Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Sâu hại ngô và thiên địch của chúng trên ngô vụ đông xuân năm 2010 2011 ở xã kim liên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.85 KB, 38 trang )

Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU SÂU HẠI NGÔ VÀ
THIÊN ĐỊCH CỦA CHÚNG
Dân số trên thế giới hàng năm tăng thêm gần 100 triệu người
(K.Lampe, 1994) cho nên nhu cầu của lồi người về sản phẩm nơng nghiệp
ngày càng tăng. Việc đảm bảo về nhu cầu lương thực thực phẩm bao giờ cũng
là vấn đề cần thiết và được toàn thế giới quan tâm. Để thỏa mãn các nhu cầu
về lương thực thực phẩm, nông nghiệp thế giới đã phát triển theo chiều hướng
tập trung thâm canh. Nhưng khi thâm canh trồng trọt thì khơng chỉ làm tăng
năng suất cây trồng và còn tăng cả sự thiệt hại do dịch hại gây ra.
Cây ngô (Zea mays L.) là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế
tồn cầu, góp phần ni sống 1/3 dân số trên thế giới. Ngày nay ngô đứng thứ
3 sau lúa mì và lúa nước về diện tích, đứng đầu về năng suất và sản lượng
(FAO, 1995). Ngơ là cây trồng đã giúp lồi người giải quyết nạn đói thường
xuyên bị đe dọa (Nguyễn Hữu Lộc, 1969). Nhiều giống ngơ mới có năng suất
cao, phẩm chât tốt đã được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho phép
nhập nội [8].
Vào cuối thế kỷ XX, cuộc cách mạng về ngô đã tạo nên các thành tựu
kỳ diệu ở các châu lục, đặc biệt là các nước phát triển như Mỹ, Pháp, Ý... Đi
đôi với việc áp dụng ưu thế lai trong quá trình chọn tạo giống, những tiến bộ
về kỹ thuật canh tác tiên tiến như cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, bảo vệ thực vật ...
cũng được áp dụng kịp thời để khai thác tối đa ưu thế của giống ngô. Ngô đã
được coi là một trong những thành tựu có ý nghĩa nhất trong việc phát triển
nông nghiệp thế giới của thế kỷ XX.

1


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp



Cây ngơ có lịch sử trồng trọt ở nước ta từ nhiều thế kỷ và được trồng
trên một địa bàn rộng lớn bao gồm nhiều vùng địa hình phức tạp, từ những
vùng núi cao cho đến trung du, đồng bằng và ven biển. Trải qua quá trình
trồng trọt lâu dài ở các vùng khác nhau, sâu hại đã có những thích ứng nhất
định trên cây ngô và thành phần của chúng ngày càng phong phú.
Từ những nhận thức về vai trò của cây ngơ trong nền kinh tế thế giới
nói chung và nền nơng nghiệp Việt Nam nói riêng, Đảng và Nhà nước ta đã có
những chính sách và phương hướng đúng đắn cho công tác nghiên cứu khoa
học, tiếp thu những thành tựu của thế giới với mục đích duy trì diện tích, đột
phá về năng suất và tăng nhanh sản lượng. Sản lượng ngơ cả nước năm 2008
là 4573,1 nghìn tấn, năm 2009 4431,2 nghìn tấn (Tổng cục thống kê 2009).
Tuy nhiên, năng suất ngô ở nước ta vẫn chưa thật ổn định ở các vùng sinh thái,
năng suất bình quân cịn thấp so với khu vực, giá thành ngơ ở nước ta cao hơn
nhiều so với các nước trên thế giới, nhu cầu ngô cho thức ăn chăn nuôi vẫn
chưa đáp ứng đủ. Một trong những nguyên nhân làm giảm năng suất cây ngơ
đó là xuất hiện các loại sâu bệnh trên cây ngô. Làm ảnh hưởng đến sinh
trưởng, phát triển của cây ngơ từ đó ảnh hưởng đến năng suất của các giống
ngô. Hiện nay, cũng như bao cây trồng khác khi bị dịch hại phá hoại trên cây
ngô, người dân thường sử dụng các biện pháp hóa học là chủ yếu, đã gây ra
nhiều hậu quả không như mong muốn. Một hướng phòng trừ mới mà các nhà
khoa học bảo vệ thực vật thế giới cũng như các nhà bảo vệ thực vật Việt Nam
hướng tới là dùng biện pháp sinh học trong phòng trừ sâu hại. Biện pháp sinh
học ngày càng phát triển mạnh mẽ và được sử dụng như một biện pháp quan
trọng, cốt lõi của phịng trừ dịch hại (IPM). Có nhiều định nghĩa về thuật ngữ

