Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

đề tài thực trạng khủng hoảng nợ công tại châu âu giai đoạn 2009 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.71 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính tất yếu của đề tài
Nợ cơng và khủng hoảng nợ cơng là chủ đề nóng hiện nay bởi khả năng
ảnh hưởng của nó tới sức khỏe của các nền kinh tế và khả năng phục hồi của
nền kinh tế tồn cầu. Khủng hoảng nợ cơng đã tác động rất lớn đến đời sống
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, khiến cho nền kinh tế thế giới rơi vào tình
trạng suy thối và chậm phục hồi bởi những tác động tiêu cực của nó. Đặc
biệt từ khi cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu diễn ra, thế giới đã chứng kiến
sự sụp đổ của các nền kinh tế lớn; đồng thời là tác động của nó đến các nền
kinh tế khác trên phạm vi toàn cầu. Nợ công của thế giới năm 2019 lên tới
69.000 tỉ USD(1).(Tạp chí The Economist Anh 2020)
Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 – 2009, nợ cơng ở các nền
kinh tế phát triển đã tăng lên đáng kể. Nổi bật nhất trong khoảng thời gian vừa
qua là cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu. Hy Lạp là nước đầu tiên đứng
trước nguy cơ vỡ nợ và cần phải viện đến sự giúp của ECB và IMF. Tây Ban
Nha, Italia cũng đứng trước nguy cơ bị vỡ nợ, và nợ cơng đang có nguy cơ lan
dần đến trung tâm của châu Âu kể cả các nước mạnh nhất trong khu vực đồng
Erozone là Đức và Pháp. Cuộc khủng hoảng này khơng chỉ có ảnh hưởng to
lớn đến khu vực Châu Âu mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới và đe
dọa đến tiến trình phục hồi kinh tế tồn cầu.
Để đánh giá thực trạng nợ cơng của châu Âu và đưa ra các giải pháp
đối với khủng hoảng nợ cơng ở châu Âu, nhóm đã chọn đề tài “Thực trạng
khủng hoảng nợ công tại châu Âu giai đoạn 2009-2011”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng khủng hoảng nợ công tại châu Âu giai
đoạn 2009 – 2011, đề xuất một vài kiến nghị nhằm giải quyết vấn đề khủng
hoảng nợ công tại châu Âu giai đoạn 2009 – 2011.
Mục đích của việc nghiên cứu gồm:
- Nghiên cứu những vấn đề chung của khủng hoảng nợ cơng
(1) Tạp chí The Economist (Anh)
1




- Nghiên cứu thực trạng nợ công châu Âu giai đoạn 2009 – 2011
- Đề xuất một vài kiến nghị giải quyết khủng hoảng nợ công
châu Âu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: thực trạng khủng hoảng nợ công ở châu
3.2.

Âu
Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian: Giai đoạn 2009 – 2011.
- Không gian: Châu Âu
- Nội dung: Thực trạng khủng hoảng nợ công ở châu Âu giai

đoạn 2009 – 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính. Các số liệu nghiên cứu
được lấy từ nguồn thứ cấp kết hợp với các phương pháp tổng hợp, thống kê,
phân tích.
5. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề án
được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về khủng hoảng nợ công
Chương 2: Thực trạng khủng hoảng nợ công tại châu Âu giai đoạn 2009 –
2011.
Chương 3: Giải pháp cho khủng hoảng nợ công tại châu Âu giai đoạn 2009
– 2011.

2



Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG NỢ CƠNG
1.1.

Khái niệm
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nợ cơng, hay cịn gọi là nợ chính phủ,

là những phần nghĩa vụ nợ trực tiếp hoặc được thừa nhận của chính phủ một quốc
gia với phần còn lại của nền kinh tế và nước ngoài.
Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới (WB), nợ công được hiểu là
nghĩa vụ nợ của bốn nhóm chủ thể bao gồm:
Thứ nhất, nợ của Chính phủ trung ương và các Bộ, ban, ngành trung
ương;
Thứ hai, nợ của các cấp chính quyền địa phương;
Thứ ba, nợ của Ngân hàng trung ương;
Thứ tư, nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn.
Theo Luật Quản lý nợ công ngày 17/6/2009 của Quốc hội khóa 12: Nợ
cơng được hiểu bao gồm ba nhóm là nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh
và nợ chính quyền địa phương – được xác định là một khoản nợ mà Nhà nước (bao
gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Như
vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ (trong cũng
như ngồi nước), trái phiếu cơng trình đơ thị hay một tập đồn kinh tế vay nợ nước
ngồi được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ cơng.
Như vậy, có thể khái qt, nợ cơng là tồn bộ các khoản vay nợ của
các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương tại một thời điểm nào đó.
* Nguồn: />
3



1.2. Các hình thức vay nợ và cơng cụ vay nợ công
Hiện nay các tổ chức quốc tế không đề cập cụ thể đến mục đích vay
nợ, nhưng các khuyến nghị trong khung pháp lý thường phải xác định rõ
mục đích vay; hay nói cách khác là Chính phủ vay để làm gì? Thơng thường
các khoản vay nợ chủ yếu là: tài trợ thâm hụt ngân sách, tái cơ cấu nợ, cho
vay lại… Một số nước cho phép vay để tài trợ cho các chương trình dự án
đầu tư quan trọng của Chính phủ (như Bungari, Thái Lan), hay có thể vay để
đáp ứng yêu cầu ngoại hối của ngân hàng Trung ương (Rumani)… Vì vậy,
căn cứ vào mục đích vay để các quốc gia đưa ra các hình thức và công cụ
vay cho phù hợp với điều kiện của từng quốc gia. Hiện nay, về cơ bản các
nước đều có hai hình thức vay: vay trong nước và vay nước ngồi.
1.2.1 Vay trong nước của Chính phủ
Để vay nợ trong nước, các quốc gia trên thế giới sử dụng nhiều cơng
cụ vay nợ khác nhau, nhưng nhìn chung là đảm bảo sự phù hợp với điều
kiện của từng quốc gia. Vay trong nước được thực hiện chủ yếu dưới hình
thức phát hành tín phiếu, trái phiếu hoặc bất kỳ cơng cụ nào phát sinh nghĩa
vụ nợ.
Thứ nhất, tín phiếu (T-bills): là một chứng chỉ vay nợ (loại TPCP) có kỳ hạn
dưới 1 năm (thường 3, 6, 9 tháng), dùng để huy động vốn bù đắp thiếu hụt
ngân sách tạm thời, được phát hành theo phương thức đấu thầu.

