Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Đánh giá các yếu tố môi trường, thị trường và cạnh tranh của công ty Vinamit trên thị trường Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.91 KB, 54 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Sau 30 năm đổi mới kinh tế nước ta đã có sự phát triển vượt bậc và thu được
nhiều thành tựu rất quan trọng. Do đó một mặt tạo điều kiện thuận lợi về việc hội nhập
từng bước vào nền kinh tế của khu vực và thế giới, mặt khác cũng đặt ra những địi
hỏi phải có được một sự tiếp cận và xử lý mới đối với các mối quan hệ thương mại
quốc tế của Việt Nam. Đặc biệt hiện nay, nước ta là thành viên của 63 tổ chức quốc tế
và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ trên thế giới như WTO, IMF,
ASEAN...
Trong bối cảnh này thương mại quốc tế nói chung và marketing quốc tế nói
riêng đã và đang có những thay đổi rất đáng kể. Những thách thức và thời cơ mới nhu
cầu và địi hỏi phải có các quan niệm mới, các phương thức tổ chức và công nghệ sản
xuất kinh doanh mới, giúp cho các doanh nghiệp đáp ứng u cầu cạnh tranh trong
q trình tồn cầu hóa các nỗ lực marketing quốc tế.
Thơng qua học phần Marketing quốc tế được giảng dạy tại trường đại học
Thương mại, chúng em đã có thể nhận dạng và phân tích sự thay đổi đối với những
khác biệt về kinh tế chính trị văn hóa và tác động ảnh hưởng của chúng đến các quyết
định marketing- mix. Từ đó hiểu được các chiến lược, chiến thuật và các mơ hình
trong quản trị các chính sách sản phẩm, định giá, phân phối, xúc tiến, kiểm soát các nỗ
lực marketing quốc tế giúp doanh nghiệp có thể tham gia các hoạt động xuất nhập
khẩu.
Để trình bày và làm rõ hơn các lý thuyết đã học được đồng thời với các áp
dụng sâu các kiến thức vào thực tế thông qua đề tài: “Chọn một công ty kinh doanh
quốc tế của hoạt động ở Việt Nam hoặc nước ngoài? Đánh giá các yếu tố môi
trường, thị trường và cạnh tranh của công ty đó trên thị trường quốc tế? Đề suất
các giải pháp đối với chương trình sản phẩm quốc tế nhằm thích ứng với các điều
kiện kinh doanh quốc tế trên của công ty”. Nhóm 1 lựa chọn cơng ty Vinamit trên thị
trường Trung Quốc để làm rõ nội dung này.


PHẦN I. GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY VINAMIT.


1.1. Giới thiệu chung về công ty.
Tên đầy đủ: Công ty cổ phần Vinamit.
Tên giao dịch quốc tế: Vinamit Joint Stock Company
Slogan: “Spice of life from natures” - Hương vị cuộc
sống từ thiên nhiên.
Website: www.vinamit.com
Nhà sáng lập: Nguyễn Lâm Viên
Giám đốc kinh doanh: Nguyễn Văn Hải
Cơng ty Vinamit có tiền thân là cơng ty TNHH TM Đức Thành, thành lập năm
1988. Công ty chuyên sản xuất và kinh doanh các mặt hàng nông phẩm và trái cây. Là
công ty Việt Nam đầu tiên áp dụng công nghệ sấy thăng hoa trong điều kiện chân
không đối với trái cây và hàng nông sản, đem lại điều kiện bảo quản lâu dài và giữ
được giá trị dinh dưỡng cho sản phẩm, từ đó nâng cao chất lượng và có thể đem đi
xuất khẩu rộng rãi ra các thị trường nước ngồi.
Cơng ty hiện có 2 cụm nhà máy chế biến tại Bình Dương và Đắk Lắc với quy
mơ khoảng 10 nghìn hecta, cơng suất 20 tấn thành phẩm/ngày. Công ty tự hào là một
trong những đơn vị sỡ hữu tồn bộ cơng nghệ hàng đầu Việt Nam, nhiều năm liền
được vinh danh và đạt được những chứng chỉ vệ sinh an toàn thực phẩm tiêu chuẩn
thế giới.
Tầm nhìn của cơng ty là nâng tầm giá trị nông sản Việt vươn ra thế giới, ngày
càng cố gắng đưa nền Nông nghiệp Việt Nam và sản phẩm nông nghiệp Việt lên một
tầm cao mới.
Sứ mệnh của Vinamit là mang đến cho người tiêu dùng những gia vị cuộc sống
đến từ thiên nhiên thông qua các sản phẩm của chúng tơi. Ngồi ra, giúp đỡ bà con
nơng dân và tìm đầu ra cho sản phẩm sau thu hoạch, khuyến khích nơng dân canh tác
là một sứ mênh quan trọng của Vinamit.
Các sản phẩm của Vinamit hiện được bán trong nước và xuất sang nhiều thị
trường như: Mỹ, EU, Trung Quốc, Philipine, Nhật...
1.2. Tình hình hoạt động trong nước và tại Trung Quốc của Vinamit.
Tại Việt Nam



Vinamit là một thương hiệu lớn, có quy mơ và rất uy tín ở nước ta. Trong suốt
thời gian phát triển, cơng ty đã có đến hơn 80 mặt hàng hoa quả sấy được bán trên thị
trường. Người tiêu dùng Việt ưu thích hương vị của các sản phẩm bởi độ tươi ngon,
dẻo hay giịn thơm tự nhiên, khơng có hương liệu và mùi hóa học cơng nghiệp. Nguồn
nơng sản được thu mua từ những nông trại và từ các hợp tác xã uy tín, chất lượng đảm
bảo. Hơn thế nữa, cơng ty cịn đầu tư xây dựng nơng trại riêng để ưu tiên sản xuất
những sản phẩm Organic chất lượng cao cấp. Giá cả các sản phẩm của Vinamit được
đánh giá thuộc phân khúc trung bình và cao, chú trọng xây dựng hình ảnh và chất
lượng tốt. Các sản phẩm được phân phối rộng rãi tại các cửa hàng, siêu thị trên phạm
vi toàn quốc.
Tại Trung Quốc
Tiêu chuẩn hữu cơ của Mỹ và Châu Âu vẫn chưa đủ để trở thành tấm vé thông
hành vào thị trường Trung Quốc của Vinamit. Phải mất khoảng 3 năm (2016-2019) và
tuân thủ 500 tiêu chuẩn, Vinamit mới chính thức bước chân vào thị trường tỉ dân này.
Từ năm 2000, Vinamit đã xuất khẩu các sản phẩm vào thị trường này xong do
thiếu các giấy chứng nhận của Chính phủ Trung Quốc nên Vinamit vẫn phải bán hàng
với giá thấp. Thiếu giấy chứng nhận cũng khiến các sản phẩm bị làm giả dẫn tới tổn
thất về thương hiệu. Sau nhiều năm lao đao vì kiện tụng liên quan đến việc địi lại
thương hiệu bị đánh cắp và làm giả tại Trung Quốc, tìm cách vực dậy, kêu oan, vụ
kiện đã ngã ngũ. Dù phải tốn rất nhiều công sức nhưng người đứng đầu công ty đã rút
ra được bài học quý giá trên con đường xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài.
Năm 2018 đánh dấu công ty xuất được khoảng 1.600 tấn mít sấy sang các nước
thì trong đó có 1.100 tấn xuất sang Trung Quốc. Mới đây, Vinamit đã kí thỏa thuận với
Nongfu Shanghai để phân phối hơn 150.000 tấn trái cây tươi riêng cho thị trường
Thượng Hải. Cũng phải nói thêm, thị trường Trung Quốc hiện đang nâng chất lượng
sản phẩm nhập khẩu, nhất là nông sản, nhưng khoảng 70% mặt hàng xuất thơ vào
Trung Quốc. Do đó, nỗ lực đưa hàng nông sản hữu cơ đã qua chế biến đang được
nhiều doanh nghiệp học hỏi và tìm kiếm. Trong cơ cấu xuất khẩu của mình thì 60% là

xuất sang Trung Quốc, còn lại là các thị trường khác. Do đó, cơng ty ln nỗ lực lên
những kế hoạch và chiến lược để tiếp tục mở rộng và ổn định quá trình kinh doanh
xuất khẩu sang Trung Quốc trong thời gian tới.
II. ĐÁNH GIÁ MÔI TRƯỜNG, THỊ TRƯỜNG VÀ CẠNH TRANH CỦA
VINAMIT TRÊN LÃNH THỔ TRUNG QUỐC.
2.1. Đánh giá môi trường tác nghiệp tại thị trường Trung Quốc
2.1.1. Môi trường Kinh tế.