2


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp


“biện pháp sinh học” khác nhau nhưng tóm tắt như sau: Biện pháp sinh học là
việc sử dụng những sinh vật sống hay các sản phẩm hoạt động sống của chúng
nhằm ngăn ngừa hoặc giảm bớt tác hại do các sinh vật gây hại gây ra (IOBC,
1971).
Trên hệ sinh thái đồng ruộng nói chung và sinh quần ruộng ngơ nói
riêng các lồi chân khớp ăn thịt, ký sinh là một trong những lực lượng thiên
nhiên có lợi nhiều trong việc phịng trừ dịch hại. Nó có vai trị kiểm sốt số
lượng sâu hại, tạo ra sự cân bằng hệ sinh thái nông nghiệp. Với vai trị to lớn
đó, hiện nay các nhà khao học đã và đang nghiên cứu về vai trò của các loài
chân khớp ăn thịt, ký sinh trong biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM).
Báo cáo này xin được đề cập đến vấn đề: “Sâu hại ngô và thiên địch của
chúng trên ngô vụ đông xuân năm 2010-2011 ở xã Kim Liên huyện Nam
Đàn tỉnh Nghệ An”

3


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

PHẦN I . TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1 Tổng quan về cây ngô
Ngô, bắp hay bẹ (danh pháp khoa học: Zea mays L. ssp. mays) là một
loại cây lương thực được thuần canh tại khu vực Trung Mỹ và sau đó lan tỏa
ra khắp châu Mỹ. Ngơ lan tỏa ra phần còn lại của thế giới sau khi có tiếp xúc
của người châu Âu với châu Mỹ vào cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16. Ngô là cây
lương thực được gieo trồng nhiều nhất tại châu Mỹ (Chỉ riêng tại Hoa Kỳ thì
sản lượng đã là khoảng 270 triệu tấn mỗi năm). Các giống ngô lai ghép được
các nông dân ưa chuộng hơn so với các giống, thứ ngơ thơng thường do có

năng suất cao vì có ưu thế giống lai. Trong khi một vài giống, thứ ngơ có thể
cao tới 7 m tại một số nơi, thì các giống ngơ thương phẩm đã được tạo ra với
chiều cao chỉ khoảng 2,5 m.
Thân cây ngô trông tương tự như thân cây của các loài tre và các khớp
nối (các mấu hay mắt) có thể có cách nhau khoảng 20–30 cm . Ngơ có hình
thái phát triển rất khác biệt; các lá hình mũi mác rộng bản, dài 50–100 cm và
rộng 5-10 cm; thân cây thẳng, thông thường cao 2–3 m, có nhiều mấu, các lá
tỏa ra từ mỗi mấu và có bẹ nhẵn.
Ngơ là loại thực vật cần thời gian ban đêm dài và ra hoa trong một
lượng nhất định ngày nhiệt độ tăng trưởng > 10 °C trong mơi trường mà nó
thích nghi. Biên độ ảnh hưởng mà thời gian ban đêm cần có để ngô ra hoa
được quy định theo di truyền và được điều chỉnh bởi hệ thống sắc tố thực vật.
Tính chu kỳ theo ánh sáng có thể bị sai lệch ở các giống cây trồng cho khu
vực nhiệt đới, nơi mà thời gian ban ngày kéo dài ở các cao độ lớn làm cho cây

4


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

sẽ phát triển rất cao và chúng không đủ thời gian để ra hoa, tạo hạt trước khi bị
chết vì sương giá. Tuy nhiên, đặc tính này là hữu ích khi sử dụng ngô làm
nguồn cung cấp nhiên liệu sinh học.
1.1.2. Cấu trúc và tính ổn định của quần xã sinh vật
Tính ổn định và năng suất quần thể của một loài được xác định do rất
nhiều yêu tố, một phần các yếu tố đó là cấu trúc quần xã sinh vật [11].
Cấu trúc của quần xã sinh vật gồm 3 yếu tố:
(a). Mạng lưới dinh dưỡng trong quần xã (thể hiện qua quan hệ dinh
dưỡng trong quần xã).
(b). Sự phân bố không gian của sinh vật.

