơn 50 vạn. Tiến hành hai cuộc phản công chiến lược
mùa khô (1965 – 1966 và 1966 – 1967) bằng hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và
“bình định” vào “Đất thánh Việt Cộng”. Kết hợp với việc tiến hành chiến tranh phá
hoại miền Bắc nhằm phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiêu huỷ tiềm lực
kinh tế – quốc phòng miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và
từ Bắc vào Nam, đồng thời làm lung lay quyết tâm chống Mĩ của nhân dân Việt Nam.
Sau thất bại của “Chiến tranh cục bộ”, Mĩ phải chuyển sang chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh” và mở rộng chiến tranh ra tồn Đơng Dương, thực hiện chiến

lược “Đơng Dương hóa chiến tranh”. “Việt Nam hóa chiến tranh” cũng là một hình
thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ, được tiến hành bằng quân đội tay sai
là chủ yếu, có sự phối hợp về hỏa lực, không quân, hậu cần của Mĩ, do cố vấn Mĩ chỉ
huy. Âm mưu: chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành một quốc gia
riêng biệt, thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ.
Tăng cường xây dựng quân đội Sài Gòn làm lực lượng chiến đấu chủ yếu trên
chiến trường, thay cho quân Mĩ rút dần về nước, thực hiện “dùng người Việt Nam
đánh người Việt Nam”. Sử dụng quân đội Sài Gòn mở rộng chiến tranh xâm lược
Campuchia (1970), tăng cường chiến tranh ở Lào (1971), thực hiện “Dùng người
Đông Dương đánh người Đơng Dương”.Tìm cách thỏa hiệp với Trung Quốc, hịa
hỗn với Liên Xô, nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước này đối với nhân dân Việt
Nam. Sẵn sàng Mĩ hoá trở lại cuộc chiến tranh khi cần thiết.
Nghiên cứu và học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam để nhận thức đầy đủ,
có hệ thống những tri thức lịc sử lãnh đạo, đấu tranh và cầm quyền của Đảng, nhận
thức rõ về Đảng với tư cách một Đảng chính trị-tổ chức lãnh đạo giai cấp cơng nhân,
nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Quy luật ra đời và phát triển của Đảng là sự
kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Đảng được trang bị học thuyết lý luận, có Cương lĩnh, đường lối rõ ràng, có tổ
chức, kỷ luật chặt chẽ, hoạt động có nguyên tắc. Từ năm 1930 đến nay, Đảng là tổ
chức lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam. Từ Cách mạng Tháng Tám năm


1945, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, nghĩa là Đảng nắm chính quyền, lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng
lợi của cách mạng. Đảng thường xuyên tự xây dựng và chỉnh đốn để hoàn thành sứ
mệnh lịch sử trước đất nước và dân tộc.
Nghiên cứu, học tập lịch sử chiến lược chiến tranh mà đế quốc Mĩ và tay sai
đã triển khai ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 nói riêng và Đảng Cộng sản
Việt Nam nói chung giúp em cảm nhận chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần
chiến đấu bất khuất, đức hy sinh, tính tiên phong gương mẫu của các tổ chức đảng,

những chiến sĩ cộng sản tiêu biểu trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và
phát triển đất nước.
Qua đó, nâng cao nhận thức về thời đại mới của dân tộc-thời đại Hồ Chí Minh,
góp phần bồi đắp nhận thức lý luận từ thực tiễn Việt Nam. Nâng cao nhận thức về
giác ngộ chính trị, góp phần làm rõ những vấn đề của khoa học chính trị (chính trị
học) và khoa học lãnh đạo, quản lý. Nhận thức rõ những vấn đề lớn của đất nước, dân
tộc trong mối quan hệ với những vấn đề của thời đại và thế giới. Nhận thức quy luật
của cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quy luật đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện
bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng ta
là đạo đức, là văn minh”.
5.
Thời bao cấp 1975-1986 là 1 thời kì lịch sử đặc biệt của dân tộc VN
thế kỉ 20, hãy mô tả bức tranh lịch sử thời bao cấp? Cảm nghĩ của em khi
nghiên cứu thời kì lịch sử này? (chép audio)
- Kinh tế
- Chính trị
- Đời sống VH – tinh thần
- Liên hệ: COVID giống như thời bao cấp
Bức tranh thời bao cấp 1975-1986 có thể vẽ ra với hai mảng lớn: bức tranh đối
nội và đối ngoại. Trong đó, BT đối nội có BT kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội.
Tiếp cận theo theo lí luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin về hình thái kinh tế xã hội,
bức tranh kinh tế được tiếp cận từ 2 phương diện cơ bản: phát triển lực lượng sản xuất
và thiết lập quan hệ sản xuất tương ứng.
Phát triển lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua đường lối Cơng nghiệp
hố đất nước. Đảng CSVN đã có tư duy lấy quan hệ sản xuất tiến bộ mở đường cho
lực lượng sản xuất phát triển. Đây là một cách nhận thức chưa đúng đắn về mối quan
hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, mà trong thời kì này để phát triển lực