a. Các nguyên tắc kinh tế cơ bản
- Hệ thống kinh tế: Kinh tế Trung Quốc đại lục là một nền kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa có quy mô lớn thứ hai trên thế giới (sau Hoa Kỳ).
Kể từ năm 1978 chính quyền Trung Quốc đã cải cách nền kinh tế từ một nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung theo mơ hình Liên Xơ sang nền kinh tế theo định
hướng thị trường trong khi vẫn duy trì thể chế chính trị do Đảng Cộng sản Trung
Quốc lãnh đạo. Các cải cách quyết liệt từ những năm 1978 đã giúp hàng triệu người
thoát nghèo, đưa tỷ lệ nghèo từ 53% dân số năm 1981 xuống còn 8% vào năm 2001.
Để đạt được mục tiêu này, Chính phủ đã theo đuổi chính sách cải cách nơng nghiệp,
xóa bỏ chế độ cơng xã và áp dụng chế độ khốn đến hộ gia đình, cho người nơng dân
quyền quyết định lớn hơn trong nghề nơng, đồng thời cũng khuyến khích các ngành
phi nơng nghiệp như các xí nghiệp hương trấn ở vùng nông thôn, tăng cường quyền tự
chủ trong các doanh nghiệp quốc doanh, tăng tính cạnh tranh trên thị trường và tạo
điều kiện thuận lợi cho sự tiếp xúc giữa các doanh nghiệp Trung Hoa đại lục với các
doanh nghiệp thương mại nước ngồi.
Ở Trung Quốc, bàn tay vơ hình đã phát huy tác dụng to lớn. Cơ chế thị trường
là biện pháp hết sức quan trọng trong phân phối tài ngun. Nó có thể thơng qua sự
tác động và ảnh hưởng lẫn nhau giữa cung, cầu, giá cả cạnh tranh thúc đẩy phân phối
và sử dụng tài nguyên hợp lý, từ đó thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Thị trường hàng
hóa phát triển lành mạnh, với trên 95% hàng hóa do thị trường điều phối, hàng hóa do
nhà nước định giá chỉ gần 5%. Về cơ bản, thị trường hàng hóa thơng suốt, phục vụ

chu đáo, đầy đủ mặt hàng. Thị trường các yếu tố sản xuất khơng ngừng hồn thiện,
hình thành một hệ thống thị trường tương đối hoàn chỉnh bao gồm thị trường lao
động, thị trường vốn, thị trường đất đai, thị trường khoa học cơng nghệ... Bàn tay hữu
hình của nhà nước cũng đã phát huy tích cực. Điều tiết vĩ mơ của chính phủ thơng qua
chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách pháp luật và hành chính là những
biện pháp mà chính phủ tác động vào thị trường để khắc phục những khiếm khuyết
mà kinh tế thị trường mang lại. Mục đích là thúc đẩy kinh tế phát triển, tăng thêm việc
làm, ổn định mức giá cả, bảo đảm cân bằng cán cân thương mại.
Từ khi thực hiện các cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc có nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa - một nền kinh tế trong đó khu vực doanh nghiệp
nhà nước thống trị tồn tại song song với chủ nghĩa tư bản thị trường và sở hữu tư nhân
đã giúp Trung Quốc khởi động sự bùng nổ mở rộng kéo dài mà vẫn tiếp tục cho đến
ngày nay. Tuy nhiên do tăng trưởng tốc độ cao trong một thời gian dài, những hệ lụy
để lại cho nền kinh tế Trung Quốc vẫn chưa được giải quyết triệt để, chưa được khắc


phục kịp thời, như cạn kiệt các nguồn tài nguyên và ô nhiễm môi trường, mức độ
chênh lệch giàu - nghèo cao, phát triển không cân đối...

- Cấu trúc kinh tế.
Năm 2020, ngành nơng nghiệp đã đóng góp khoảng 7,7% vào tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của Trung Quốc, trong khi 37,8% giá trị gia tăng kinh tế đến từ ngành
công nghiệp và 54,5% từ lĩnh vực dịch vụ.

Tỷ trọng ngành nghề của Trung Quốc từ năm 2010-2020
Hầu như ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng lớn nhất và có chiều hướng tăng dần
trong khi ngành cơng nghiệp đang có dấu hiệu giảm sút qua từng năm. Ngành nông
nghiệp chiếm tỉ lệ thấp nhất dưới 10%.
Công nghiệp.
Công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng tỉ trọng lớn trong GDP của Trung

Quốc. Trung Quốc là một trong những nước đứng hàng đầu ra công nghiệp trên thế
giới. Công nghiệp chủ yếu là mỏ, xử lý quặng, sắt thép, nhơm, than đá, máy móc, vũ
khí, hàng dệt may, dầu mỏ, xi măng, hóa chất, phân bón, điện tử, hàng cơng nghệ viễn
thơng. Đây cũng là quốc gia sản xuất và tiêu thụ ô tô lớn nhất thế giới. Hầu hết các
loại ô tô sản xuất tại Trung Quốc, dù thương hiệu nội địa hay nước ngoài, đều được
tiêu thụ trong nước. Trong rất nhiều các ngành cơng nghiệp khác nhau, chế tạo máy
móc và công nghiệp luyện kim nhận được nhiều ưu tiên cao nhất. Hai lĩnh vực này
bản thân đã chiếm khoảng 20-30% tổng giá trị của đầu ra công nghiệp. Việc tập trung
cũng dễ nhận thấy là phát triển cơng nghiệp hóa chất để nở rộng sản xuất đầu ra của


phân bón hóa học, nhựa và sợi tổng hợp. Sự phát triển ngành công nghiệp này đã xếp
Trung quốc vào hàng những nước sản xuất hàng đầu thế giới về phân bón hóa học.
Về lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng, tập trung chủ yếu vào hàng dệt may và
quần áo, việc này đóng một phần quan trọng vào xuất khẩu của Trung Quốc. Công
nghiệp sản xuất hàng dệt may có tỷ trọng tăng trưởng nhanh chóng gồm cả sợi tổng
hợp ước tính khoảng 10% sản lượng đầu ra và tiếp tục đóng vai trị quan trọng nhưng
ít hơn nhiều trước đây.
Nông nghiệp:
Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất trên thế giới và là một trong những nước
sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp nhiều nhất. Trung quốc xếp hàng đầu
về sản lượng lương thực đầu ra, do ảnh hưởng của các nhân tố địa lý và khí hậu, chỉ
khoảng 10 - 15% tổng số đất trồng là thích hợp để canh tác. Khoảng 7% GDP của
Trung Quốc đến từ nông nghiệp. Các sản phẩm nông nghiệp chủ yếu của quốc gia này
bao gồm gạo và lúa mì – mặc dù khơng mang lại lợi nhuận lớn nhất nhưng là những
sản phẩm cần thiết nhất trong bữa ăn của người Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung
Quốc cũng trồng các loại hạt đậu, rau, trái cây, hạt tinh dầu, trà, cà phê, ngô và cây
thuốc lá. Nghề nuôi gia súc đứng thứ hai về tầm quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp của Trung Quốc. Trung Quốc là nước dẫn đầu về sản xuất thịt lợn, thịt gà,
trứng và cũng có những đàn gia súc có quy mơ lớn và có truyền thống về nghề chế

biển, ni cá nước ngọt và nuôi trồng thủy sản.
Tuy nhiên, ngành nông nghiệp Trung Quốc không phát triển bền vững: Trung
Quốc dẫn đầu danh sách về việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu và hậu quả là đất ở
tình trạng ô nhiễm đáng báo động và gây thiệt hại cho môi trường. Cũng giống như
ngành sản xuất công nghiệp, ngành nơng nghiệp của Trung Quốc cần phải được hiện
đại hố và chuyển hướng sang phát triển bền vững.
Dịch vụ:
Quá trình hiện đại hoá nền kinh tế đã dẫn đến sự phát triển ngành dịch vụ với
lợi nhuận chủ yếu dựa vào tiêu dùng nội địa. Các dịch vụ tài chính nói chung, đặc biệt
là thị trường chứng khốn, chăm sóc y tế, kinh doanh nhỏ, giáo dục, vui chơi giải trí,
văn hố, khoa học và nghiên cứu, lần đầu tiên đóng góp trên 50% GDP Trung Quốc
trong năm 2015 từ đó trở đi con số này tiếp tục tăng dần đều qua các năm. Đây là nơi
tập trung những trung tâm mua sắm lớn nhất thế giới, với những con số tiêu thụ lớn
đặc biệt lớn trong các mùa lễ hội. Ngành du lịch của Trung Quốc chiếm tỉ trọng và thị
phần ngày càng lớn, là một trong số ít ngành dẫn đầu về doanh thu hàng năm. Tính
chung ngành dịch vụ của Trung Quốc hiện đóng góp đến 30% vào GDP của nước này.


Du lịch hiện đang nhanh chóng phát triển, trở thành một động lực lớn của nền kinh
tế... Trung Quốc là một trong những thị trường thu hút khách du lịch lớn nhất tại Châu
Á, chiếm gần 34% tổng số khách du lịch đến trong khu vực
Tuy nhiên, dịch bệnh COVID-19 làm cho nền kinh tế lớn thứ hai thế giới bị “co
lại” lần đầu tiên kể từ những năm 70 của thế kỷ XX, sản lượng công nghiệp giảm
mạnh, chỉ số quản lý thu mua (PMI) sản xuất giảm, dịch vụ hàng không và du lịch
thiệt hại nặng nề gây ra rất nhiều tổn thất, thiệt hại về kinh tế con người của đất nước
này. Điều này đòi hỏi Trung Quốc cần có những phương pháp những chính sách đúng
đắn về kinh tế để phục hồi lại.

-


Mức độ phát triển kinh tế.

Trong năm 2020, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nền kinh tế thứ 2 thế giới
đã tăng 2,3% và đạt 101.598 Nhân dân tệ (tương đương 15,52 nghìn tỷ USD). GDP
tăng trưởng ở mức 2,3% là mức tăng thấp nhất của Trung Quốc kể từ khi tiến hành cải
cách mở cửa năm 1978. Tuy nhiên, thành tích trên đã đưa Trung Quốc trở thành nền
kinh tế lớn duy nhất đạt tăng trưởng dương trong bối cảnh kinh tế tồn cầu điêu đứng
vì COVID-19. Đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu là “cỗ xe tam mã” đã kéo nền kinh tế
Trung Quốc vượt qua khủng hoảng và tạo đà giúp tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
của nước này đạt mốc kỷ lục 32,16 nghìn tỷ nhân dân tệ, quy mô thương mại quốc tế.
Tờ Bloomberg dẫn lời một số chuyên gia kinh tế dự báo trong năm 2021, tăng
trưởng GDP của Trung Quốc sẽ đạt 8,2%, củng cố triển vọng tăng trưởng của nền kinh
tế toàn cầu trước ngưỡng cửa hồi phục do những tiến bộ trong điều chế vaccine
COVID-19. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng còn phụ thuộc vào những nỗ lực của chính
phủ Trung Quốc trong việc chặn đứng dịch bệnh tái bùng phát trên diện rộng, cũng
như chuyển hướng thúc đẩy chi tiêu từ các chính quyền địa phương và cơng ty nhà
nước lớn sang phía người tiêu dùng và các doanh nghiệp tư nhân.

b. Các biến số then chốt.
- Địa lý- khí hậu:
Vị trí địa lý: với diện tích là 9,6 triệu km2 là quốc gia lớn thứ 4 thế giới về tổng
diện tích (sau Nga, Canada và Hoa Kỳ), Trung Quốc nằm ở phần nửa phía bắc của
Đơng bán cầu, phía đơng nam của đại lục Á - Âu, phía đơng và giữa châu Á, phía Tây
của Thái Bình Dương; có biên giới chung với 14 quốc gia và lãnh thổ: Nga, Mông Cổ
….Trung Quốc kéo dài khoảng 5.026 km ngang qua theo khối lục địa Đông Á giáp
với biển Đông Trung Hoa, vịnh Triều Tiên, Hồng Hải, và Biển Đơng, giữa Bắc Triều
Tiên và Việt Nam.