(c). Sự đa dạng của quần xã.
Cũng như các hệ sinh thái khác, trong hệ sinh thái đồng ruộng cũng
mang đầy đủ các đặc trưng của một hệ sinh thái, đặc biệt là trong đó tồn tại
mối quan hệ về mặt dinh dưỡng và đó là mối quan hệ tất yếu trong mỗi quần
xã sinh vật cũng như hệ sinh thái: một loài sinh vật này thường là thức ăn, là
điều kiện tồn tại cho một hay nhiều loài sinh vậy khác. Quan hệ phổ biến giữa
các loài sinh vật là quan hệ phụ thuộc lẫn nhau vơ cùng phức tạp nhưng có
quy luật, đặc biệt là quan hệ dinh dưỡng (thể hiện rõ qua chuỗi thức ăn và lưới
thức ăn).
1.1.3. Quan hệ dinh dưỡng
Trong tự nhiên các sinh vật sống không cách ly mà tạo thành những
sinh quần (hay quần lạc sinh vật = biocenose) gồm hàng nghìn hàng vạn thành
viên, mỗi thành viên chiếm một vị trí nhất định. Sinh quần là một tập hợp tự
nhiên gồm tất cả các sinh vật (động vật và thực vật) có khả năng tồn tại được

5


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

trong cùng một điều kiện, gắn bó chặt chẽ với nhau qua các mối quan hệ
(trước hết là mối quan hệ dinh dưỡng) được hình thành trong q trình lịch sử
tiến hóa và đặc trưng cho mỗi sinh cảnh nhất định. Các sinh vật trong sinh
quần hay trong hệ sinh thái không phải là một tập hợp ngẫu nhiên là một tập
hợp những sinh vật có quan hệ hỗ trợ nhau. Các quan hệ được hình thành
trong q trình tiên hóa. Các quan hệ tương hỗ giữa các sinh vật trong sinh
quần rất phức tạp, đa dạng được hình thành từ những quan hệ trong loài (vật
ăn thịt) săn bắt loài khác để làm thức ăn và thường dẫn tới cái chết của con
mồi trong một thời gian rất ngắn. Loài ăn thịt (hay lồi BMAT) thường có kích
thước lớn hơn con mồi (trừ một số loại bọ rùa rất nhỏ bé). Loài BMAT phải tự

tìm kiếm con mồi để làm thức ăn. Để hoàn thành sự phát triển, BMAT thường
phải tiêu diệt rất nhiều con mồi (trường hợp con mồi nhỏ ăn con rệp lớn) [6].
Tóm lại mối quan hệ dinh dưỡng đã tạo nên mối quan hệ đối kháng và
hỗ trợ trong giới sinh vật. Chúng nhờ những mối quan hệ này mà giữa các
thành viên trong sinh quần đã tạo nên được các tương quan số lượng tương đối
điển hình phù hợp với nhu cầu của từng lồi. Sự hình thành các phức hợp tự
nhiên như vậy mà biểu hiện mỗi quan hệ cân bằng sinh học, đó chính là kết
quả của quá trình chọn lọc tự nhiên. Sự liên quan mật thiết giữa các lồi sinh
vật nói chung, đặc biệt là giũa các loài sâu hại với các loài cây trong q trình
phát triển trong quần xã có ý nghĩa to lớn khơng chỉ trong lý luận mà cịn có ý
nghĩa trong thực tiễn. Việc nghiên cứu, xem xét và thiết lập mỗi quan hệ tương
hỗ góp phần quan trọng trong các biện pháp phịng trừ dịch hại nơng nghiệp
theo xu hướng bảo vệ sự đa dạng cân bằng trong hệ sinh thái nông nghiệp.
1.1.4. Biến động số lượng côn trùng