lượng sản xuất xã hội, đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 4 đã hoạch định ra đường lối ưu
tiên phát triển cơng nghiệp nặng một cách hợp lí trên cơ sở phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ. Sau khi hoạch định đường lối CN hoá tập trung cho CN nặng ở đại
hội 4, đất nước rơi vào tình cảnh hết sức khó khăn, khi những nhu cầu thiết yếu của
nhân dân không được đảm bảo. Sang đến ĐH Đảng toàn quốc lần thứ 5, lần đầu tiên,
trong tư duy về CN hố Việt Nam đã có một bước nhận thức mang tính đột phá, đó là
tập trung sức phát triển nông nghiệp. Đây là một nhận thức đúng đắn, phù hợp với
nhu cầu VN lúc bấy giờ khi chúng ta thoát khỏi chiến tranh chưa lâu, và nhu cầu thiết
yếu vẫn là một trong những nhu cầu lớn của xã hội VN lúc bấy giờ. Tuy nhiên, tiếc
rằng, đường lối CN hoá ở ĐH 5 với nhận thức của Đảng tập trung sức phát triển nông
nghiệp lại không được thực hiện trong thực tiễn vì quá trình này khơng song hành với
q trình đổi mới cơ chế quản lí kinh tế. Giai đoạn này cơ chế quản lí kinh tế ở VN
vẫn là cơ chế kế hoạch hoá tập trung, vì vậy việc phát triển lực lượng sản xuất không
song song với thiết lập quan hệ sản xuất tương ứng, đã làm cho đường lối CN hoá ở
ĐH5 khơng có tính khả thi dù đúng đắn. Các nhà nghiên cứu đã ví đường lối này như
hình ảnh “vừa đạp xe vừa bóp phanh”.
Thiết lập quan hệ sản xuất được thể hiện thông qua việc thiết lập 3 mặt cơ bản
của quan hệ sản xuất, gồm: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lí và quan hệ phân phối.
Trong thời kì này, về chế độ sở hữu, Đảng chỉ thừa nhận duy nhất sở hữu công cộng
(gồm sở hữu tồn dân, sở hữu tập thể) và khơng thừa nhận sở hữu tư nhân. Chúng ta
đã xoá bỏ sở hữu tư nhân bằng các hình thức như: quốc hữu hố, cải tạo, tư sản.
Với cách làm này, sở hữu công đã được thiết lập như là một hình thức sở hữu
duy nhất trên tồn VN trong thời kì bao cấp. Nền kinh tế VN chỉ gồm 2 thành phần là
kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Cơ chế quản lí kinh tế là cơ chế kế hoạch hố
tập trung + chế độ phân phối bao cấp
Đây là một giai đoạn lịch sử vơ cùng khó khăn trong lịch sử VN sau khi
chúng ta chiến thắng kẻ thù xâm lược lớn mạnh. Kết quả của việc thực hiện ĐH4, 5 là
đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội với sự thiếu thốn rất nhiều mặt
trong việc đáp ứng các nhu cầu thiết yếu và sự rối loạn về mặt xã hội.
Về chính trị, trong thời bao cấp 1975-1986, trong giai đoạn này, bộ máy nhà

nước vô cùng khổng lồ cồng kềnh, nhiều thang bậc vì vậy hoạt động rất kém hiệu quả,
tệ quan liêu, bàn giấy trở nên phổ biến. Nhà nước chi phối mọi hoạt động của đời
sống xã hội, không chỉ những hoạt động cộng đồng mà còn với những hoạt động của
cá nhân.