Nửa phía Đơng của quốc gia này là các vùng duyên hải rìa các đảo là một vùng

bình nguyên phì nhiêu, đồi và núi, các sa mạc và các thảo nguyên và các khu vực cận
nhiệt đới có các đồng bằng châu thổ rộng lớn, đất phù sa màu mỡ là nơi dân cư tập
trung đông đúc, nông nghiệp trù phú. Giàu khoáng sản kim loại màu, tạo điều kiện
cho phát triển cơng nghiệp.
Nửa phía Tây của Trung Quốc là một vùng các lưu vực chìm trong các cao
nguyên, các khối núi, bao gồm phần cao nguyên cao nhất trên trái đất khó khăn cho
sản xuất và cư trú. Tài ngun chính là rừng, đồng cỏ (phát triển chăn ni), khống
sản.
Khí hậu: Trung Quốc thuộc khu vực gió mùa, khí hậu đa dạng từ ấm đến khô.
Từ nam lên bắc lần là các vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, trung ơn đới, hàn ơn đới, cịn lại
khí hậu cao ngun Thanh Tạng là vùng khí hậu theo đường thẳng đứng. Đặc biệt khí
hậu Trung Quốc là về mùa đơng, nhiều vùng lạnh giá, khí hậu miền Nam Bắc chênh
lệch rõ ràng. Về mùa hè làm ánh mặt trời chiếu xuống bắc bán cầu miền Bắc ngày dài
hơn, về mùa đông mặt trời chiếu tới 2 miền Nam Bắc, ngày gần như nhau.
Thuận lợi

Khó khăn

+ Lãnh thổ rộng lớn và trải dài theo
chiều B-N và Đ-T, tạo cho cảnh quan
thiên nhiên đa dạng.
+ Tiếp giáp vùng biển rộng lớn phía
Đơng, thuận lợi để giao lưu mở rộng
quan hệ với các nước trong khu vực và
thế giới đặc biệt là các nước thuộc khu
vực châu Á- Thái Bình Dương, Bắc Mỹ.
+ Phát triển tổng hợp kinh tế biển.
+ Tài nguyên thiên nhiên đa dạng, giàu
có (đất, rừng, biển, khống sản…)


+ Lãnh thổ rộng lớn, khó khăn trong bảo
vệ lãnh thổ, quản lý các đơn vị hành
chính.
+ Nhiều múi giờ, bất lợi về hoạt động
kinh tế - đời sống giữa khu vực phía
Đơng và phía Tây lãnh thổ.
+ Đường biên giới kéo dài, chủ yếu ở
vùng núi cao nguyên, tiếp giáp với nhiều
quốc gia trên đất liền ⟶ vấn đề an ninh
quốc phòng phức tạp, dễ xảy ra mâu
thuẫn tranh chấp lãnh thổ.
+ Vùng nội địa khí hậu khơ hạn, khắc
nghiệt.

Tài nguyên thiên nhiên:
Trung Quốc có nhiều tài nguyên thiên nhiên, từ than đá đến khí đốt tự nhiên,
quặng sắt đến thủy ngân, và nông nghiệp đến uranium. Khi kết hợp với các tài nguyên
thiên nhiên khác như kẽm, thiếc, vonfram và chì, chúng cho phép Trung Quốc mở các
nhà máy mới và thuê thêm công nhân, mở rộng nền kinh tế vốn đã bùng nổ của họ.
Những nguồn cung cấp dư thừa khơng thể sử dụng theo cách đó có thể được xuất khẩu
sang các nước khác, mang lại nhiều của cải hơn cho quốc gia. Trong số các đặc điểm


tự nhiên rộng lớn của Trung Quốc, bốn tài sản riêng biệt cung cấp sự đa dạng và sức
mạnh tài khóa cho nhà nước.
Đất nơng nghiệp - Trung Quốc có những vùng đất nông nghiệp rộng khắp, trải
dài hơn 122.000 km vng và chiếm gần 10% diện tích đất nước. Những khu vực này
bao gồm các phần của miền Bắc Trung Quốc, các khu vực xung quanh sông Dương
Tử, lưu vực Tứ Xuyên, cũng như đồng bằng sông Châu Giang. Đất nông nghiệp màu
mỡ của những khu vực này sản xuất một lượng lớn lúa mì, gạo, ngơ và các loại lương

thực có giá trị khác.
Khống sản - Nhiều khống sản có giá trị được tìm thấy với nguồn cung lớn
trên khắp Trung Quốc. Đất nước này thực sự có trữ lượng lớn thứ ba về các khoáng
chất quan trọng nhất, chẳng hạn như niken và florua, trên toàn thế giới. Những khoáng
chất này được sử dụng trong các nhà máy và các dự án sản xuất khác.
Muối - Trung Quốc sản xuất 1/3 nguồn cung cấp muối của thế giới, khai thác
hơn 17 triệu tấn muối mỗi năm. Đây là nhà khai thác muối lớn nhất trên thế giới và
việc bán nó là một nguồn thu nhập lớn cho đất nước.
Nước - Trung Quốc tiếp cận nhiều nguồn nước khác nhau, bao gồm cả Thái
Bình Dương, các hồ nước ngọt và nước mặn, và các con sông lớn. Những điều này tạo
ra nhiều cách để quốc gia đạt được nhiều của cải hơn. Với thủy điện, 70% trong số đó
đến từ miền Tây Nam của đất nước, Trung Quốc có thể giảm nhu cầu nhập khẩu nhiên
liệu. Đánh cá, du lịch và các hoạt động khác cùng với chi phí cung cấp thêm tiền, cũng
như nhiều hồ ở Trung Quốc.
=> Trung Quốc có vơ số tài ngun thiên nhiên. Nhờ đó, quốc gia này có thể phát
triển mạnh mẽ hơn, đến mức có thể sánh ngang với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
- Thông tin nhân khẩu học.
Dân số hiện tại của Trung Quốc là 1.443.028.527 người vào ngày 03/04/2021
chiếm 18,37% dân số thế giới. Dân tộc Hán là chủ yếu, ngồi ra cịn có 55 dân tộc ít
người (chiếm 6% dân số cả nước và phân bổ trên 50-60% diện tích tồn quốc).
Trong đó khoảng 16,60% dân số từ 14 tuổi trở xuống, 70,14% từ 15 đến 59
tuổi, và 13,26% từ 60 tuổi trở lên. Tỷ lệ giới tính trong tổng dân số là 1,053 (1.053
nam trên 1.000 nữ).
Trung bình mỗi ngày dân số của Trung Quốc thay đổi như sau: 43.954 trẻ em
được sinh, 29.734 người chết, -816 người di cư.
=> Dân số đông, nhu cầu tiêu thụ lớn. Mặc dù cơ cấu dân số có xu hướng già hóa,
nhưng Trung Quốc là thị trường mà các nước khác luôn muốn chinh phục.


- Cơ sở hạ tầng

Sau một chiến lược kết nối phát triển ngành giao thông với phát triển kinh tế và
xã hội, trong nhiều thập kỷ qua, Trung Quốc đã biến đổi một lĩnh vực từng rất lạc hậu
thành một mạng lưới hiện đại, giờ đang dẫn đầu thế giới về quy mô cơ sở hạ tầng giao
thông. Cuối năm 2019, Trung Quốc đã có hệ thống đường sắt dài tổng cộng 139.000
km, trong đó 35.000 km là đường sắt cao tốc, và tổng cộng hơn 5 triệu km đường
quốc lộ, trong đó 150.000 km đường cao tốc. Hệ thống đường thủy nội địa dài
127.000 km và số sân bay dân sự đạt 238 sân bay. 37 thành phố của Trung Quốc đang
trong quá trình xây dựng tổng cộng 150 tuyến tàu điện ngầm mới và XCMG đang sản
xuất các thiết bị cần thiết cho một nửa trong số đó. Hệ thống đường sắt cao tốc của
Trung Quốc - nơi đã kết nối hơn 700 thị trấn và thành phố, đang mở rộng nhanh đến
mức hàng năm họ mua số lượng thiết bị gấp ba lần so với thị trường châu Âu và châu
Mỹ cộng lại.
Dự định những năm tiếp theo Trung Quốc đầu tư hơn 2000 tỷ USD vào cơ sở
hạ tầng. Không giống như những dự án cơ sở hạ tầng truyền thống như đường sá, cảng
biển, kế hoạch xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng mới tập trung vào tính ứng dụng của
các cơng nghệ tiên tiến. Ba lĩnh vực chính được kế hoạch này nhắm đến là xây dựng
hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thơng tin thế hệ tiếp theo, ví dụ như mạng khơng
dây 5G; nâng cấp và “thơng minh hóa” hệ thống cơ sở hạ tầng hiện tại; và phát triển
các trung tâm khoa học và bộ nguyên tắc giúp đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phát
triển công nghệ và sản phẩm.