6


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

Từng cá thể của quần thể và toàn bộ quần thể của loài nào đó sống trong
một sinh quần đều chịu những tác động phong phú của điều kiện mơi trường.
Do đó, tác động tổng hợp của các yếu tố môi trường lên đời sống của sinh vật
làm cho loài này phát triển, lồi kia bị giảm, hay nói cách khác, dưới tác động
của các yếu tố môi trường đã làm cho số lượng côn trùng biến động.
Trên cơ sở xem xét hàng loạt các dấu hiệu về sự biến đối số lượng và
các dạng cơ chế điều hòa số lượng, Vitorov (1967) đã tổng hợp khái quát
thành sơ đồ chung của sự biến động số lượng cá thể. Một trong những đặc
trưng của quần thể là mật độ cá thể trong quần thể được xác định bởi tương
quan của quá trình bổ sung thêm và quá trình tiêu giảm số lượng các cá thể

của quần thể. Tất cả các yếu tố môi trường đều tác động lên quá trình này
bằng cách làm thay đổi sức sinh sản, tỉ lệ chết, sự du nhập hay phát tán đi.
Những yêu tố môi trường tác động lên quần thể khơng giống nhau: Có u tố
tác động thuận nghịch có yếu tố tác động khơng thuận nghịch [9].
Ở đây một vấn đề được đặt ra là các yếu tố khác nhau có vai trị như thế
nào đối với sự phát triển số lượng của quần thể và yếu tố nào là yếu tố chủ đạo
trong điều hòa số lượng của quần thể. Để dễ dàng hiểu được vai trị của các
yếu tố mơi trường, các nhà nghiên cứu đã chia các yếu tố môi trường thành hai
nhóm: Yếu tố phụ thuộc vào mật độ và yêu tố không phụ thuộc vào mật độ.
Các yếu tố phụ thuộc vào mật độ bao gồm các yêu tố môi trường như
điều kiện thời tiết, khí hậu, điều kiện đất đai... Ảnh hưởng của chúng là gây
nên những biến đổi về chất lượng và số lượng các cá thể trong quần thể. Tác
động của chúng gây ảnh hưởng tới mật độ quần thể nhưng khơng có tác dụng
điều hịa số lượng quần thể của các sinh vật. Ảnh hưởng của chúng có thể là

7


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

trực tiếp hoặc gián tiếp. Những ảnh hưởng trực tiếp là: Quyết định vùng phân
bố của lồi, điều hịa nhịp điệu sinh trưởng, phát triển, sinh sản làm thay đổi
mức độ tử vong, tuổi thọ của các cá thể trong quần thể. Từ đó ảnh hưởng tới
mức độ duy trì số lượng cá thể từ thế hệ này sang thế hệ khác của quần thể.
Các ảnh hưởng gián tiếp là: thay đổi trạng thái nguồn thức ăn và nơi ở của
quần thể ảnh hưởng tới sinh trưởng và phát triển của thiên địch.
Các yếu tố phụ thuộc mật độ bao gồm: hiện tượng cạnh tranh ký sinh,
BMAT...các yếu tố này tồn tại và tác động phụ thuộc vào mật độ quần thể của
các lồi trong sinh quần. Khác với các u tố vơ sinh, yếu tố phụ thuộc vào
mật độ có tác động điều hịa số lượng quần thể của lồi. Sự điều hồ thơng qua

các mối quan hệ tác động qua lại đó đã phản ảnh hưởng của mật độ quần thể
lên mức sinh sản, tỉ lệ tử vong và di cư, trong đó tồn tại mối quan hệ trong lồi
và bằng sự thay đổi tích cực của thiên địch và đặc điểm của thức ăn. Sự tồn tại
các mối quan này đảm bảo những thay đổi đền bù cho sự phổ thông và giảm
sút số lượng cá thể của quần thể. Chính sự tác động thuận nghịch đó đã san
bằng những sai lệch ngẫu nhiên trong mật độ quần thể [7].
Các sinh vật cơn trùng cũng chuyển hóa có khả năng thực hiện sự điều
hịa số lượng cơn trùng ở các mật độ thấp được xác định trong thực tiễn của
phương pháp đấu tranh chống côn trùng gây hại. Khác với sinh vật ăn côn
trùng đa thực, các côn trùng ký sinh và ăn thịt chuyên hóa có thể hoạt động
trong phạm vi rộng hơn của mật độ quần thể vật chủ quần thể ( vật mồi) nhờ
hả năng tăng số lượng với sự tăng mật độ của sâu hại. Điều này được ghi nhận
trong thực tế ở những trường hợp khả năng khống chế sự bùng phát sinh sản
hàng lọt của côn trùng ăn thực vật bởi sinh vật ăn cơn trùng chuyển hóa. Vai