Thứ hai, trái phiếu (T-Bonds): là loại chứng khoán nợ được phát hành có
thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát
hành đối với người sở hữu trái phiếu.

4


Thứ ba, trái phiếu chính quyền địa phương (municipal bonds): là các loại
trái phiếu có thời hạn 1 năm trở lên do chính quyền địa phương phát hành

nhằm huy động vốn cho các dự án đầu tư như cơng trình cơ sở hạ tầng hay
phúc lợi công cộng của địa phương.
Thứ tư, trái phiếu ngoại tệ: là loại TPCP có kỳ hạn từ 1 năm trở lên, nhưng
được thể hiện dưới dạng ngoại tệ, nhằm huy động tiền bằng ngoại tệ của dân
chúng, loại trái phiếu này không phổ thông.
Thứ năm, trái phiếu cơng trình Trung ương: là loại trái phiếu có kỳ hạn từ 1
năm trở lên, do Kho bạc nhà nước phát hành nhằm huy động vốn cho cơng
trình đầu tư cụ thể theo quyết định của thủ tướng Chính phủ. Do đó trái
phiếu cơng trình Trung ương thường gắn với cơng trình cụ thể và lãi suất
thấp hơn các loại trái phiếu khác.
Thứ sáu, công trái xây dựng tổ quốc: đây là loại trái phiếu trung, dài hạn.
Đặc thù của công trái xây dựng tổ quốc là có lãi suất thấp vì nó khơng mang
tính chất vay vốn để bù đắp thâm hụt ngân sách mà để động viên người dân
cho Chính phủ vay vốn để đầu tư vào các dự án đầu tư trọng điểm của nhà
nước. Đây cũng chính là lý do tại sao gọi là Cơng trái xây dựng Tổ quốc.
1.2.2 Vay nước ngồi của Chính phủ
Thứ nhất, vay từ nguồn viện trợ phát triển chính thức (Official development
assistants- ODA): là các khoản vay nhân danh nhà nước, Chính phủ từ các
nhà tài trợ là các Chính phủ nước ngồi; các tổ chức tài trợ song phương
như của các tổ chức tài chính quốc tế gồm: Ngân hàng thế giới(WB), Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á(ADB)…; các tổ chức
liên quốc gia hoặc liên Chính phủ có thể như các tổ chức phi Chính phủ
(NGO).
Thứ hai, Vay có tính chất thương mại (commercial loans): là những khoản
vay dựa trên quan hệ cung cầu về vốn vay trên thị trường, lãi suất do thị
trường quyết định, không chịu bất cứ ràng buộc nào về các điều kiện kinh tế
hay chính trị.
5



Thứ ba, vay ưu đãi: là khoản vay có các điều kiện ưu đãi hơn so với vay
thương mại nhưng ưu đãi không đạt theo tiêu chuẩn chung của ODA.
Thứ tư, khoản vay hợp vốn (Syndicated loans): là một khoản vay vốn lớn
trong đó một nhóm người cho vay (phần lớn là các ngân hàng) sẽ cùng liên
kết với nhau để cung cấp vốn cho một người đi vay.
Thứ năm, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu chính thức (Official supported export
credits): đây là hình thức được thực hiện vay liên quan đến hoạt động xuất
khẩu. Các nước đang phát triển khi thực hiện xuất khẩu sẽ được hỗ trợ về
vốn cho hoạt động xuất khẩu của mình.
Thứ sáu, phát hành trái phiếu quốc tế (Global bonds). Trái phiếu quốc tế
của Chính phủ là chứng chỉ vay nợ do Chính phủ Trung ương hay chính
quyền địa phương phát hành trên thị trường vốn quốc tế nhằm huy động vốn
của các nhà đầu tư trên thế giới.
1.3. Tác động của nợ công
1.3.1 Những tác động tích cực của nợ cơng
- Nợ cơng làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường
nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà
nước.
- Huy động nợ cơng góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi
trong dân cư. Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thơng qua
việc Nhà nước vay nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng,
đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư.
- Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngồi và các tổ chức tài
chính quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế - ngoại
giao quan trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc
gia nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế song phương.
1.3.2. Những tác động tiêu cực của nợ công

6



- Khi nợ công cao sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt
là từ các khoản tài trợ nước ngồi.
- Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo, việc sử dụng nợ công
sẽ tỏ ra kém hiệu quả.
- Tình trạng tham nhũng, lãng phí sẽ tràn lan nếu Chính phủ thiếu cơ
chế giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công. Điều này sẽ kìm
hãm sự phát triển của nền kinh tế, nghiêm trọng hơn có thể đẩy nền kinh tế
lâm vào tình trạng suy thối cùng với những bất ổn của xã hội.
Tóm lại, nợ cơng có tác động lớn đến nền kinh tế trên cả 02 mặt
tích cực và tiêu cực. Do vậy, Chính phủ phải thường xuyên theo dõi,
nhận biết những tác động tích cực và tiêu cực để phát huy mặt tích cực,
kịp thời hạn chế mặt tiêu cực là điều hết sức cần thiết trong xây dựng
và thực hiện pháp luật về quản lý nợ công.
1.4. Khủng hoảng nợ cơng
1.4.1.

Khái niệm:

Khủng hoảng nợ cơng là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ), làm chao
đảo nền kinh tế do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Nhu cầu
chi nhiều quá, trong khi thu khơng đáp ứng nổi, chính phủ đi vay tiền thơng
qua nhiều hình thức như phát hành cơng trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,…
để chi, từ đó dẫn đến tình trạng nợ. Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ
công gia tăng.
1.4.2.