-

Kết quả kinh tế.

Năm 2020 GDP (PPP): 27,3 nghìn tỷ đô la, Tăng trưởng 6,1%, 6,7% tăng
trưởng kép hàng năm 5 năm, $ 16.785 bình quân đầu người

- Thất nghiệp: 4,3%
- Lạm phát (CPI): 2,9%

- Dòng vốn FDI: 141,2 tỷ USD
Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới cho tăng 2,3% trong năm ngoái, Trung Quốc là
nước lớn duy nhất có mức tăng trưởng dương trong đợt dịch Covid vừa qua. Những
kết quả trên tiếp tục củng cố vị thế nền kinh tế số 1 của Trung Quốc ở khu vực châu
Á, đồng thời rút ngắn khoảng cách giữa Trung Quốc với Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế
giới.

c. Chính sách kinh tế
Trong kế hoạch 5 năm 2021-2025, Trung Quốc đặt mục tiêu khắc phục các
khâu yếu kém, nhất là công nghệ bán dẫn, công nghệ phần mềm, đồng thời nhấn


mạnh, các bộ phận quan trọng của chuỗi giá trị phải nằm tại Trung Quốc. Trong 5 năm
tới, nước này xác định sẽ đầu tư mạnh cho các lĩnh vực đất hiếm, vật liệu đặc biệt,
robot, phương tiện năng lượng mới, phát minh y học, các ứng dụng công nghiệp từ hệ
thống định vị vệ tinh toàn cầu Bắc Đẩu… phấn đấu đến năm 2025, có 56% người dân
sử dụng mạng 5G.
Chính sách tiền tệ: nhiệm vụ cơ bản nhất, cũng chính là mục tiêu chủ chốt của
việc thực hiện chính sách tiền tệ, là trợ giúp "6 bảo đảm" (đảm bảo việc làm, bảo đảm
sinh kế cơ bản của người dân, bảo đảm chủ thể thị trường, bảo đảm an ninh lương
thực và an ninh năng lượng, bảo đảm ổn định chuỗi cung ứng và chuỗi ngành nghề,
bảo đảm vận hành ở cơ sở), đồng thời thúc đẩy "6 ổn định" (ổn định việc làm, ổn định
tài chính, ổn định ngoại thương, ổn định đầu tư nước ngoài, ổn định đầu tư và ổn định
kỳ vọng).
Chính sách tài chính: Thực thi chính sách tài chính tích cực (bội chi 3,6%, tăng
1.000 tỷ NDT so với năm 2019, phát hành 1.000 tỷ NDT trái phiếu chính phủ chống
dịch bệnh COVID-19…) ưu tiên tăng cường chính sách giải quyết việc làm, thốt
nghèo là nhiệm vụ cốt lõi để hồn thành cơng cuộc xây dựng toàn diện xã hội khá giả,
năm 2020 tồn bộ số hộ nghèo cịn lại trong cả nước phải được thoát nghèo…
Để khắc phục hậu quả do Covid, Trung Quốc đã chủ động Trung Quốc đã triển

khai hàng loạt biện pháp để giảm thiểu những tác động tiêu cực của dịch bệnh
COVID-19, trong đó cả việc hỗ trợ thanh khoản tạm thời, giúp ổn định các thị trường.
Dưới đây là một số biện pháp:
+ Thứ nhất, giảm thuế và hạ thấp các loại thuế, phí cho doanh nghiệp. Trung
Quốc đã đưa ra hàng loạt gói cứu trợ như giảm lãi suất cho vay, gia hạn các khoản
vay, giảm và miễn trừ thuế.
+ Thứ hai, mở rộng và tăng các khoản chi tiêu của Chính phủ. Trung Quốc tiếp
tục phát huy vai trị của chính sách tài khóa, tăng cường vốn đầu tư.
+ Thứ ba, áp dụng chính sách nới lỏng tiền tệ. Tăng cường hỗ trợ tín dụng lãi
suất ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất, ưu đãi các dịch vụ tài chính cho các địa
phương chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch bệnh. Các ngân hàng thương mại tập trung hỗ
trợ tín dụng cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng dịch bệnh
+ Thứ tư, mở rộng mức hỗ trợ cho sản xuất công nghiệp. Trung Quốc tập trung
khôi phục sản xuất cho các doanh nghiệp trung ương, doanh nghiệp nhà nước. Hỗ trợ
doanh nghiệp thương mại khối phục vụ sản xuất, tăng cường huy động vốn thương
mại, phát huy tối đa vai trò của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Thúc đẩy các dự án


trọng điểm đầu tư nước ngồi. Cải thiện mơi trường đầu tư nước ngoài, bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của vốn đầu tư nước ngoài.
+ Thứ năm, thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng trong nước.
+ Thứ sáu, hỗ trợ tài chính giải cứu ngành hàng khơng.
2.1.2. Môi trường Thương mại.
Trung Quốc có 15 hiệp định thương mại ưu đãi có hiệu lực. Thuế suất bình
quân gia quyền thương mại là 4,4%, và 397 biện pháp phi thuế quan đang có hiệu lực.
Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc đã thông qua luật mới thay thế các bộ luật trước
đây quản lý đầu tư nước ngoài, nhưng hệ thống phê duyệt đầu tư nước ngoài theo chủ
nghĩa bảo hộ của Trung Quốc vẫn còn hạn chế và thiếu minh bạch. Các loại thuế được
áp dụng bao gồm thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng (VAT) và thuế tiêu thụ; các biện
pháp phi thuế bao gồm giấy phép nhập khẩu, kiểm soát hạn ngạch, danh sách hàng

nhập khẩu hạn chế, v.v…

a. Thuế quan.
Trung Quốc sử dụng thuế quan và thuế VAT đối với hàng nhập khẩu. Ngoài ra,
một số mặt hàng còn phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Trung Quốc có biểu thuế được
phân làm hai cột: thuế suất ưu đãi và thuế suất chung.
+ Thuế suất ưu đãi áp dụng cho các sản phẩm từ Hồng Kông, Đài Loan, và các
nước khác mà đã có hiệp định áp dụng thuế suất ưu đãi song phương hoặc các hiệp
ước thương mại với Trung Quốc.
+ Thuế suất chung được áp dụng cho các nước khác.
Thuế suất thuế nhập khẩu của Trung Quốc rất đa dạng phụ thuộc vào loại hàng
hóa, linh kiện và mục đích sử dụng của sản phẩm. Hầu hết thuế suất thuế nhập khẩu
được áp theo giá hàng, được tính tốn dựa trên tỷ lệ trị giá CIF của hàng hóa. Thuế
suất trung bình cho hàng hóa nhập khẩu khoảng 9,8%, với các sản phẩm nông sản
trung bình khoảng 15,3% và các mặt hàng cơng nghiệp trung bình khoảng 8,95%.
Trị giá tính thuế: Theo quy định thuế quan của Trung Quốc, trị giá hàng hóa
nhập khẩu để đánh thuế là giá CIF, bao gồm cả giá bán thơng thường của hàng hóa
cộng chi phí đóng gói, cước chuyên chở, phí bảo hiểm, và hoa hồng cho người bán.
Thuế theo giá được tính bằng cách nhân số đơn vị hàng nhập khẩu với lượng
thuế phải trả trên một đơn vị.
Thuế hỗn hợp kết hợp giữa thuế theo giá và thuế theo lượng.


Miễn thuế: Các mặt hàng được miễn thuế GTGT bao gồm: Các sản phẩm nông
nghiệp chưa chế biến do người nông dân, cơ sở nông nghiệp tự sản xuất bán ra; hàng
hóa nhập khẩu để chế biến cho xuất khẩu; thiết bị nhập khẩu để sử dụng trong dự án
có vốn đầu tư nước ngoài hoặc trong dự án được Nhà nước khuyến khích; dụng cụ và
thuốc tránh thai; sách cổ được mua bán công khai; thiết bị và dụng cụ được nhập khẩu
để sử dụng trực tiếp trong nghiên cứu khoa học, thí nghiệm và giáo dục; vật tư, thiết
bị nhập khẩu được chính phủ nước ngồi, tổ chức quốc tế tài trợ; sản phẩm nhập khẩu

chuyên dụng cho người tàn tật.
Thuế VAT

Người nộp thuế nói chung: Để tính thuế GTGT phải nộp, người nộp thuế phải
tính thuế GTGT đầu vào và thuế GTGT đầu ra. Chênh lệch giữa thuế GTGT đầu ra và
thuế GTGT đầu vào là khoản thuế GTGT phải nộp.
Hải quan Trung Quốc chia các doanh nghiệp thương mại thành 4 loại: A, B, C
và D dựa trên chỉ số tin cậy.
+ Doanh nghiệp loại A được hưởng nhiều ưu đãi trong việc làm thủ tục hải
quan, giám định và thông quan, giám định tại chỗ, dỡ hàng được bảo đảm; giám định
thơng qua hình thức chọn mẫu đối với những mặt hàng bắt buộc được ưu tiên thông
báo trực tiếp thông qua mạng thông tin điện tử và được ưu tiên đăng ký hải quan.
+ Doanh nghiệp loại B chịu sự quản lý thông thường.
+ Doanh nghiệp loại C phải chịu sự kiểm soát và giám sát đặc biệt, ví dụ, phải
đặt cọc với những hàng hóa có yêu cầu đảm bảo thuế quan, hoạt động kinh doanh bị


giám sát chặt chẽ, hầu hết các hoạt động xuất nhập khẩu đều bị kiểm tra, và bắt buộc
phải làm thủ tục thông báo hải quan ngay tại địa phương.
+ Doanh nghiệp loại D bị quản lý nghiêm ngặt tất cả các hoạt động xuất nhập
khẩu, có thể bị hỗn thơng báo hải quan, gửi hàng, lưu kho, thậm chí bị cấm và phạt
trong trường hợp phát hiện thấy doanh nghiệp này không đủ tư cách.
Các quy định hải quan của Trung Quốc cho phép ngừng áp dụng thuế đối với
hàng nhập khẩu bị lưu kho hải quan. Các hàng hố có thể được lưu kho trong vịng
một năm, và quy định trên có thể cho phép kéo dài thời gian lưu kho thêm một năm
nữa, đến cuối năm đó hàng hoá sẽ phải tái xuất khẩu hoặc sẽ được cấp giấy phép nhập
khẩu và phải chịu thuế nhập khẩu. Hàng hoá cần nhập khẩu được phép vào khu vực
kho hải quan mà khơng cần có giấy phép này, tuy nhiên, nếu hàng hoá được chuyển ra
khỏi khu vực kho hải quan, phải có giấy phép này và phải trình để kiểm tra. Các
nguyên liệu các bộ phận và các phụ kiện đi kèm, các thiết bị được doanh nghiệp nhập

khẩu với mục đích sản xuất nằm trong khu vực kho hải quan được miễn thuế nhập
khẩu và VAT.