8


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

trò quan trọng của ký sinh, ăn thịt được coi là các yếu tố điều hịa số lượng
cơn trùng, nó được thể hiện ở hai phản ứng đặc trưng là phản ứng số lượng và
phản ứng chức năng [3].
- Phản ứng số lượng: Thể hiện khi gia tăng số lượng quần thể vật mồi và
vật chủ kéo theo khả năng tăng số lượng vật ăn thịt và vật ký sinh.
- Phản ứng chức năng: Biểu hiện ở chổ khi quần thể vâth mồi ( vật chủ )
mật độ gia tăng thì thì số lượng cá thể của chúng bị diệt bởi vật ăn thịt ( vật ký
sinh ) cũng tăng lên.
Hiện nay có hàng loạt dẫn liệu thực tế xác nhận khả năng điều hồ của các cơ
chế điều hịa ở các mức độ khác nhau của số lượng quần thể. Cơ chế đó được

thực hiện liên tục kế tiếp nhau tham gia tác động. Khi mật độ quần thể được
điều hòa vượt ra khỏi giới hạn hoạt động của yếu tố điều hịa trước đó.
Phịng trừ tổng hợp sâu hại cây trồng (IMP) dựa trên mối quan hệ giữa
cây trồng – sâu hại – thiên địch của sâu hại tròn hệ sinh thái nông nghiệp, các
nguyên tắc sinh thái và đa dạng sinh học của hệ sinh thái nơng nghiệp.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU SÂU HẠI NGƠ VÀ THIÊN ĐỊCH CỦA
CHÚNG
Cây ngơ có lịch sử trồng ở nước ta từ nhiều thế kỷ nay và được trồng
trọt trên một địa bàn rộng lớn bao gồm nhiều vùng địa hình phức tạp, từ vùng
núi cao cho đến trung du, đồng bằng và ven biển. Trải qua quá trình trồng trọt
lâu dài ở những vùng khác nhau, sâu hại đã có những thích ứng nhất định trên
cây ngô và thành phần của chúng ngày càng phong phú hơn.
Việc điều tra thành phần sâu hại ở miền Bắc nước ta đã được tiến hành
trong khoảng 15 năm gần đây. Đặc biệt là điều tra rộng trên tồn miền bắc trịn

9


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

hai năm 1967-1968 do ban điều tra cơ bản côn trùng bộ Nông nghiệp tổ chức,
đã thu được những tài liệu quan trọng về thành phần, phân bố và mức độ tác
hại của các loại côn trùng phá hại trên cây ngô.
Theo những kết quả điều tra trước đây, kết hợp với những tài liệu điều
tra bổ sung trong những năm gần đây thì đến nay có khoảng hơn 100 cơn
trùng phá hoại trên cây ngô.
Hiện nay, việc nghiên cứu sâu hại ngô và thiên địch của chúng trên cây
ngô đã được nhiều nhà khoa học quan tâm. Các cơng trình nghiên cứu Viện
bảo vệ thực vật, 1976; Nguyễn Quốc Hùng và CTV, 1978; Nguyễn Thị Dung
nghiên cứu sử dụng ong mặt đỏ phịng trừ sâu đục thân ngơ tại Hà Nội,

Quảng Nam trong năm 1999 – 2000; Đặng Thị dung với đề tài Một số dẫn liệu
về sâu đục thân ngô Ostrinia furnucalis (Gueneen), Lepidoptera pyranidae
trong vụ xuân 2003 tại Gia Lâm thành phố Hà Nội.
Có thể nói, nghiên cứu sâu hại ngô và thiên địch của chúng là một vấn
đề cần quan tâm hơn nữa, nhằm sử dụng các loài thiên địch hạn chế só lượng
sâu hại, từng bước nâng cao sản lượng ngô và hạn chế tới mức tối đa những
tác hại của sâu hại.

PHẦN II: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
(1) Thành phần sâu hại trên hai giống ngô nếp trắng và ngô tẻ đỏ ở xã
Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.