Tác động của khủng hoảng nợ công: Do tỷ trọng Nợ Chính

phủ thường chiếm tỷ trọng lớn trong Nợ cơng và có tác động mạnh mẽ, rõ ràng

nhất với nền kinh tế nên lấy Nợ chính phủ làm đại diện để xem xét.
- Khủng hoảng nợ công tác động đến nền kinh tế thông qua các chỉ số sau:
+ Cán cân ngân sách thâm hụt
+ Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng
7


+ Lạm phát tăng
+ Các doanh nghiệp hạn chế đầu tư, tốc độ tăng trưởng GDP giảm.
+ Thất nghiệp tăng
Khủng hoảng nợ công, cán cân ngân sách thâm hụt , Chính phủ cần huy
động để trả nợ buộc phải vay của công chúng bằng cách phát hành trái phiếu,
vay mượn ở ngân hàng trung ương hoặc cầu viện cứu trợ từ các nước khác,
từ các tổ chức quốc tế như IMF...hoặc tăng thuế để bù đắp thâm hụt ngân
sách bên cạnh đó phải thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng” để giảm
chi tiêu. Việc phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính
phủ giảm, lãi suất trái phiếu tăng vì chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu
thì mới huy động được người mua. Khi cán cân ngân sách thâm hụt, ngân
hàng trung ương sẽ tài trợ thâm hụt bằng cách phát hành thêm tiền làm tăng
khối cung tiền gây ra áp lực lạm phát.
Bên cạnh đó, việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư trực tiếp,
kìm hãm kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng (thể hiện ở tốc độ tăng trưởng
GDP giảm sút. chỉ số nợ/GDP tăng). Việc giảm chi tiêu, giảm đầu tư sẽ dẫn
đến tình trạng việc làm giảm, thất nghiệp gia tăng.
Mặt khác, cán cân ngân sách thâm hụt đã gây ra sự mất lòng tin của người
dân và của nhà đầu tư mới đối với các nền kinh tế quốc gia khiến đồng tiền
quốc gia sụt giá. Điều đó có thể dẫn tới một đợt tháo chạy với quy mô lớn trên
thị trường trái phiếu và cổ phiếu làm giá chứng khoán bị sụt giảm.
1.5. Nguyên nhân và hậu quả của khủng hoảng nợ công
1.5.1. Nguyên nhân khủng hoảng nợ công

Khi khủng hoảng nợ công xảy ra, điều đầu tiên mà các tổ chức nghĩ
tới là họp bàn để tìm ra ngun nhân chính gây ra khủng hoảng này. Đối với
một cuộc khủng hoảng nợ công thì có nhiều ngun nhân gây ra, dưới đây là
8


một số nguyên nhân thường thấy ở các quốc gia đã xảy ra khủng hoảng nợ
cơng:
+ Sự kiểm sốt chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước kém, không chặt
chẽ, thậm chí bị bng lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thốt, lãng phí
trong đầu tư và chi tiêu, cùng với tệ tham nhũng phát triển ở nhiều nước,
cũng trở thành nguyên nhân không kém phần quan trọng.
+ Trong khi đó, các nguồn thu chủ yếu từ thuế tăng khơng kịp với nhu
cầu chi, thậm chí một số loại thuế chịu áp lực phải cắt giảm do nhiều
nguyên nhân khác
+ Do những khoản nợ nước ngoài khổng lồ ngày càng gia tăng. Trong
khủng hoảng, các khoản nợ tư có xu hướng chuyển thành nợ công. Một điều
bất cập là, quốc gia có nợ nước ngồi cao trong khi người dân lại nắm giữ
một lượng tài sản lớn của nước ngồi. Trong trường hợp này, Chính phủ
phải đối mặt với trường hợp, quốc gia có thể vỡ nợ trong khi người dân của
mình vẫn có thể hưởng lợi nhuận từ tài sản nước ngoài. Để giải quyết vấn đề
này, các quốc gia có thể huy động các nguồn vốn này để thay thế cho các
khoản nợ nước ngoài.
+ Tiết kiệm trong nước thấp ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn đầu
tư phát triển nền kinh tế; vay nợ nước ngoài chủ yếu giành cho chi tiêu
công, không hỗ trợ nhiều cho hoạt động đầu tư trong nước.
+ Các Chính phủ đã ngụy tạo các báo cáo về tình hình kinh tế trong
nước một thời gian dài để có thể che dấu mức vay thực tế, nhằm phù hợp
với các quy định, giám sát của các tổ chức quốc tế, từ đó có thể vay được
nhiều hơn.

+Chi tiêu kích thích kinh tế sau khủng hoảng làm trầm trọng thêm
vấn đề.
1.5.2. Hậu quả của khủng hoảng nợ công

9


+ Các thị trường ngày càng mất tin tưởng nhau, mức tín nhiệm do đó
cũng liên tục bị hạ bậc, điều này làm cho việc vay mượn, đầu tư giữa các tổ
chức cũng trở nên khó khăn hơn, quốc gia lại rơi vào vòng luẩn quẩn của
khủng hoảng và suy thối kinh tế.
+ Khủng hoảng nợ cơng ngày càng trầm trọng sẽ khiến cho các nhà
đầu tư tháo chạy với quy mô lớn trên thị trường trái phiếu và cổ phiếu làm
mất khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng và gây hiệu ứng sụp đổ
hàng loạt ở các nền kinh tế khác.

10


Chương 2: THỰC TRẠNG KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TẠI
CHÂU ÂU GIAI ĐOẠN 2009-2011
2.1. Diễn biến khủng hoảng nợ công tại châu Âu giai đoạn 20092011
Từ cuối năm 2009, lo ngại về cuộc khủng hoảng nợ quốc gia gia tăng
giữa các nhà đầu tư liên quan đến một số nước châu Âu, mối lo sợ này tăng
lên vào đầu năm 2010. Các quốc gia có vấn đề về nợ cơng trong khu vực
châu Âu bao gồm các thành viên Hy Lạp. Ireland, Italia, Tây Ban Nha và Bồ
Đào Nha, và cũng có một số khu vực châu Âu khơng thuộc liên minh châu
Âu (EU). Đặc biệt là từ Ireland, quốc gia mới bị cuộc ảnh hưởng tài chính
lớn nhất trong năm 2008. Các khoảng nợ cơng tăng mạnh cho các chính phủ
EU do đó kế hoạch giải cứu ngân hàng. Tháng 11/2009, Thủ tướng Hy Lạp