b. Hạn ngạch
Cơ quan Quản lý xuất nhập khẩu, Trung Quốc, giống như nhiều thành viên của
WTO, áp dụng hệ thống hạn ngạch thuế quan và thương mại Nhà nước phù hợp với
quy định của WTO đối với các mặt hàng nhạy cảm, cụ thể đối với hàng nông sản bao
gồm lúa mì, ngơ, gạo, bơng và dầu đỗ tương, dầu cọ, dầu hạt cải, đường, len và bơng.
Trung Quốc có nhiều loại hạn ngạch thuế quan dựa trên hệ thống thuế quan hai cấp.
Thuế suất cho loại hạn ngạch nhập khẩu đặc biệt ở mức thấp và nếu nhập khẩu vượt
hạn ngạch cho phép sẽ bị áp thuế suất cao hơn. Dưới đây là một số mặt hàng nông sản
chịu hạn ngạch nhập khẩu: Len thô/ cuộn, len; Đường; Bột mỳ; Bơng; Gạo;
Diammonium phosphate; U-rê và Phân bón tổng hợp NPK.
Trung Quốc cũng cam kết đảm bảo tính minh bạch và thống nhất trong việc
phân bổ hạn ngạch và các đối tượng được phân bổ hạn ngạch không bị cản trở trong
việc sử dụng hạn Hồ sơ thị trường Trung Quốc ngạch. Nếu không được sử dụng hết
hạn ngạch thuế quan có thể được tái phân bổ cho đối tượng khác.

c. Rào cản phi thuế
Theo luật Trung Quốc về những tiêu chuẩn an toàn và chất lượng sản phẩm,
một số mặt hàng nhập khẩu yêu cầu phải được giám định và chứng nhận phù hợp với
những tiêu chuẩn bắt buộc của quốc gia, những tiêu chuẩn mậu dịch trong nước và
những tiêu chuẩn quy định trong hợp đồng. Một sản phẩm nếu được cấp giấy chứng
nhận chất lượng sẽ được dán nhãn an tồn sản phẩm. Mọi hàng hóa lưu thơng trên thị


trường Trung Quốc đều phải có mác kèm theo các thông tin liên quan bằng tiếng
Trung Quốc. Cơ quan Kiểm dịch Chất lượng và Y tế quốc gia yêu cầu hàng thực phẩm
nhập khẩu như: kẹo, rượu, quả hạch, thực phẩm đóng hộp và pho mát phải được dán
tem và chứng nhận an toàn sản phẩm trước khi cho xuất khẩu và nhập khẩu. Nhà nhập

khẩu phải chịu phí dán nhãn có hình, và nhãn dính có hình chỉ được đính vào sản
phẩm khi có sự đồng ý của Cơ quan SACI (Cơ quan Kiểm dịch hàng xuất nhập khẩu
Nhà nước).
Trung Quốc đã áp dụng hệ thống cấp giấy phép cho hàng xuất – nhập khẩu.
Giấy phép nhập khẩu do các ban thuộc Chính phủ cấp: Uỷ ban Kế hoạch phát triển
Nhà nước, MOFTEC và Vụ Xuất – nhập khẩu hàng điện tử và máy móc. Các cơng ty
có quyền xuất – nhập khẩu (bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) sẽ
phải được các cơ quan này đồng ý trước khi xin giấy phép của MOFTEC, Văn phòng
đại diện đặc biệt hoặc các chi nhánh ở địa phương của MOFTEC.
Chính sách chống phá giá
Khi phát hiện hành động bán phá giá của các nhà sản xuất nước ngồi, gây ra
những tổn thất cho cơng nghiệp trong nước, những biên pháp chống bán phá giá tạm
thời sau đây được áp dụng:
+ Áp đặt thuế chống phá giá thạm thời trong vòng 4 tháng từ ngày tuyên bố
quyết định liên quan đến những biện pháp chống phá giá và có thể kéo dài tới 9 tháng
trong những trường hợp đặc biệt.
+Yêu cầu có một quỹ đảm bảo bằng tiền mặt hoặc những hình thức đảm bảo
khác.
2.2.3. Môi trường Chính trị.

a. Các yếu tố cơ bản của môi trường chính trị
- Hệ tư tưởng và khuynh hướng chính trị.
Theo Hiến pháp Trung Quốc, nước CHND Trung Hoa là một nước XHCN của
nền chuyên chính nhân dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy liên minh công nông
làm nền tảng. Chế độ XHCN là chế độ cơ bản của Trung Quốc. Chuyên chính nhân
dân là thể chế của nhà nước. Cơ cấu nhà nước bao gồm Đại hội Đại biểu Nhân dân
toàn Quốc (Quốc hội), Chủ tịch nước, Quốc Vụ viện, Uỷ ban Chính trị Hiệp thương
tồn quốc (gọi tắt là Chính Hiệp, tương đương Mặt trận tổ quốc của ta), Uỷ ban Quân
sự Trung ương, Đại hội đại biểu Nhân dân và Chính phủ các cấp ở địa phương, Toà án
Nhân dân và Viện kiểm sát Nhân dân.



Đảng cầm quyền: Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập ngày 1.7.1921, hiện có
hơn 86 triệu Đảng viên. Bộ Chính trị có 25 người, trong đó có 9 Uỷ viên thường vụ
Bộ Chính trị, Ban bí thư TW Đảng có 8 người. Ngồi Đảng Cộng sản Trung Quốc cịn
có 8 đảng phái khác nhau đều thừa nhận sự lãnh đạo của ĐCS trong khuôn khổ mà
Trung Quốc gọi là - hợp tác đa đảng dưới sự lãnh đạo của ĐCS‖: Hội Cách mạng dân
chủ, Liên minh dân chủ, Hội kiến quốc dân chủ, Hội xúc tiến dân chủ, Đảng dân chủ
nơng cơng, Đảng chí cơng, Cửu tam học xã và đồng minh tự trị dân chủ Đài loan.
"Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc", là tư tưởng mà Tập Cận Bình theo
đuổi. Tư tưởng được nói tới một sự tiếp tục của Chủ nghĩa Marx Lenin, Tư tưởng Mao
Trạch Đơng, Học thuyết Đặng Tiểu Bình, Ba đại diện, và Quan điểm phát triển khoa
học... Chiến thuật Tập Cận Bình đã theo đuổi: tập trung quyền lực dưới sự lãnh đạo
của ông, tăng cường sự quản lý xã hội bằng nhà nước, tạo ra một bức tường thật sự
bằng những quy tắc và sự hạn chế mà đã thắt chặt hơn về quản lý những dịng tư
tưởng, văn hóa và tư bản vào trong và ra ngoài đất nước và triết lý quan trọng của
quyền lực Trung Quốc. Nó thể hiện một sự khẳng định lại vai trò của Nhà nước trong
đời sống chính trị và kinh tế tại Trung Quốc, và một tham vọng tạo ra vai trò lớn hơn
của quyền lực Trung Hoa tại khắp mọi nơi."

-

Chủ nghĩa dân tộc.

Chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc là chủ nghĩa dân tộc cực đoan - dùng thủ
đoạn bất kể lý lẽ núp bóng dưới danh nghĩa yêu nước. Nguyên nhân trước chiến tranh
nha phiến là cuộc chiến giữa các vương triều, các triều đại thay nhau cai trị, đất nước
ln bị phá hoại nhưng giang sơn vẫn cịn đó, người Trung Quốc thiên về ý thức gia
tộc/gia đình chứ khơng mấy lưu tâm vấn đề tổ quốc, khơng có chủ nghĩa dân tộc. Chủ
nghĩa dân tộc tại Trung Quốc chỉ thực sự nổi lên sau xâm lược của phương Tây, khi đó

những dân tộc này hồn tồn áp đảo dân tộc Hán, từ văn hóa vật chất đến văn hóa tinh
thần và mặt chính trị, người Trung Quốc khơng chỉ đứng trước nguy cơ bị đồng hóa
mà thậm chí có thể mất nước và diệt chủng. Đặc biệt là nước Nhật hùng cường sau khi
được Tây phương hóa đã hai lần gây chiến với Trung Quốc và đều áp đảo toàn diện, từ
đây nguy cơ thảm họa dân tộc và nhu cầu cứu nước tại Trung Quốc nổi lên, kéo theo
chủ nghĩa dân tộc hưng khởi. Khi trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới giới chức
Trung Quốc mong muốn về đối ngoại muốn mở mang kinh tế và lợi ích chiến lược, về
đối nội muốn thay đổi các vấn đề dân sinh và xã hội, vì vậy mà “mặc kệ và lợi dụng”
chủ nghĩa dân tộc trở thành lựa chọn tốt nhất. Sở dĩ nói “mặc kệ và lợi dụng” chủ
nghĩa dân tộc, vì nhiều năm qua những phong trào khiếu kiện giải tỏa đất đai, địi
cơng bằng giáo dục, người lính tuổi già địi quyền lợi, nhà đầu tư bị lừa đảo… đều bị
cấm cản, giải tán. Vì danh nghĩa ổn định xã hội mà Chính phủ Trung Quốc kiểm


duyệt, bắt bớ, đàn áp có tổ chức, khơng bao giờ để cho hoạt động biểu tình thị uy bùng
nổ mang tính tồn quốc. Duy nhất chủ nghĩa dân tộc thể hiện chống Mỹ, chống Nhật,
tẩy chay Hàn Quốc, tẩy chay tất cả các nước làm Trung Quốc không vui tràn lan trên
mạng internet thì được thoải mái.