10


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

(2) Thành phần lồi thiên địch ăn thịt, ký sinh sâu hại ngơ
(3) Sự biến động số lượng và mối quan hệ giữa một số lồi sâu hại ngơ
và chân khớp ăn thịt, ký sinh của chúng.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp điều tra nghiên cứu sâu hại và thiên địch tuân thủ theo các
phương pháp thường quy về nghiên cứu côn trùng và bảo vệ thực vật (tổ côn
trùng – UBKHKT Nhà nước, 1967; Viện BVTV, 1997; Tiêu chuẩn BVTV Việt
Nam, 2001).
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng quát.
- Phương pháp thống kê toán học.
- Phương pháp thu thập và xứ lí tài liệu.
- Phương pháp sử dụng phiếu điều tra.

- Phương pháp điều tra thực trạng.
2.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Sâu hại ngơ: Nhóm sâu ăn lá, sâu đục bắp, sâu đục thân.
- Các loại chân khớp ăn thịt, ký sinh trên sâu hại ngô.
- Cây ngô tẻ đỏ, ngô nếp trắng
- Các nghiên cứu được tiến hành trên quần xã ruộng ngô ở xã Kim Liên
huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.

PHẦN III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. ĐA DẠNG LỒI SÂU HẠI NGƠ TRÊN NGƠ VỤ ĐƠNG XUÂN
NĂM 2010-2011 Ở XÃ KIM LIÊN HUYỆN NAM TỈNH NGHỆ AN
3.1.1. Thành phần sâu hại ngô

11


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

Trên sinh quần ruộng ngô ở xã Kim Liên bước đầu đã xác định được 26
loài chân khớp thuộc 16 họ của 7 bộ, trong đó 11 lồi gây hại và 15 lồi có lợi,
trong đó bộ Lepidoprera có số lồi nhiều nhất (7 lồi) và bộ Coleoptera
(6 lồi), bộ Hymenoptera có 4 lồi, bộ Araneida có 5 lồi, bộ Homoptera có 1
lồi, Orthoptera có 1 lồi, Hemiptera có 2 lồi (Bảng 1).
Bảng 1. Số lượng bộ, họ loài sâu hại và chân khớp ăn thịt, ký sinh của
chúng trên sinh quần ruộng ngô đông xuân 2010-201 ở xã Kim Liên huyện Nam
Đàn tỉnh Nghệ An.

TT
1
2

3
4
5
6
7

Tên bộ

Số họ

Số lồi

3
3
2
4
1
1
2
16

7
6
4
5
1
1
2
26


Lepidoprera
Coleoptera
Hymenoptera
Araneida
Homoptera
Orthoptera
Hemiptera
Tổng số

Lồi

Lồi

có hại
7
0
0
0
1
1
2
11

có lợi
0
6
4
5
0
0

0
15

Qua điều tra nghiên cứu trên sinh quần ruộng ngô trong vụ ngô đông
xuân năm 2010- 2011ở xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An thu được
13 loài sâu hại thuộc 7 họ của 4 bộ.
Trong đó bộ cánh phấn Lepidoprera có 7 lồi (chiếm 53,8 %), cịn lại là
các lồi thuộc các bộ khác nhau (chiếm 46,2 %) (Bảng 2).
Giai đoạn 1 (15 NSG):Xuất hiện 7 loài sâu hại và phổ biến nhất là loài
sâu cuốn lá (Lamprosema indicata Fabr) và sâu xám (Agrotis ypcilon Rott).

12


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

Giai đoạn 2 (15-45 NSG): Xuất hiện 11 lồi sâu hại, trong đó lồi sâu
cắn lá ngơ (Leucania loreyi Dup) và sâu khoang (Spodoptera litura Fabr) là
hai loại sâu phổ biến và gây hại chính cho ngơ. Ngồi ra cịn có châu chấu
(Oxya chinensis Thunberg) cũng gây hại đáng kể.
Giai đoạn 3 (45-80 NSG): Xuất hiện 8 loài sâu gây hại và phổ biến nhất
là sâu đục thân ngô (Ostrinia nubinalis Hubner).
Bảng 2. Thành phần sâu hại ngô vụ đông xuân năm 2010-2011 ở xã Kim
Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An