cho biết thâm hụt ngân sách năm 2009 sẽ ở mức 12,7% GDP (1) (Theo tạp chí
Ngân hàng “Con đường dẫn tới khủng hoảng nợ cơng của Hy Lạp” số
13/2010), cao gấp đôi con số công bố trước đó và sẽ cố gắng cứu Hy Lạp
khỏi khả năng vỡ nợ.
Ngày 22/12/2009, Moody’s xếp hạng nợ công Hy Lạp từ A1 xuống
mức A2 bởi thâm hụt ngân sách của nước này tăng cao. Đây là cơ quan thứ
ba hạ xếp hạng tín dụng của Hy Lạp. Ngày 14/01/2010, Chính phủ Hy Lạp
cơng bố kế hoạch bình ổn, tuyên bố muốn giảm thâm hụt ngân sách xuống
mức 208%(1) GDP vào năm 2012 (Ngọc Diệp 2010). Ngày 29/01/2010,
Chính phủ Tây Ban Nha công bố kế hoạch tiết kiệm 50 tỷ euro tương đương
70 tỷ USD, trong đó tổng số tiền chi tiêu giảm tương đương 4% GDP (1)
(Ngọc Diệp 2010). Lương lao động trong lĩnh vực công giảm 4% (1)(Ngọc
Diệp 2010). Ngày 11/4/2010, Bộ trưởng tài chính các nước thuộc khu vực
đồng tiền chung châu Âu chấp thuận kế hoạch 30 tỷ euro dành cho Hy Lạp,
tuy nhiên Hy Lạp tuyên bố không cần (Ngọc Diệp 2010). Ngày 23/4/2010,
Hy Lạp cầu cứu EU và IMF. Ngày 02/5/2010, Thủ tướng Hy Lạp cho biết,
11


chính phủ nước này đã đạt được thỏa thuận với EU và IMF để nhận được
gói giải cứu, đổi lại nước này phải giảm chi tiêu 30 tỷ euro trong 3 năm tới
(Ngọc Diệp 2010). Ngày 9/5/2010, IMF đơn phương chấp thuận trước một
phần kế hoạch giải cứu, cung cấp lập tức 5,5 tỷ euro (Ngọc Diệp 2010).
Ngày 10/5/2010, các nhà hoạch định chính sách kinh tế tồn cầu đưa
ra kế hoạch khẩn cấp trị giá 750 tỷ euro để hỗ trợ thị trường tài chính và vực
dậy đồng euro, ngăn đồng tiền này chịu ảnh hưởng tệ hại từ khủng hoảng nợ
Hy Lạp (Ngọc Diệp 2010). Gói giải cứu bao gồm 440 tỷ euro từ các nước
thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu, 60 tỷ euro từ công cụ nợ của châu
Âu (Ngọc Diệp 2010). IMF đóng góp 250 tỷ euro, tổng số tiền lên đến 750
tỷ euro, tương đương khoảng gần 1000 tỷ USD tính theo tỷ giá thời điểm đó

(Ngọc Diệp 2010). Gói giải cứu Hy Lạp nhận được bao gồm 110 tỷ euro
trong 3 năm (Ngọc Diệp 2010). Đây là nước đầu tiên tại khu vực đồng tiền
chung châu Âu được hỗ trợ. Chính phủ Đức đồng ý đóng góp 22,4 tỷ euro
tương đương 30 tỷ USD cho kế hoạch cứu Hy Lạp (Ngọc Diệp 2010).
Ngày 27/5/2010, Quốc hội Tây Ban Nha chấp thuận kế hoạch thắt chặt
ngân sách nhằm tiết kiệm 15 tỷ euro tương đương 18,4 tỷ USD (Ngọc Diệp
2010).
Ngày 18/5/2010, Chính phủ Đức, trong nỗ lực ngăn hoạt động đầu cơ
tài chính được coi như nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công, công bố
cấm bán khống vô căn cứ cổ phiếu của 10 tổ chức tài chính lớn nhất tại Đức,
trái phiếu chính phủ và hợp đồng hốn đổi vỡ nợ tín dụng (Ngọc Diệp
2010).
Ngày 25/5/2010, Nội các Italia bỏ phiếu thông qua kế hoạch thắt chặt
ngân sách, tiết kiệm 24 tỷ euro với mục tiêu đến năm 2012 đưa thâm hụt
ngân sách GDP từ mức 5,3% của năm 2009 về mức 2,7% GDP (Ngọc Diệp
2010).
12


Ngày 28/5/2010, Fitch hạ xếp hạng tín dụng của Tây Ban Nha từ AAA
xuống AA+ bởi nợ tiêu dùng và doanh nghiệp tại nước này tăng lên mức
quá cao, đó là chưa kể đến nợ công đang ở mức đáng báo động (Ngọc Diệp
2010).
Ngày 29/5/2010, hàng ngàn người biểu tình ở Lisbon – Bồ Đào Nha để
phản đối kế hoạch thắt chặt ngân sách của Chính phủ (Ngọc Diệp 2010).
Ngày 7/6/2010, Đảng của Thủ tướng Đức chấp thuận kế hoạch thắt
chặt ngân sách và thuế để hoàn thành mục tiêu đưa thâm hụt ngân sách của
Đức về mức quy định của liên minh Châu Âu trong khoảng thời gian từ nay
đến năm 2013 (Ngọc Diệp 2010).
Ngày 8/6/2010, Cơng đồn Tây Ban Nha công bố 75% người lao động

trong lĩnh vực công không đi làm để thể hiện sự phản đối kế hoạch thắt chặt
chi tiêu của Chính phủ (Ngọc Diệp 2010).
Tỷ lệ lạm phát của Hy Lạp tháng 5/2010 tăng 5,4%, vượt mọi kỳ vọng
của các chuyên gia và lên mức cao nhất từ tháng 8/1997 (Ngọc Diệp 2010).
Ngày 10/6/2010, thỏa thuận cải tổ thị trường lao động Tây Ban Nha
sụp đổ. Chính phủ buộc phải áp dụng quy định tuyển dụng và sa thải lỏng
lẻo hơn dù khơng có sự hỗ trợ của Nghiệp đoàn Lao động (Ngọc Diệp
2010).
Ngày 27/11/2011, lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của chính phủ Tây
Ban Nha tăng lên 6,78%, là mức cao nhất kể từ khi gia nhập EU (Nguyễn
Duy Thục 2019).
Ngày 21/12/2011, ông Rajoy nhậm chức thủ tướng Tây Ban Nha, hình
thành nên chính phủ mới, đánh dấu sự sụp đổ của chính phủ thứ 5 tại châu

13


Âu sau Italia, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Ireland do cuộc khủng hoảng (Nguyễn
Duy Thục 2019).