- Sự can thiệp của chính phủ.
Điểm tự do kinh tế của Trung Quốc là 58,4, khiến nền kinh tế của nước này trở
thành nền kinh tế tự do thứ 107 trong Chỉ số năm 2021. Tổng điểm của nó đã giảm 1,1
điểm, chủ yếu là do sức khỏe tài khóa suy giảm. Trung Quốc được xếp hạng thứ 20
trong số 40 quốc gia ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và điểm tổng thể của nước
này thấp hơn mức trung bình của khu vực và thế giới... Chi tiêu của chính phủ đã lên
tới 32,9% tổng sản lượng (GDP) trong ba năm qua, và thâm hụt ngân sách trung bình
là 5,0% GDP. Nợ công tương đương 54,4% GDP.
Trung Quốc vẫn là một nền kinh tế hầu như không tự do. Những cải thiện
khiêm tốn về điểm số tự do kinh tế của nước này trong những năm gần đây chủ yếu là
do tăng các chỉ số về quyền tài sản, hiệu quả tư pháp và tự do kinh doanh. Nhìn

chung, tự do kinh tế tồn tại ở Trung Quốc tiếp tục thiếu chiều sâu và chiều rộng, và
chính phủ cần đảm bảo rằng các thay đổi chính sách thân thiện với doanh nghiệp được
hiểu và thực hiện trên toàn quốc, không chỉ ở Bắc Kinh hoặc các trung tâm thương
mại lớn.
Tất cả đất đai ở Trung Quốc đều thuộc sở hữu của nhà nước hoặc của các tập
thể nông thôn. Tham nhũng vẫn còn phổ biến ở tất cả các cấp chính quyền, và thơng
tin cho thấy rằng chiến dịch trấn áp tham nhũng của chính phủ được áp dụng không
nhất quán và tùy tiện.


Chỉ số tự do kinh tế của Trung Quốc năm 2021

-

Sự ổn định chính trị

Đối nội:
Nỗi bất bình với dự định sửa đổi luật nhằm cho phép dẫn độ nghi phạm hình sự
sang Trung Hoa đại lục đã khiến một triệu người xuống đường biểu tình. Các cuộc
biểu tình chống Bắc Kinh xâm phạm vào các quyền tự do của người dân Hồng Kơng
kéo dài nhiều tháng. Chính quyền mở chiến dịch tung thông tin sai lệch bôi nhọ những
người biểu tình ở Hồng Kơng là bạo lực và cực đoan, khiến Twitter và Facebook phải
chặn hàng trăm tài khoản xuất phát từ Trung Quốc vì nghi là cơng cụ của chiến dịch
này.
Trung Quốc tiếp tục đàn áp khốc liệt người Duy Ngơ Nhĩ và các nhóm Hồi
giáo gốc Turk ở vùng Tân Cương phía Tây Bắc. Ước tính có khoảng 1 triệu người Hồi
giáo đang bị giam giữ vô thời hạn ở các trại “cải tạo chính trị,” ở đó họ bị ép buộc
phải từ bỏ bản sắc gốc và tuyên thệ trung thành với Đảng Cộng sản, cưỡng ép ly tán
nhiều trẻ em có cha mẹ đang bị giam giữ hay đi tị nạn, không cho ở với họ hàng và
giữ các em trong các trung tâm “giáo dưỡng trẻ em” hay các trường nội trú do nhà

nước quản lý. Ở Tây Tạng, nhà cầm quyền tiếp tục hạn chế gắt gao các quyền tự do
ngôn luận, tự do nhóm họp và tự do tơn giáo.
Chính quyền Trung Quốc tiếp tục đàn áp các nhà hoạt động, nhà báo và luật sư
nhân quyền nhà hoạt động Kỷ Tư Tơn chết vì bệnh lạ khơng xác định được, tiếp nối
chuỗi hiện tượng các nhà bảo vệ nhân quyền bị chết trong khi giam giữ hoặc không
lâu sau khi được thả trong nhiều năm gần đây, hai nhà hoạt động Lưu Phi Dược và
Hoàng Kỳ lần lượt là 5 và 12 năm tù.
Bắc Kinh tiếp tục bưng bít tiếng nói phê phán ở hải ngoại bằng cách kiểm soát
sinh viên Trung Quốc ở các trường đại học nước ngoài, sách nhiễu người nhà đang
còn ở Trung Quốc của những người lên tiếng phê phán, kiểm duyệt các nền tảng mạng
xã hội thông dụng trong cộng đồng Hoa Kiều, và sử dụng đòn trừng phạt kinh tế.
Đối Ngoại
Mỹ: Kể từ khi Tổng thống D. Trump lên cầm quyền (năm 2017), nước Mỹ đã
phát động chiến dịch cạnh tranh chiến lược toàn diện với Trung Quốc trên nhiều chiến
tuyến, coi Trung Quốc là “đối thủ cạnh tranh chiến lược” số 1 và thực thi những chính
sách cứng rắn đối với nước này. Trong 4 năm qua, Mỹ lần lượt phát động chiến tranh
thương mại, chiến tranh công nghệ, chiến tranh dư luận đối với Trung Quốc. Chuỗi
hành động của chính quyền Tổng thống D. Trump nhằm gây sức ép, ngăn chặn Trung


Quốc, đưa mối quan hệ giữa hai nước chuyển sang giai đoạn mới - cạnh tranh chiến
lược toàn diện, đối đầu khốc liệt hơn.
Ấn Độ: Các cuộc biểu tình chống Trung Quốc và địi tẩy chay hàng hóa Trung
Quốc đã diễn ra tại các bang Uttar Pradesh, Bihar, Gujarat và Jammu của Ấn Độ bằng
việc biểu tình có đốt cờ Trung Quốc, đốt ảnh lãnh đạo Trung Quốc, ý định tiến hành
khơng kích trả đũa Trung Quốc. Do phía Trung Quốc khơng giữ cam kết tơn trọng
Ranh giới kiểm sốt thực tế (LAC) tại thung lũng Galwan.
Myanmar: Xu hướng tẩy chay hàng hóa Trung Quốc sơi sục trong những tuần
gần đây. Hàng chục nhà máy của Trung Quốc ở Hlaing Thayar bị những người biểu
tình chống chính biến đốt phá. Các đám đơng giận dữ mang theo thanh sắt, rìu và

xăng đã phóng hỏa 32 nhà máy của chủ đầu tư Trung Quốc.

 Tình hình chính trị của Trung Quốc cả trong nước lẫn ngoài nước đều mất ổn
định.
b. Đo lường và phản ứng rủi ro chính trị.
Trung Quốc vẫn đang tồn tại nhiều rủi ro bất ổn về chính trị, có thể đo lường như sau:
Mức đồng nhất về dân số và những triển vọng tăng trưởng kinh tế: Trung Quốc
là quốc gia đông dân nhất thế giới. Mức tăng trưởng dân số nhanh, số dân đông tạo
điều kiện cho nền kinh tế phát triển trên nhiều mặt. Tuy nhiên chính phủ Trung Quốc
điều chỉnh hầu hết các hoạt động kinh tế, điều này phần nào biến đất nước này bị bó
hẹp trong một khn khổ. Và việc xảy ra bạo động, hay bất ổn là điều khó tránh khỏi,
gây ảnh hưởng nhiều đến khả năng phát triển của các doanh nghiệp.
Khả năng dẫn tới sự bạo động: Các cuộc bạo động thường xuyên xảy ra do sự
không thống nhất tại các vùng biên giới, Tân Cương hay các vùng đất Trung Quốc vốn
coi vẫn thuộc chủ quyền của mình như Hồng Kơng hay Đài Loan. Ngay trong nội bộ
Trung Quốc cũng xảy ra bạo động. Đặc biệt quan hệ giữa Trung Quốc và một số quốc
gia láng giềng hay các vùng đất đang được Trung Quốc hướng đến, đang có nhiều
chuyển biến khơng mấy khả quan và cịn gặp nhiều sự phản đối gay gắt từ cộng đồng
quốc tế.
Các cơ hội hịa bình của sự chuyển tiếp chính trị: Cơ hội hịa bình sẽ được tăng
cường khi mà Trung Quốc ngừng các hoạt động khiêu khích về chủ quyền, lãnh thổ
hay lợi ích với nhiều quốc gia. Đối với những vấn đề trong nội bộ quốc gia cũng đòi
hỏi các nhà lãnh đạo Trung Quốc cần phải mềm dẻo và linh hoạt hơn.
Các rủi ro chính trị đem lại những cơ hội và cả những đe dọa cho các doanh
nghiệp muốn gia nhập vào thị trường Trung Quốc. Các cơ hội ở đây chính là nhờ
những chính sách bảo hộ của Trung Quốc trong việc khuyến khích kinh doanh, xuất


nhập khẩu nhiều loại mặt hàng. Bên cạnh đó cũng có nhiều đe dọa về chính trị đến từ
thị trường vốn rất tiềm năng này như sự bất ổn chính trị. Các cuộc bạo động của dân