Mức độ phổ biến
TT

1
2

4
5
6
7

8

9

Tên khoa học
I. Bộ Lepidoprera
1. Họ Pyralidae
Lamprosema indicata Fabr.
Ostrinia nubinalis Hubner.
2. Họ Noctuidae
Spodoptera litura Fabr.
Agrotis ypcilon Rott.
Leucania loreyi Dup.
3. Họ Lymantridae
Euprotin xanthorlera Koll.
II. Bộ Homoptera
4. Họ Aphidae
Aphis maylis Fitch.
III. Bộ Orthoptera
5. Họ Acrididae
Oxya chinensis Thunberg.
IV. Bộ Hemiptera

Tên Việt Nam
Bộ cánh phấn

Họ ngài sáng
Sâu cuốn lá
Sâu đục thân
Họ ngài đêm
Sâu khoang
Sâu xám
Sâu cắn lá ngơ
Ngài sâu róm
Sâu róm
Bộ cánh đều
Họ rệp muội
Rệp hại ngô
Bộ cánh thẳng
Họ châu chấu
Châu chấu
Bộ cánh nửa

13

Giai
đoạn
1

Giai
đoạn
2

+++

++

++

Giai
đoạn 3

+++

+
++
+

++
+
+++

+

+

+

+

++

+

++

+


++

+


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

6. Họ Pentatomidae
10 Nezava viridula Linnaeus.
7. Họ Coreidae
11 Leptocorisa acuta Thunb.
Tổng số loài

Họ bọ xít
Bọ xít xanh
Họ bọ xít mép
Bọ xít dài
7

+

+

+
11

+
8


Ghi chú:
Giai đoạn sinh trưởng:

Tỷ lệ bắt gặp (%)

Giai đoạn 1: (1-15 NSG)

(+ + +) : Rất phổ biến

Giai đoạn 2: (15-45 NSG)

( + +)

: Thường gặp

Giai đoạn 3: (45-80 NSG)

(+)

: Ít gặp

Qua quá trình nghiên cứu, điều tra trên sinh quần ruộng ngô ở xã Kim
Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An đã thu được 11 lồi cơn trùng gây hại cho
ngơ, nhưng trong đó có 3 lồi sâu gây hại chính và nghiêm trọng nhất là sâu
xám (Agrotis Ypcilon Rott), sâu đục thân ngô (Ostrinia nubilalis Hubner), sâu
cắn lá ngô (Leucania loreyi Dup) và rệp ngô (Aphiis maydis Fitch).
3.1.2. Diễn biến sâu hại ngô trên ngô vụ đông xuân
Theo kết quả điều tra, nghiên cứu trên sinh quần ruộng ngô vụ đông
xuân năm 2010-2011 ở hai loại ngô khác nhau thì sự biến động số lượng sâu
hại ngơ đều đạt hai đỉnh cao trong vụ đông xuân.

- Trên ruộng ngô tẻ đỉnh cao thứ nhất là 7,80 con/m 2 (vào 15 NSG),
đỉnh cao thứ hai là 10,6 con/m2 (vào 45 NSG).
- Trên ruộng ngô nếp đỉnh cao thứ nhất là 5.8 con/m 2 (vào 15 NSG),
đỉnh cao thứ hai là 7,4 con/m2 (vào 45 NSG).

14


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

3.2. ĐA DẠNG LOÀI CHÂN KHỚP ĂN THỊT VÀ KÝ SINH TRÊN SÂU
HẠI NGÔ VỤ ĐÔNG XUÂN NĂM 2010-2011 Ở XÃ KIM LIÊN HUYỆN
NAM TỈNH NGHỆ AN
3.2.1. Thành phần loài chân khớp ăn thịt trên sâu hại ngô
Chân khớp ăn thịt là một trong những yếu tố sinh thái có vai trị quan
trọng trong việc hạn chế số lượng các loại sâu hại trên hệ sinh thái nơng
nghiệp nói chung và sinh quần ruộng ngơ nói riêng.
Kết quả nghiên cứu sinh quần ruộng ngơ cho thấy có 11 lồi chân khớp
ăn thịt thuộc 8 họ của 2 bộ. Trong đó, bộ Coleoptera có số lồi nhiều nhất (6
lồi), các bộ cịn lại có số lượng lồi ít hơn (Bảng 3).
Bảng 3. Thành phần lồi chân khớp ăn thịt sâu hại ngơ ở xã Kim Liên
huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.