Ngày 14/01/2012, Standard & Poor’s hạ mức tín nhiệm của Pháp
xuống một bậc (từ AAA xuống AA+) và Italia xuống BBB+ cùng với triển
vọng tiêu cực (Nguyễn Duy Thục 2019).
Ngày 6/2/2012 Chính phủ Romania là chính phủ thứ 6 ở châu Âu sụp
đổ do khủng hoảng nợ (Nguyễn Duy Thục 2019).
Ngày 25/6/2012, Cyprus chính thức trở thành nước thứ 5 trong khu vực
các nước sử dụng đồng tiền chung euro phải xin cứu trợ từ Quỹ Bình ổn tài
chính châu Âu (Nguyễn Duy Thục 2019).
Ngày 16/3/2013, các bộ trưởng tài chính khu vực Eurozone và IMF đã
đồng ý cung cấp cho Cyprus gói cứu trợ trị giá 10 tỷ euro (Nguyễn Duy

Thục 2019).
Theo Eurostat, tính chung trên toàn Liên minh châu Âu, tỷ lệ thất
nghiệp trong tháng 1 năm 2013 cũng tăng lên mức 10,8% so với 10,7%
trong tháng 12 năm 2012 (Nguyễn Duy Thục 2019).
Tính đến thời điểm này đã có 26,2 triệu người thất nghiệp tại 27 nước
thành viên EU. Dự đoán tỷ lệ thất nghiệp năm 2013 sẽ vượt quá 12%
(Nguyễn Duy Thục 2019).
2.2. Nguyên nhân khủng hoảng nợ công tại châu Âu
Có thể chia ngun nhân xảy ra tình trạng khủng hoảng nợ cơng do 2
nhóm chính là ngun nhân bên chủ quan và khách quan.
Nguyên nhân chủ quan:

14


Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ Hy Lạp: Chính phủ Hy Lạp phạm
sai lầm trong quản lý và không trung thực khi thông báo số liệu kinh tế
trong nhiều năm. Chính sự mất niềm tin làm cho Hy Lạp giải quyết khủng
hoảng càng khó khăn. Bất kỳ quyết định nào của chính phủ Hy Lạp về giải
quyết vấn đề ngân sách đều bị hồi nghi, do đó càng khó cho giải quyết
khủng hoảng. Ngoài việc vốn đầu tư chạy khỏi Hy Lạp, khoảng 30% hoạt
động của nền kinh tế nước này có gian lận, 90% những người có thu nhập
cao khai thu nhập dưới 30.000 euro/năm nhằm tránh nộp thuế (Theo báo
Economist Greece). Bên cạnh đó, việc Nhà thờ, một trong những chủ sở hữu
đát lớn nhất quốc gia này, lại không phải trả một đồng thuế nào. Mặc dù các
nhà dân chủ xã hội đã yêu cầu Nhà thờ phải trả thuế như mọi người khác,
nhưng cho đến nay chưa thấy có biện pháp nào được đưa ra áp dụng,
Các chính phủ thu khơng đủ chi: các nhà phân tích kinh tế đều cho
rằng, khủng hoảng nợ cơng ở châu Âu là do chi tiêu của các chính phủ quá
lớn. Việc chi tiêu quá lớn đã tạo ra thâm hụt ngân sách và khủng hoảng nợ

công (lương cao cho các nhà chính trị, cơng chức, hệ thống an sinh xã hội và
lao động, chế độ nghỉ hưu sớm) (Nguyễn Duy Thục 2019).
Vấn đề tổ chức tài chính và điều hành kinh tế của EU: Do vấn đề về
cơ cấu nên EU có hạn chế về điều hành nền kinh tế của Khối, các chính sách
tiền tệ khơng đi cùng với cải cách thu thuế và lao động. EU và Ngân hàng
TW Châu Âu (ECB) cũng phản ứng chậm với các nền kinh tế khi gặp khủng
hoảng (Nguyễn Duy Thục 2019).
Áp lực của các nhóm tài phiệt: Các nhà đầu cơ, các tổ chức tài chính
lớn và các trung tâm quyền lực kinh tế đã thuyết phục được các chính phủ
chỉ điều chỉnh thể chế chứ không áp dụng các biện pháp cải cách các thể
chế. Chính phủ các nước phải tốn nhiều tỷ euro hỗ trợ các ngân hàng và cho
các chương trình hỗ trợ hoạt động kinh tế nhằm cứu ngân hàng và nền kinh

15


tế không bị đổ vỡ, điều này không tránh khỏi việc nợ cơng gia tang (Nguyễn
Duy Thục 2019).
Vấn đề chính sách kinh tế tự do mới: Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế
cho rằng cuộc khủng hoảng hiện nay là do chính sách kinh tế tự do gây ra.
Do vậy, các quốc gia muốn thốt khỏi cần phải từ bỏ chính sách kinh tế tự
do gây ra. Do vậy, các quốc gia muốn thốt khỏi cần phải từ bỏ chính sách
kinh tế tự do mới và chuyển sang chính sách kinh tế của Keynes, chính sách
kích cầu (Nguyễn Duy Thục 2019)
Nguyên nhân khách quan
Chiến dịch tấn công làm suy yếu đồng euro: Ngay từ tháng 02/2010,
Bộ trưởng xây dựng Tây Ban Nha José Blanco cho rằng có một chiến dịch
tấn cơng đồng euro trên các thị trường thế giới mà mục tiêu nhằm vào Tây
Ban Nha. Giới đầu cơ đang thực hiện các chiến dịch nhằm hạ thấp đồng
euro và kiếm lời. Họ chủ yếu đầu cơ trong ngắn hạn .

Các cơ quan đánh giá rủi ro trái phiếu vào thị trường tài chính: thị
trường tài chính đóng vai trị gây bất ổn tình hình kinh tế vừa qua. Các cơ
quan đánh giá Standard & Poor’s và Fitch bắt đầu đánh giá nợ của Hy Lạp,
hạ thấp trái phiếu của nước này thành trái phiếu rác. Kể từ đó, lãi suất trái
phiếu của chính phủ Hy Lạp khơng ngừng tăng, thị trường chứng khoán Hy
Lạp liên tục giảm. Joseph Stiglitz cũng cho rằng, các cơ quan đánh giá rủi ro
như Standard & Poors, Moody’s và Fitch là nhân tố góp phần vào sự bất ổn
của các thị trường, đẩy các nước vào khủng hoảng (Little Duck 2016).
Hoạt động đầu cơ tài chính: Mục đích của đầu cơ là làm tăng lãi suất
trái phiếu chính phủ cao nhất có thể để thu lời. Thực tế, nợ công được
thương lượng thông qua các ngân hàng tư nhân và giá do các ngân hàng này
ấn định. Các tổ chức tài chính như Alpha Bank, Bank of America-Merrill
Lynch, ngân hàng thương mại như ING và société Genérale có nhiều cơ hội
16


đầu cơ. Phát khai hỏa đầu tiên cho đầu cơ là việc IMF đưa ra báo cáo ngày
22/4/2010, theo đó nền kinh tế Bồ Đào Nha đang xấu đi. Kinh tế Bồ Đào
Nha sẽ tăng trưởng thấp hơn dự báo và sẽ không giảm được thâm hụt: thâm
hụt công sẽ là 7,5% GDP, dự báo trước đó là 6,6% thất nghiệp sẽ ở mức từ
10-11%. Hậu quả, các trái phiếu 10 năm của Bồ Đào Nha vượt qua ngưỡng
4,77% và hiện Bồ Đào Nha cùng Hy Lạp, Ireland là những nước chắc chắn
không thực hiện giảm nợ công, mặc dù nợ công của Bồ Đào Nha chỉ là 86%
GDP (Little Duck 2016).