chúng có thể ảnh hưởng tới sức tiêu thụ hàng hóa, ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của các công ty.
2.2.4. Môi trường Luật pháp.
Trong suốt chiều dài lịch sử của Trung Quốc, luật pháp Trung Quốc bắt nguồn
từ triết lý Khổng giáo về trật tự xã hội. Những ảnh hưởng này thậm chí đến nay vẫn
còn đậm nét trong hệ thống luật pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và hệ thống
luật pháp dựa trên cơ sở pháp luật Đức.
Tại Trung Quốc, các quy định về điều kiện kinh doanh được nhà nước này
quan tâm rất sát sao, đưa ra nhiều quy định phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội tại
các đạo Luật có hiệu lực cao như: Luật Cơng ty năm 2005, Luật Cấp phép kinh doanh
năm 2004 và các đạo luật chuyên ngành khác. Doanh nghiệp Trung Quốc phải đáp
ứng những điều kiện kinh doanh cả trước khi đăng ký thành lập doanh nghiệp và cả
sau khi doanh nghiệp đi vào hoạt động.
Tiêu chuẩn sản phẩm xuất khẩu đến Trung Quốc
Trung Quốc có quy định, yêu cầu cao về kiểm nghiệm kiểm dịch, truy xuất
nguồn gốc, tem nhãn hàng hóa, chứng nhận chất lượng, tồn dư thuốc bảo vệ thực vật,
sâu bệnh... đối với hàng nhập khẩu từ nước ngồi. Vì vậy, việc đáp ứng các u cầu,
quy định nêu trên là điều kiện tiên quyết nếu hàng nông thủy sản Việt Nam muốn xuất
khẩu thành công sang thị trường này.
Ngồi một số quy định theo thơng lệ quốc tế, Trung Quốc cũng đưa ra một số
yêu cầu riêng biệt hoặc siết chặt việc thực thi các quy định đã ban hành trước đây (như
động thái gần đây của thị trường Trung Quốc) đối với nông thủy sản nhập khẩu. Cụ
thể, chỉ định cửa khẩu nhập khẩu, bao gồm cửa khẩu đường bộ, hàng không và đường
thủy đối với các mặt hàng cụ thể như trái cây, thủy sản, lương thực... Tổ chức thực
hiện nghiêm các biện pháp quản lý chất lượng, truy xuất nguồn gốc đối với nơng thủy
sản nhập khẩu từ nước ngồi, trong đó có Việt Nam.
Luật quảng cáo
Trung Quốc đã từng ban hành luật về quảng cáo là Luật năm 1982 và Luật năm
1987, không kể luật sửa đổi bổ sung năm 1995.
Ngày 27/10/1994, Chính phủ Trung Quốc ban hành một loạt quy định về quảng

cáo có hiệu lực từ ngày 1/2/1995. Luật này bao gồm 6 chương 49 điều. Phần các quy
định chung của luật nhấn mạnh đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng,


nguyên tắc của hoạt động quảng cáo là tính trung thực, bình đẳng và chân thật của
quảng cáo, tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng, nội
dung quảng cáo phải đúng, hợp pháp và phù hợp với thuần phong mỹ tục
Luật cũng quy định về hoạt động quảng cáo và các bên thực hiện quảng cáo.
Trong đó, quy định về hoạt động giữa các bên thực hiện quảng cáo, sự chấp thuận và
xác nhận của nhà quảng cáo, quy định về phí và quy định về quảng cáo ngoài trời.
Luật nhãn hiệu.
Để thực hiện yêu cầu cải cách “trao quyền, tinh giản hóa thủ tục hành chính và
tối ưu hóa các dịch vụ cơng” của Chính phủ Trung Quốc, nâng cao hiệu quả cơng tác
thơng quan hàng hóa tại cửa khẩu, Trung Quốc quy định quản lý, giám sát việc ghi
nhãn bao bì thực phẩm đóng gói sẵn xuất nhập khẩu.
Từ ngày 1/10/2019, không yêu cầu đăng ký hồ sơ lưu đối với nhãn mác bao bì
của thực phẩm đóng gói sẵn lần đầu nhập khẩu vào Trung Quốc. Việc kiểm tra nhãn
thực phẩm đóng gói sẵn nhập khẩu là một trong những nội dung kiểm tra, kiểm
nghiệm đối với thực phẩm, cơ quan Hải quan Trung Quốc sẽ căn cứ theo các quy định
pháp luật liên quan về kiểm nghiệm hàng hóa xuất nhập khẩu và vệ sinh an toàn thực
phẩm để tiến hành kiểm nghiệm theo quy định của pháp luật.
Nhà nhập khẩu chịu trách nhiệm đảm bảo nhãn mác bằng tiếng Trung Quốc
trên bao bì đóng sẵn của thực phẩm nhập khẩu vào Trung Quốc phải phù hợp với quy
định pháp luật liên quan của Trung Quốc, phù hợp với quy định hành chính và yêu cầu
về tiêu chuẩn an tồn thực phẩm quốc gia. Nếu thẩm tra khơng đáp ứng tiêu chuẩn,
không được nhập khẩu.
Dán nhãn hàng thực phẩm: Quy định về tiêu chuẩn dán nhãn hàng thực phẩm
của Trung Quốc đã có hiệu lực từ 1/10/1995. Quy định này yêu cầu tất cả hàng thực
phẩm đóng gói (ngoại trừ hàng rời) phải được đính nhãn bằng tiếng Trung Quốc ghi rõ
loại sản phẩm, tên nhãn hiệu, tên thương mại, tên và địa chỉ của nhà sản xuất, nước

xuất xứ, thành phần cấu thành, ngày sản xuất và hạn sử dụng. Quy định này áp dụng
cho hàng nhập khẩu cũng như hàng nội địa đóng gói.
Dấu chứng nhận bắt buộc: Trong hệ thống chứng nhận an tồn của Chính phủ Trung
Quốc áp dụng cho 135 loại sản phẩm. Với hệ thống này, các nhà sản xuất muốn xuất
khẩu hoặc bán hàng ở Trung Quốc phải có được dấu CCC.
Dấu CCC: CCC là viết tắt của từ "China Compulsory
Certification" (Chứng nhận bắt buộc của Trung Quốc).
Đây là dấu an toàn và chất lượng mới nhất của Trung
Quốc.


Dấu CCC
Quy định về quản lý sản phẩm đóng gói sẵn: Thực phẩm đóng gói sẵn khi nhập khẩu
sẽ được lấy mẫu kiểm tra xác suất tại hiện trường hoặc kiểm nghiệm trong phịng thí
nghiệm. Nhà nhập khẩu cần cung cấp tài liệu chứng minh hàng hóa đáp ứng điều kiện
nhập khẩu, tài liệu gốc và bản dịch nhãn mác, mẫu nhãn mác tiếng Trung và các tài
liệu chứng minh khác cho nhân viên hải quan để kiểm tra.
2.2.5. Môi trường Văn hóa

a. Giao tiếp và ngơn ngữ
Trung Quốc có tới hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ chủ yếu là tiếng
Hán tiêu chuẩn, dựa trên tiếng Quan Thoại là trung tâm, nhưng tiếng Trung Quốc có
hàng trăm ngơn ngữ liên quan, được gọi chung là Hán ngữ (giản thể; phồn thể; bính
âm) với số người nói chiếm tới 92% dân số. Tiếng Hán có thể được chia thành nhiều
ngơn ngữ riêng biệt. Trong khi chính sách của nhà nước Trung Quốc cho phép quyền
tự trị về văn hóa và khu vực, mỗi khu vực và nhóm phương ngữ được phép sử dụng
ngôn ngữ riêng của họ, họ cũng phải hiểu và nói ngơn ngữ quốc gia, đó là tiếng Quan
Thoại hoặc phổ thơng thoại, có nghĩa là ngơn ngữ được sử dụng phổ biến.
Hệ chữ chính dùng để viết tiếng Trung là chữ Hán, có hai cách viết là viết dọc
truyền thống và viết ngang hiện đại:


- Cách truyền thống: được viết theo hàng dọc, đọc từ trên xuống dưới theo cột,
-

từ cột phải sang cột trái.
Cách hiện đại: được viết theo hàng ngang, đọc từ trái sang phải theo hàng, từ
hàng trên xuống hàng dưới.

Chữ Hán là một dạng chữ viết tượng hình của tiếng Trung Quốc. Trong chữ Hán có
nhiều chữ được tạo ra bằng cách vẽ mơ phỏng hình dạng của sự vật mà từ được ghi
bằng chữ Hán đó biểu thị. Chữ Hán có đến hàng ngàn chữ nhưng được phân loại
thành 214 bộ chữ, mỗi bộ chữ được đại diện bằng một thành phần cấu tạo chung gọi là
bộ thủ, dựa theo số nét. Chữ Hán cũng được đánh giá là một loại chữ viết khó trên thế
giới. Một số chun gia cịn nhận định chữ Hán khó học, khó viết, gây trở ngại cho
việc phổ cập giáo dục và truyền bá tri thức… Điều tồi tệ nhất là chữ Hán khơng hịa
nhập với văn hóa thế giới hiện đại. Bởi vậy mà Trung Quốc đã có những cuộc cải cách
chữ Hán và đưa ra bộ chữ Hán giản thể. Bộ chữ này nhanh chóng được đón nhận.
Việt Nam và Trung Quốc có nét tương đồng trong văn hóa phương Đơng, trong
ngữ âm. Ngữ âm tiếng Hán và ngữ âm Tiếng Việt có nhiều nét tương đồng như: âm
tiết tính rất rõ; nhạc tính phong phú; ngun âm chiếm ưu thế; khơng có phụ âm kép,
âm tiết và hình vị hầu hết là trùng nhau; hay giống nhau về thành phần cấu trúc âm


tiết, về khả năng kết hợp giữa các thành phần âm tiết, về thanh điệu, về nguyên âm, về
phụ âm đầu và cuối. Nên khơng khó khăn khi dịch tên thương hiệu từ tiếng việt sang
tiếng Trung Quốc. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam trong
việc quảng bá hình ảnh của mình, khơng làm mất đi ý nghĩa, giá trị thương hiệu.