Trong thời kì bao cấp, văn hố được kiểm sốt rất chặt chẽ, nhân dân ít được
tiếp xúc với văn hoá phương Tây. Về mặt văn học, chỉ phát triển văn học cổ điển, văn
học Nga, văn học XHCN, văn học cách mạng, văn học hiện thực phê phán, văn học
hiện thực XHCN, văn học cánh tả, văn học phương Tây gần như rất vắng bóng. Về
phim ảnh, chúng ta chỉ lưu hành những bộ phim Mậu dịch là phim của nhà nước đã
kiểm soát và cho phép chiếu, phim thương mại rất ít. Nguồn gốc xuất xứ phim chủ
yếu từ Liên Xơ và các nước XHCN, ít phim từ các nước tư bản, phim Trung Quốc sau
cuộc chiến tranh biên giới thì bị cấm. Báo chí thì khơng có báo chí thương mại, khơng
có quảng cáo trên báo chí, chủ yếu là báo chí cách mạng có phong cách giống nhau.
Các văn nghệ sĩ sinh hoạt trong các cơ quan nhà nước, được trả lương như cán bộ
công chức, vì vậy khả năng sáng tạo, tạo ra các tác phẩm mang tính chất độc đáo,
mang cá tính, mang bản sắc riêng gần như rất hiếm.
Xã hội tồn tại trong một trạng thái khép kín, đầy nghi kị, đầy định kiến, và rất
bí bách, ngột ngạt. Về mặt quan hệ xã hội, chúng ta rất thận trọng với người phương
Tây nói riêng và người nước ngồi nói chung, người Việt không được tiếp xúc với
người ngoại quốc, du lịch không được quan tâm, xuất nhập cảnh vô cùng gắt gao, sự
thiếu thốn đói khổ về kinh tế dẫn tới nạn ăn cắp vặt trở nên phổ biến. Giai đoạn này
chúng ta khơng có nhiều loại hình giải trí, việc sinh viên thi đại học vơ cùng khó
nhưng mà khi ra trường thì hầu như khơng thất nghiệp vì nhà nước đã bố trí cơng ăn
việc làm, tính cộng đồng rất cao. Y tế, giáo dục được bao cấp, tuy nhiên vì nhà nước
rất nghèo nên trang thiết bị thiếu thốn và nghèo nàn, con người trong giai đoạn này
dường như ít áp lực về công việc, về đời sống vật chất như giai đoạn từ 1986 tới nay,
nhưng sống trong một trạng thái hết sức thiếu thốn về kinh tế và o bí, bức bối về mặt
xã hội.

Về mặt đối ngoại thời kì này, chúng ta quan hệ rất hạn chế, chủ yếu với các
nước trong hệ thống XHCN, gồm Liên Xô và hệ thống các nước XHCN Đông Âu,
chúng ta quan hệ với họ để chủ yếu xin viện trợ kinh tế. Sau này là các biên bản hợp
tác giữa các nước để chúng ta cho người VN đi xuất khẩu lao động, đi du học ở các
nước XHCN, nhưng thực chất rất nhiều du học sinh không học hành được là mấy mà
sự khó khăn thiếu thốn về đời sống kinh tế trong nước đã dẫn đến một thực tế khá
buồn là nhiều anh chị du học sinh đã đi bn là chính.
10 năm thời bao cấp 1975-1986 là một giai đoạn lịch sử đặc biệt trong lịch sử
xã hội VN thế kỉ XX. Đây là một giai đoạn chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt
là về kinh tế do cả nhân tố,cả lí do khách quan và lí do chủ quan. Tuy nhiên trong thời


gian này, đảng đã khẳng định 3 thành tựu nổi bật, thứ nhất chúng ta đã thống nhất
nước nhà về mặt nhà nước, đã tổng tuyển cử bầu ra quốc hội chung cho cả 2 miền; thứ
hai, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong xây dựng CNXH; thứ ba,
chúng ta đã giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ
quốc tế.
Hiểu được quá trình đổi mới tư duy lý luận, khảo nghiệm thực tiễn trong
những năm 1975-1986 để hình thành con đường đổi mới đất nước. Nắm vững đường
lối đổi mới được hoạch định tại Đại hội VI của Đảng (12-1986). Sự phát triển đường
lối và tổ chức thực hiện hơn 30 năm qua đưa đất nước vững bước phát triển trên con
đường xã hội chủ nghĩa. Lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, các cuộc
kháng chiến, cách mạng xã hội chủ nghĩa phải vượt qua nhiều nguy cơ, khó khăn,
thách thức, trong đó có cả khuyết điểm, yếu kém ở mỗi thời kỳ. Đảng đã kiên cường
cùng toàn dân vượt qua, quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, thực hiện thành công sứ
mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nhận thức rõ hơn những truyền thống vẻ
vang của Đảng.
Ngồi ra, cịn cảm nhận được sự phải kiên quyết phê phán những biểu hiện
tiêu cực, lạc hậu, hư hỏng. Hiện nay, sự phê phán nhằm ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự

chuyển hóa” trong nội bộ.
Qua đó, củng cố, bồi đắp niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, tự hào về
Đảng và thế hệ trẻ gia nhập Đảng, tham gia xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh,
tiếp tục thực hiện sứ mệnh vẻ vang của Đảng lãnh đạo bảo vệ vững chắc Tổ quốc và
xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