Môi trường quốc tế không thuận lợi: Mỹ đe dọa đưa ra các số liệu
tiêu cực của các doanh nghiệp là cho thị trường chứng khoán của Mỹ giảm.
Để đối phó với khủng hoảng, các nhà đầu tư buộc phải rời khỏi các nước
này, làm cho các nước rơi vào cảnh thiếu tiền. Vốn đầu tư bị rút khỏi Hy
Lạp khơng ngừng tăng. Chỉ tính riêng trong tháng 1/2010 đã có 8 đén 10 tỷ

euro bị rút khỏi Hy Lạp (Little Duck 2016), con số này cao hơn số tiền trái
phiếu mà chính phủ Hy Lạp đã phát hành lần gần đây nhất .
Tóm lại cuộc khủng hoảng nợ công của các nước châu Âu bắt đầu
từ nhiều nguyên nhân, cả bên trong lẫn bên ngoài. Âm mưu và ý đồ của
giới tài phiệt tiếp tục gây áp lực lên thị trường tài chính nhằm đầu cơ
kiếm lời trong ngắn hạn. Gói cứu trợ 750 tỷ euro có tách dụng trong
ngắn hạn, nhưng về trung hạn, nguy cơ tiềm ẩn vẫn cịn cao, vẫn cịn có
nghi ngờ về các món nợ cơng và sự bất ổn tài chính (Little Duck 2016).
Tình hình này có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế châu Âu nhưng cũng
có thể gây ra hiệu ứng đối với cả thế giới
2.3 Hậu quả của khủng hoảng nợ công châu Âu
Khi nợ công tăng cao, vượt quá xa giới hạn được coi là an toàn, nền
kinh tế rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên ngoài.
17


Xung quanh diễn biến về cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu với tâm chấn
là Hy Lạp và hiện đang có nguy cơ lan tỏa sang nhiều nền kinh tế khác, có
thể thấy những hậu quả mà cuộc khủng hoảng để lại như sau:
Khủng hoảng nợ công đã làm cho tình trạng thất nghiệp ở các nước
châu Âu ngày càng tăng, thể hiện qua tỷ lệ thất nghiệp tại Eurozone vẫn liên
tục tăng và đạt mức cao nhất 10,3% trong tháng 10/2011 với 16,3 triệu
người khơng có việc làm, mức cao nhất kể từ năm 1995 đến thời điểm này
(Little Duck 2016). Trong đó, Tây Ban Nha có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất
khối với mức 22,8% và Italia là 8,5% (Tạp chí cộng sản).
Khi khủng hoảng nợ xảy ra, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính
sách "thắt lưng buộc bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải
đáp ứng để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế
nhưng, "thắt lưng buộc bụng" lại dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của
quần chúng, gây căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người

nghèo, những người yếu thế trong xã hội là những người bị tác động mạnh
nhất từ chính sách cắt giảm phúc lợi, cắt giảm chi tiêu của Chính phủ.
Chẳng hạn, để được nhận gói cứu trợ nhằm giải quyết khủng hoảng nợ,
Chính phủ Hy Lạp đã phải quyết định tăng nhiều loại thuế, từ thuế giá trị gia
tăng đến thuế thu nhập, thuế bất động sản; và đánh thuế vào nhiều sản phẩm
như rượu, thuốc lá…, đồng thời chấp nhận áp dụng các biện pháp cắt giảm
chi tiêu mạnh tay. Để phản đối chính sách này của Chính phủ, các cuộc tổng
đình cơng đã diễn ra, hàng chục ngàn người đã tham gia biểu tình trên khắp
đất nước Hy Lạp, nhất là tại thủ đơ Athen.
Khi nền kinh tế tồn cầu mới thốt khỏi khủng hoảng, bắt đầu có dấu
hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà Chính phủ các
nước đã chi ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng
thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm
tốc độ tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy nền kinh tế vào "khủng hoảng
kép". Nghiêm trọng hơn, việc tung ra các gói kích thích kinh tế chính là
18


một trong những nguyên nhân làm tăng nợ công của các Chính phủ. Vấn
đề đặt ra cho các Chính phủ là phải chèo lái để giải quyết được thâm hụt
ngân sách nhưng khơng đẩy nền kinh tế trở lại tình trạng suy thoái, trong
khi các biện pháp để giải quyết hai vấn đề này lại có tác động khơng thuận
chiều.
+ Nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo
cáo của các tổ chức chun đi đánh giá tín nhiệm các cơng ty và quốc gia
khác, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế
dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế. Thí dụ, đối
với Hy Lạp, khi tổ chức xếp hạng tín dụng Standard & Poor’s hạ bậc tín
nhiệm đối với TPCP của Athen, các quỹ đầu tư lớn lập tức bán ra loại trái
phiếu này, đồng thời từ chối mua vào trong các đợt phát hành tiếp theo

(Little Duck 2016). Nếu Chính phủ muốn huy động tiền từ thị trường tài
chính sẽ phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó, rơi vào vịng xốy:
tiếp tục bị tụt bậc tín nhiệm. Việc đưa ra xếp hạng tín nhiệm trong thời điểm
nhạy cảm, dễ tổn thương của nền kinh tế có nguy cơ làm cho cuộc khủng
hoảng thêm trầm trọng, có tác dụng như một "cú huých", đẩy nền kinh tế lún
sâu thêm vào khó khăn, bế tắc.
+ Cùng với áp lực đang gia tăng từ thất nghiệp, thâm hụt NSNN và
chi tiêu công, cũng như sự mất giá của TPCP, cuộc khủng hoảng nợ công
châu Âu đã làm tổn thất hàng ngàn tỷ USD thu nhập tài chính của các nước
thành viên EU (Little Duck 2016), khiến nhiều chính trị gia mất ghế, gây
nhiều tranh cãi và những chi phí giải cứu tốn kém hàng trăm tỷ EUR, làm
suy giảm nặng nề thêm nền kinh tế khu vực, cũng như thị trường tài chínhtiền tệ khu vực và thế giới.
+ Ngoài ra, khủng hoảng nợ công châu Âu cũng đã ảnh hưởng tới các
nền kinh tế khác trên thế giới. Một trong những nền kinh tế của thế giới chịu
ảnh hưởng lớn từ cuộc khủng hoảng nợ cơng châu Âu đó là Mỹ, quốc gia có
19


nhiều sự ràng buộc về mặt kinh tế, thương mại và tài chính với các nước
Eurozone.