b. Quá trình tư duy và nhận thức
Về giáo dục, phương châm chiến lược phát triển Giáo dục Trung Quốc đó là:

Giáo dục hướng về hiện đại, Giáo dục hướng tới tương lai và Giáo dục hướng ra thế
giới. Đây là tư tưởng xác lập vị trí chiến lược của giáo dục trong nỗ lực xây dựng đất
nước phát triển, nhất là nhằm tăng cường hội nhập quốc tế. Sau khi gia nhập WTO,
Trung Quốc chủ trương bồi dưỡng, giáo dục nhân tài theo ba hướng này.
Về phương pháp tư duy, cho rằng người Trung Quốc mạnh về tư duy trực giác,
yếu về tư duy logic. Người Trung Quốc không tập trung vào logic của vấn đề tranh
luận mà bắt đầu từ lập trường cố hữu (định kiến) của mình và kết thúc bằng việc cơng
kích cá nhân người kia. Các kinh điển của văn hóa truyền thống Trung Quốc thường
đưa ra những lập luận coi như chân lý mà khơng hề giải thích, người ta chỉ biết học
thuộc lịng, khơng được nghi ngờ. Mọi khái niệm trong sách của các thánh hiền đều
mơ hồ, khơng có định nghĩa rõ ràng, chính xác, có thể hiểu theo nhiều cách, dễ gây
hiểu lầm. Người Trung Quốc thiếu khả năng tự kiểm điểm lại mình, khơng thích bị
phê bình, đa số mọi người thường cảm thấy khó chấp nhận khi nghe những lời khơng
tốt về mình.

c. Giá trị và quy tắc
Người Trung Quốc coi trọng việc giành được, duy trì danh tiếng và địa vị, đặc
biệt là là cho gia đình và cộng đồng. Do đó, họ muốn sử dụng thương hiệu và sản
phẩm thể hiện cho người khác biết được sự giàu có, thành cơng và đẳng cấp của mình.
Mặc dù phụ nữ Trung Quốc đã duy trì vai trị này trong nhiều thập kỷ, nhưng phụ nữ
Trung Quốc ngày càng trở nên độc lập hơn, đại diện cho một cơ hội cho các thương
hiệu trên khắp Trung Quốc. Phụ nữ Trung Quốc đã bắt đầu đặt giá trị vào sự tự chủ,
cái tôi và sự tự tin – các thương hiệu nên tập trung tiếp thị vào các nhãn này để thu hút
thành công họ. Một ví dụ điển hình về sức mạnh chi tiêu của phụ nữ có thể được nhìn
thấy với Porsche: một thương hiệu quảng cáo và liên kết với những người đàn ơng
giàu có, nhưng năm 2015 đã chứng kiến gần 40% doanh số bán hàng tại Trung Quốc
của họ đến từ phụ nữ.
Thể hiện sự giàu có và cải thiện bản thân là những thuộc tính hành vi quan
trọng của tầng lớp trung lưu ở Trung Quốc. Họ không muốn bị phớt lờ, họ cũng không



muốn cảm thấy được bảo trợ bởi các chiến dịch tiếp thị. (Một ví dụ điển hình về điều
này có thể được nhìn thấy ở đây).
Một nghiên cứu được thực hiện bởi Warveni Jap cho thấy người dân Trung
Quốc đã mua và sử dụng các thương hiệu toàn cầu để giữ thể diện và duy trì các mối
quan hệ lành mạnh trong giới xã hội của họ. Nghiên cứu cho thấy văn hóa đối mặt ảnh
hưởng mạnh mẽ đến giá trị tiêu dùng và hành vi của họ đối với các thương hiệu toàn
cầu. Toàn cầu, các thương hiệu nhập khẩu, trong tâm trí của họ, thu hút sự chú ý tích
cực trực tiếp và ngay lập tức hơn – do đó cho phép họ có được nhiều mặt hơn.
Người tiêu dùng Trung Quốc rất chú ý đến bao bì của sản phẩm. Thông thường,
khách hàng Trung Quốc không thể mua một món quà chất lượng cao hơn sẽ mua sản
phẩm với bao bì đẹp nhất. Người tiêu dùng Trung Quốc rất có thể sẽ ln ưu tiên một
mặt hàng có bao bì tốt hơn, ngay cả khi sản phẩm có chất lượng thấp hơn, cho thấy
tầm quan trọng của việc xem xét khuôn mặt khi bán tại Trung Quốc.

d. Phần thưởng và sự công nhận
Phương thức quản lý của người Trung Quốc luôn kết hợp việc khen thưởng với
kế hoạch, thực hiện với kiểm tra, đánh giá. Cùng một lúc tiến hành cả việc khen
thưởng với việc giao tiếp, trao đổi và lãnh đạo, cách làm đó tiết kiệm về mặt thời gian
và cơng sức, đồng thời vừa có thể xem xét và coi trọng mọi thứ như nhau; không
những phù hợp với các điểm mấu chốt trong quản lý mà hơn thế cịn đề cao tính
ngun tắc trong khi khen thưởng.
Vì thế, việc khen thưởng theo phương thức quản lý của Trung Quốc khơng
những có ngun tắc cụ thể mà cịn rất coi trọng tính ngun tắc trong việc khen
thưởng. Cách thức ban thưởng đưa ra chủ trương không được đánh đồng công và tội,
bản thân chủ trương đó khơng chỉ cần đánh giá cơng-tội một cách cơng bằng mà còn
phải chú trọng đến các nguyên tắc khác như: Làm sao cho trên dưới cùng chung một
khát vọng, mọi người cùng một chí hướng và quý ở nhân hịa.
Q tặng: Tặng q là thơng lệ bình thường, có thể tặng hoa quả, bánh ngọt
hay đồ uống có rượu, nhưng khơng được phép tặng đồng hồ vì “tặng đồng hồ” trong

tiếng Trung Quốc cũng có nghĩa là “đi dự một đám tang”. Nếu được người Trung
Quốc tặng quà thì khơng được mở gói q trước mặt người tặng.

e. Niềm tin và thái độ
Tơn giáo: Chính phủ Trung Quốc chỉ chính thức cơng nhận năm tơn giáo: Phật
giáo, Đạo giáo, Hồi giáo, Tin lành và Công giáo.


Trong đó, Phật giáo là tơn giáo phổ biến nhất tại Trung Quốc. Phật giáo bắt đầu
xuất hiện tại Trung Quốc vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, tới thế kỷ thứ
tư được quảng bá rộng rãi, dần dần trở nên tơn giáo có ảnh hưởng lớn nhất tại Trung
Quốc. Hiện nay, trên tồn Trung Quốc có khoảng 13000 ngôi chùa miếu Phật giáo và
khoảng 200000 tăng ni. Con số thực của số lượng Phật tử trên danh nghĩa có thể đạt
trên 660 triệu đến 1 tỷ người (50% - 80%). Nhờ vậy mà Trung Quốc đương nhiên trở
thành quốc gia Phật Giáo đông dân nhất, theo sau là Nhật Bản và Việt Nam, chiếm
khoảng 2/3 trong tổng số 1,5 tỷ người theo Phật Giáo trên khắp Thế Giới.
Tư tưởng Phật giáo hướng đến đạo đức, từ bi, khoan dung, triết lý, lấy vị tha làm lẽ
sống cao cả, lý tưởng của mình, hướng thiện, chống cái ác, cảm hóa con người. Phật
giáo khẳng định mỗi cá nhân là chủ nhân của chính mình, khơng phải làm nơ lệ của
người khác kể cả nô lệ cho đức Phật, hãy “tự đốt đuốc mà đi”. Tư tưởng này của Phật
giáo khiến con người được giải phóng khỏi sự trói buộc của thần quyền, nhờ đó mà
được tự do. Chính con người phải tự quyết định số phận và tiền đồ của chính mình.
Quan điểm tự lực, tự chủ của Phật giáo đã góp phần xác định thêm cho tinh thần tự
lực, tự chủ của mỗi người Trung Quốc.
Văn hóa Trung Quốc là một nền văn hóa có tính kế thừa từ lâu đời gắn liền với
nền nông nghiệp và chế độ phong kiến. Ngày nay, tuy đã có nhiều sự thay đổi nhưng
vẫn còn nhiều giá trị tồn tại cho đến ngày nay. Các giá trị và quy tắc được thể hiện rất
rõ trong từng tôn giáo mà người dân Trung Quốc theo đuổi. Về văn hóa và tơn giáo
Trung Hoa thì đại đa số người dân vẫn cịn giữ phong tục thờ cúng tổ tiên do ảnh
hưởng của Khổng Giáo, cũng như kết hợp với Phật Giáo và Đạo Giáo trở thành "Tam

giáo đồng nguyên" (hoặc "Tôn giáo cổ truyền Trung Hoa" mà Phật Giáo Đại Thừa giữ
vai trị chính).
Ngày lễ: Mỗi năm theo lịch Trung Quốc có 9 lễ hội chính, 7 trong số đó xác định
theo âm dương lịch, 2 lễ hội cịn lại có nguồn gốc từ lịch nông nghiệp (nông lịch) dựa
theo Mặt Trời. Hai lễ hội đặc biệt đó là Tết Thanh Minh và lễ hội Đơng chí. Các ngày
lễ hội của Trung quốc như sau: Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên Tiêu, Tết Đoan Ngọ,
Thất tịch, Tết Trung Nguyên, Tết Trung Thu, Tết Trùng Cửu. Trong những ngày lễ này
người dân Trung Quốc sẽ được hưởng những đợt sale lớn trên các trang TMĐT cùng
với các nhãn hàng do đó số lượng tiêu thụ thường tăng với con số khủng khiếp trong
các ngày này.

f. Các mối quan hệ
Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng văn hóa Trung Quốc khác biệt ở chủ
nghĩa tập thể với việc hướng tới ưu tiên tập thể hơn cá nhân. Trong các tập thể khác


×