6. Phân tích các đặc trưng của một xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng trong
cương lĩnh 2011 bổ sung thêm những đặc trưng nào? Em có thể góp gì vào việc
xây dựng một xã hội như trên?
Trong cương lĩnh 2011, Đảng ta xác định xã hội xã hội chủ nghĩa có 8 đặc
trưng. Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước
hết là thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn
Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái


phổ biến” và “cái đặc thù,” cái chung và cái riêng để tạo nên một mơ hình: chủ nghĩa
xã hội Việt Nam .
Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây
là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được
biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Marx-Lenin về mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh…là công bằng, hợp lý, mọi
người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc…
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng
tới việc hiện thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng văn minh. Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới

bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự. Đây là khát
vọng tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và
thống nhất Tổ quốc.
Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà
nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt chính trị của chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin sự
nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư tưởng truyền
thống của dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là dân là chủ, dân làm chủ.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện
trong nhận thức của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa gắn liền với việc bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân
dân là chủ thể của mọi quyền lực). “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ
ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả
các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức
dân chủ trực tiếp…”.
Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Đây là đặc trưng thể hiện
tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng
so với các chế độ xã hội khác.
Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính
chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân


tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc.
Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với

kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của chủ
nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế.
Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tính ưu
việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện khái
quát, nhân văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền
thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc...).
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa
phải tiếp thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển
bản sắc văn hóa của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam
thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến với những giá trị
mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây
dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng
của phát triển.
Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển tồn diện. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây
dựng không chỉ được thể hiện trong đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, mà còn được thể hiện qua đặc trưng về con người trong xã
hội xã hội chủ nghĩa. Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ
nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con người
toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải
có con người xã hội chủ nghĩa. Để có con người xã hội chủ nghĩa phải xác định và
hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của con người trong xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Cương lĩnh đã xác định hệ giá trị phản



ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện nay là: có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân. Tính ưu việt
của chủ nghĩa xã hội thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con
người, chăm lo xây dựng con người, phát triển tồn diện con người (đức, trí, thể, mỹ)
của Đảng và Nhà nước ta.
Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết,
tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong
chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ dân tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ
giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam.
Thực hiện 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của chủ nghĩa
xã hội trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy
truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận trong cộng đồng 54 dân tộc
anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.
Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân
ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân
dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân
làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân
dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của
nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn
ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vơ trách nhiệm, lộng quyền, xâm
phạm quyền dân chủ của công dân…
Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên
thế giới. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu

việt trong các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà cịn thể hiện trong quan
hệ đối ngoại, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Việt Nam luôn luôn
khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta và nhân dân các nước trên
thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế…
Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước,
khơng phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản
của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.


Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ chức,
diễn đàn quốc tế và khu vực đã chứng minh một cách sinh động tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng, thể hiện trong đặc trưng về quan hệ đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Tám đặc trưng trên vừa mang giá trị, ý nguyện và khát vọng của dân tộc Việt
Nam, vừa mang giá trị phổ quát của nhân loại và tầm nhìn của thời đại.
Là một sinh viện, em cảm thấy phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi
cho bản thân những kỹ năng cần thiết, khơng ngừng nâng cao trình độ chun mơn,
nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển
của cá nhân. Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu
tranh với những hoạt động, sản phẩm văn hóa khơng lành mạnh.
Ngồi ra, cũng cần quan tâm đến đời sống chính trị- xã hội của địa phương,
đất nước, đồng thời Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước; đồng thời vận động mọi người xung quanh cùng thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật. Biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại lợi
ích quốc gia, dân tộc.
Tích cực tham gia góp phần xây dựng quê hương bằng những việc làm thiết
thực, phù hợp khả năng như: tham gia bảo vệ môi trường, phịng chống tệ nạn xã hội,
xố đói giảm nghèo, chống tiêu cực, tham nhũng, tham gia những hoạt động mang
tính xã hội như hiến máu tình nguyện, làm tình nguyện viên…Tích cực rèn luyện đạo
đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa các tệ nạn xã hội; biết đấu

tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng, thực dụng, xa rời các giá trị văn hoáđạo đức truyền thống của dân tộc.
Mỗi con người sinh ra đều mang trong mình một sứ mệnh riêng, nhưng hơn tất
cả, sứ mệnh chung của chúng ta đặc biệt là giới trẻ thì trách nhiệm đối với đất nước là
một sứ mệnh vô cùng quan trọng. Vậy trách nhiệm của tuổi trẻ đối với quê hương đất
nước là gì? Trách nhiệm của tuổi trẻ đối với quê hương, đất nước là trách nhiệm giữ
gìn nền độc lập, tích cực xây dựng nước nhà ngày càng vững mạnh.
Trước tiên đối với công cuộc xây dựng tổ quốc thanh niên cần phải: Chăm chỉ,
sáng tạo, học tập, lao động; có mục đích, động cơ học tập đúng đắn, học tập để mai
sau xây dựng đất nước, hiểu học tập tốt là yêu nước. Quan tâm đến đời sống chính trịxã hội của địa phương, đất nước, đồng thời Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời vận động mọi người xung quanh cùng
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong;
lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh chống các


biểu hiện của lối sống lai căng, thực dụng, xa rời các giá trị văn hoá- đạo đức truyền
thống của dân tộc. Tích cực tham gia góp phần xây dựng quê hương bằng những việc
làm thiết thực, phù hợp khả năng như: tham gia bảo vệ mơi trường, phịng chống tệ
nạn xã hội, xố đói giảm nghèo, chống tiêu cực, tham nhũng, tham gia những hoạt
động mang tính xã hội như hiến máu tình nguyện, làm tình nguyện viên. Biết phê
phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.
Trong bất kì thời đại hịa bình hay chiến tranh thì chúng ta ln phải xây dựng,
ý thức củng cố, vững mạnh hơn nữa về Đoàn kết dân tộc, về kiên cường bất khuất
chống giặc ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền, nền độc lập, không chịu làm nô lệ. Ngày
nay khi đất nước đã hịa bình lặp lại, chúng ta được sống trong mơi trường tốt hơn,
mọi thứ đầy đủ và sung túc. Càng như vậy chúng ta càng phải thấm nhuần, biết ơn
những người đã hi sinh đi trước để Bảo vệ Tổ quốc mang lại cuộc sống bình yên. Để
cảm ơn những vị cha, anh, chị đã hi sinh thì chúng ta phải sống ý nghĩa và phải gia
sức bảo vệ Tổ quốc.
Mỗi chúng ta để làm tốt điều này thì phải coi đây là một nghĩa vụ thiêng liêng
cao quý của mỗi cơng dân. Từ đó chúng ta sẽ ý thức được Trách nhiệm của thanh

niên, học sinh hiện nay là: Tích cực học tập, rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, bảo
vệ sức khoẻ. Trung thành với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, Cảnh giác trước
âm mưu chia rẽ, xuyên tạc của các thế lực thù địch; phê phán, đấu tranh với những
thái độ, việc làm gây tổn hại đến an ninh quốc gia, xâm phạm chủ quyền và tồn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc. Tích cực tham gia các hoạt động an ninh, quốc phòng ở địa
phương; tham gia hoạt động đền ơn đáp nghĩa…
7. Nêu các bài học kinh nghiệm (5 bài học). Phân tích bài học kinh nghiệm: Nắm
vững 2 ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Em có thể làm gì để góp phần vào
cơng cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hôm nay?(Tr.206)
Liên hệ: học tử tế, chọn lọc thơng tin, kiên định trong thời kì 4.0
Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua, Đảng ta
đã tích luỹ và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh
quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã
hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với
nhau.


Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của
Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh
của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân
dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ
xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, khơng ngừng củng cố, tăng cường đồn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn
kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đồn kết quốc tế. Đó là truyền thống q báu và là
nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết:
Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết - Thành cơng, thành công, đại thành công.

Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước
với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập,
tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng khơng có lợi ích nào khác ngồi việc phụng sự tổ
quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng ngừng làm giàu trí tuệ, nâng
cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các
vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ
lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng
viên./.
Mỗi con người sinh ra đều mang trong mình một sứ mệnh riêng, nhưng hơn tất
cả, sứ mệnh chung của chúng ta đặc biệt là giới trẻ thì trách nhiệm đối với đất nước là
một sứ mệnh vô cùng quan trọng. Vậy trách nhiệm của tuổi trẻ đối với quê hương đất
nước là gì? Trách nhiệm của tuổi trẻ đối với quê hương, đất nước là trách nhiệm giữ
gìn nền độc lập, tích cực xây dựng nước nhà ngày càng vững mạnh.
Trước tiên đối với công cuộc xây dựng tổ quốc thanh niên cần phải: Chăm chỉ,
sáng tạo, học tập, lao động; có mục đích, động cơ học tập đúng đắn, học tập để mai
sau xây dựng đất nước, hiểu học tập tốt là yêu nước. Quan tâm đến đời sống chính trịxã hội của địa phương, đất nước, đồng thời Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời vận động mọi người xung quanh cùng
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong;


×