20


Chương 3: GIẢI PHÁP CHO KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TẠI CHÂU ÂU
GIAI ĐOẠN 2009-2011
Mặc dù là một nước nhỏ, song với tư cách là một thành viên của EU
đang lâm nguy, và “việc vỡ nợ”, nếu xảy ra, của Hy Lạp sẽ là khởi đầu
cho một phản ứng domino tài chính ra tồn EU và thậm chí cả thế giới.
Cơ cấu tái cấp vốn và việc các ngân hàng cắt giảm 50% số nợ cho Hy Lạp

là 2 vấn đề chính trên bàn thương lượng đã được các nhà lãnh đạo EU
thống nhất vào rạng sáng 27/10/2011 (Gia khánh 2013)
Song song với cơ cấu giải quyết nợ cho Hy Lạp là việc nâng Quỹ Hỗ
trợ bình ổn tài chính châu Âu (EFSF) lên mức tối thiểu 1 nghìn tỉ USD
cũng được thông qua (Gia khánh 2013). Phương thức hoạt động mới của
quỹ này là có thể cho những quốc gia lâm nợ như Italia và Tây Ban Nha
vay lên đến hàng trăm, thậm chí cả nghìn tỉ USD bằng cách cung cấp cho
các quốc gia này một loại bảo hiểm để đảm bảo trái phiếu quốc gia hấp
dẫn các nhà đầu tư.
Cần nhìn nhận một thực tế khắc nghiệt là trước khi bước vào bàn hội
nghị, các nhà lãnh đạo châu Âu đứng trước nguy cơ rất lớn về sự sụp đổ
của đồng euro nếu không đạt được một thỏa thuận chung về cứu nợ Hy
Lạp. Nhưng để đạt được thành công trên bàn hội nghị, các nhà lãnh đạo
EU buộc phải làm sao thuyết phục các ngân hàng chấp nhận khoản cắt
giảm nợ 50% nói trên (Gia khánh 2013). Yêu cầu này đã vấp phải sự phản
đối của một số ngân hàng và các nhà đầu tư tư nhân. Họ lo ngại động thái
này thứ nhất sẽ làm cho các ngân hàng bị hụt vốn, và thứ hai là tạo ra tiền
lệ nguy hiểm về việc "xóa nợ cơng" cho các quốc gia khủng hoảng.
Tuy nhiên, tình hình khủng hoảng nợ công, nhất là sau sự sụp đổ của
Ngân hàng Dexia (liên doanh Bỉ- Pháp) đã đặt ra một nguy cơ lớn hơn về
các rủi ro do các tài sản nợ xấu của các quốc gia bị khủng hoảng đem lại.
Xóa một phần nợ khơng có nghĩa là xóa trắng, mà cịn có thể tạo cơ hội
cứu vãn phần nợ còn lại. Nhưng một khi các quốc gia khủng hoảng, cụ thể
là Hy Lạp sụp đổ, vỡ nợ, mất khả năng chi trả thì việc mất trắng là khó
tránh khỏi, vì thế thiệt hại càng trầm trọng hơn.

21


Theo phân tích của tờ Der Spiegel của Đức, với mức cắt giảm 50%

nợ, trong giai đoạn trước mắt Hy Lạp có thể tự đứng trên đơi chân mình,
từ đó tạm thời tránh được tình trạng khủng hoảng nợ lan rộng đang đe dọa
làm suy thối nền kinh tế tồn châu Âu nói chung (Gia khánh 2013).
Chính vì vậy, các ngân hàng và các nhà đầu tư tư nhân đành phải chấp
nhận kế hoạch xóa nợ 50% do EU đưa ra (Gia khánh 2013). Để thực hiện
động thái này, các ngân hàng được yêu cầu phải tăng cường huy động vốn
trên thị trường để tạm thời bù đắp vào khoản thâm hụt vốn do giảm nợ.
Để khắc phục tình trạng thâm hụt vốn hoạt động của các ngân hàng
đang nắm giữ các khoản nợ của Hy Lạp, kế hoạch của EU yêu cầu các
ngân hàng tăng cường huy động vốn, mức cụ thể là 150 tỉ USD (Gia
khánh 2013). Bên cạnh đó, kế hoạch cịn kêu gọi các chính phủ châu Âu
hỗ trợ ngân hàng trong việc tìm nguồn vốn hoạt động. Các ngân hàng
châu Âu có đặc điểm là phụ thuộc vào các khoản vay ngắn hạn, từ đó tạo
ra rủi ro cao, dễ dẫn đến phá sản một khi nguồn huy động vốn ngắn hạn
đó khơng ổn định và thậm chí bị thu hẹp.
Trường hợp phá sản của Ngân hàng Dexia là một điển hình mà một
phần nguyên nhân xuất phát từ việc các nhà đầu tư tư nhân và các quỹ đầu
tư tài chính của Mỹ do lo ngại tình hình khủng hoảng nợ cơng ở châu Âu
nên đã đồng loạt rút vốn. Tình trạng này hiện cũng đang diễn ra tại nhiều
ngân hàng khác của châu Âu, cho nên người ta đang lo ngại liệu hàng
loạt ngân hàng khác có rơi vào tình trạng giống Ngân hàng Dexia hay
không.
Để tránh nguy cơ này, kế hoạch của EU đã yêu cầu Ngân hàng Trung
ương châu Âu và Ngân hàng Đầu tư châu Âu cùng các cơ quan liên quan
nhanh chóng nghiên cứu xây dựng một hệ thống cung cấp vốn mới nhằm
giúp các ngân hàng chấm dứt tình trạng huy động vốn ngắn hạn. Một
trong những biện pháp bảo đảm an tồn đó là địi hỏi các ngân hàng dành
ra 9% giá trị tài sản để làm nguồn vốn dự phịng, tăng gần gấp đơi so với
tỉ lệ 5% hiện hành (Gia khánh 2013). Thời hạn thực hiện là vào ngày
30/6/2012.


22


Có ý kiến băn khoăn cho rằng các ngân hàng có thể "lách" quy định
bằng cách giảm giá trị tổng tài sản để dễ dàng đạt được tỉ lệ 9% (Gia
khánh 2013). Để ngăn chặn việc này chỉ có cách các nhà quản lý tăng
cường việc kiểm tra, kiểm
soát đối với các ngân hàng.
Giải pháp cứu vãn “vào phút 89” của EU chỉ mới là bước đệm hữu
ích cho tiến trình làm việc tiếp theo khá dài của các nhà hoạch định chính
sách châu Âu. Những bước tiếp theo sẽ là tìm kiếm giải pháp ngăn ngừa
hiệu quả nguy cơ phát sinh khủng hoảng
Trước nguy cơ khủng hoảng nợ công ngày càng căng thẳng có thể
gây ra hiệu ứng “Domino”, đầu tháng 5/2010, EU và Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) đã nhất trí dành một gói cứu trợ dài hạn trị giá 110 tỷ EURO, tương
đương khoảng 136 tỷ USD trong vòng 3 năm, cho Hy Lạp nhằm giúp
nước này thốt khỏi bờ vực nợ cơng (Gia khánh 2013).
Đồng thời, ngày 10/5/2010, EU và IMF đã nhất trí thiết lập “Quỹ
chống khủng hoảng” trị giá 750 tỷ EUR (1000 tỷ USD). Theo đó, các
nước châu Âu đưa ra 572 tỷ USD (440 tỷ EUR) khoản vay mới và bơm
thêm 778 tỷ USD (60 tỷ EUR) cho chương trình vay đang thực hiện. IMF
cũng sẽ đóng góp 325 tỷ USD (250 tỷ EUR) cho gói cứu trợ (Gia khánh
2013). Gói cứu trợ mới này có quy mơ cịn lớn hơn cả gói cứu trợ ngân
hàng của Mỹ hai năm trước đây nhằm củng cố niềm tin của thị trường.
Để đổi lấy gói cứu trợ khẩn cấp, chính quyền Athens đã chấp nhận
điều kiện phải cắt giảm chi tiêu, cụ thể lương tháng thứ 13 và 14 cùng
các loại tiền thưởng khác của nhân viên nhà nước sẽ bị cắt hoàn toàn
trong khi lương sẽ khơng được tăng trong vịng 3 năm. Lương hưu của cả
khu vực công và tư đều bị giảm mạnh, còn thuế giá trị gia tăng sẽ tăng từ

21%- 23% (Gia khánh 2013). Chi phí quốc phịng và hệ thống y tế quốc
gia cũng sẽ bị cắt. Kế hoạch vô cùng khắc nghiệt này nhằm đưa mức thâm
thụt ngân sách của Hy Lạp xuống dưới 3% GPD vào năm 2014 và ngay
lập tức đã gây ra làn sóng phản đối (Gia khánh 2013).
*
23


Tây Ban Nha cũng sẽ thực hiện các biện pháp cắt giảm 6 tỷ euro đầu
tư công, cắt giảm 5% lương nhân viên nhà nước, cũng như giảm lương
hưu và đầu tư vào các chính quyền vùng để giảm thâm hụt ngân sách
khoảng 15 tỷ euro trong giai đoạn 2010-2011, đưa xuống mức còn 6%
GDP vào năm 2011 (Gia khánh 2013).
Chính phủ Bồ Đào Nha cũng cơng bố sẽ cắt giảm 5% tiền lương của
công chức và quan chức nhà nước, trong đó có cả các bộ trưởng, tăng 1%
nhằm đưa thuế giá trị gia tăng lên 21% (Gia khánh 2013). Thủ tướng Bồ
Đào Nha Jose Socrates cũng cam kết sẽ giảm thâm hụt ngân sách từ 9,4%
năm 2009 xuống còn 4,6% vào cuối năm 2011, trong khi tăng từ 1- 1,5%
mức thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao (Gia khánh
2013).
Mới đây, để củng cố hơn nữa hệ thống ngân hàng tài chính và củng
cố niềm tin của các nhà đầu tư toàn cầu, EU đã tiến hành kiểm tra “sức
khỏe” của 91 ngân hàng trong 20 nước thành viên, kết quả có 7 ngân hàng
khơng đủ tiêu chuẩn là: Hypo Real Estate của Đức, Agricultural Bank of
Greece SA của Hy Lạp và 5 ngân hàng khác của Tây Ban Nha. Các ngân
hàng này cần tăng vốn thâm 3,5 tỷ EUR, tương đương 4,5 tỷ USD, để
duy trì tỷ lệ vốn ở mức 6% (Gia khánh 2013).
Về thời hạn kéo dài các giải pháp cứu trợ, kích cầu, quan điểm của
Hội đồng châu Âu cho đến thời điểm này là:
+ Rút lui khỏi các gói kích thích ngay khi có sự hồi phục ở các

doanh nghiệp, tuy nhiên thời gian sẽ là khác nhau đối với các nước, cần
phải có sự phối hợp chặt chẽ ở tầm EU;
+ Hỗ trợ thất nghiệp ngắn hạn chỉ nên thực sự dừng lại khi mà sự
đổi chiều trong tăng trưởng GDP được sự xác lập vì việc làm thường có
độ trễ so với tăng trưởng;
+ Các sơ đồ hỗ trợ các lĩnh vực của nền kinh tế thực nên kết thúc
sớm hơn vì chúng địi hỏi chi phí ngân sách lớn và thường có thể có tác
động làm biến dạng thị trường thống nhất;
+ Hỗ trợ tiếp cận thị trường vốn nên được duy trì cho tới khi có tín

24


hiệu rõ ràng là các điều kiện tài chính của các doanh nghiệp đã thực sự
quay về với trạng thái bình thường;
+ Rút lui sự hỗ trợ lĩnh vực tài chính, khởi động sơ đồ bảo lãnh
chính phủ sẽ tùy thuộc vào tình hình của nền kinh tế nói chung và vào sự
ổn định của hệ thống tài chính.

25


×