TT
1
2
3
4
5
6

7
8

Tên loài
I. Bộ nhện lớn - Araneida
1. Họ Araneidae - Nhện giănng lưới
Araneius inistus Koch.
2. Họ Lycosidae
Pardosa pseudoannulata (Boes, et Str.)
3. Họ Oxyopidae -Nhện chân gai
Oxyopes javanus Thorell.
4. Họ Tetragnathidae
Tetragnatha virescens Okuma.
Tetragnatha nitens Adudouin.
II. Bộ Coleoptera - Bộ cánh cứng
6. Họ Carabidae – Họ bọ chân nhảy
Ophionea ishiii Habu.
7. Họ cánh cứng ngắn- Staphylinidae
Paederus fuscipes Custis.
Paederus tamulus Erich.
8. Họ Coccinellidae- Họ bọ rùa

15

Mức độ phổ biến
++
++

+
+

+
+
+


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

9
Coccinellida transversalis Farb.
10 Micrasphis discolor Farb.
11 Propylea japonica Thunb.
Ghi chú:

++
++
+

Tỷ lệ bắt gặp (%)
(+ + +) : Rất phổ biến
( + +)
(+)

: Thường gặp
: Ít gặp

3.2.2. Thành phần lồi chân khớp ký sinh trên sâu hại ngô
Cũng như chân khớp ăn thịt, côn trùng ký sinh đóng vai trị hết sức
quan trọng trong việc hạn chế số lượng các loài sâu hại.
Kết quả điều tra thành phần lồi cơn trùng ký sinh sâu hại ngơ bộ cánh
phấn đã thu được 4 lồi thuộc 2 họ của 2 bộ (Bảng 4)

- Xanthopimpla stemator Thunb. Ký sinh trêm cả sâu cuốn lá và sâu đục
thân.
- Charops bicolor Szepl. ký sinh trên sâu cắn lá.
- Microphitis sp. ký sinh trên sâu cuốn lá và sâu cắn lá.
- Apanteles sp. ký sinh trên sâu xám
Bảng 4. Thành phần lồi chân khớp ký sinh trên sâu hại ngơ vụ đông xuân
năm 2010-2011ở xã kim liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An

Pha vật
TT

Loài ký sinh

Vật chủ

chủ bị ký
sinh

Kiểu ký
sinh

Bộ cánh màng Hymenoptera
1. Họ ong cự- Inhneumonidae
1

Xanthopimpla stemator Thunb.

Sâu cuốn lá
Sâu đục thân


16

Sâu non

Ký sinh
đơn


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

2

Charops bicolor Szepl.

sâu cắn lá

Sâu non

Ký sinh
đơn

2. Họ ong Braconidae
3
4

Microphitis sp.
Apanteles sp.

Sâu cắn lá
Sâu cuốn lá

sâu xám

Sâu non
Sâu non

Ký sinh
đơn
Ký sinh
đơn

3.2.3. Diễn biến số lượng chân khớp ăn thịt, ký sinh trên sâu hại ngô vụ
đông xuân năm 2010-2011 ở xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An
Trong hệ sinh thái đồng ruộng nói chung, sinh quần ruộng ngơ nói riêng
sâu hại và chân khớp ăn thịt, ký sinh có quan hệ qua lại với nhau ràng buộc
nhau tạo ra mối quan hệ cân bằng động, cân bằng sinh học.
Qua điều tra nghiên cứu trên sinh quần ruộng ngô ở xã Kim Liên huyện
Nam Đàn tỉnh Nghệ An cho thấy trong một số vụ số lượng sâu hại trên cả hai
ruộng ngô đều đạt hai đỉnh cao, tương ứng với hai đỉnh cao của sâu hại thì sự
biến động số lượng của các lồi chân khớp ăn thịt, ký sinh cũng có sự biến
động tương đương.
Trên ruộng ngô tẻ, đỉnh cao thứ nhất là sâu hại 7,80 con/m 2 (vào 15
NSG), tương ứng với đỉnh cao của NLAT là 4,6 con/m 2 (vào 20 NSG), CCAT
là 1,4 con/m2 (vào 25 NSG) và tỉ lệ côn trùng ký sinh là 20,2 % ( vào 20
NSG). Đỉnh cao thứ hai của sâu hại là 10,6 con/m 2 (vào 45 NSG), tương ứng
với đỉnh cao của sâu hại thì đỉnh cao của NLAT là 3,80 con/m 2 (vào 50 NSG),
CCAT là 2,0 con/m2 (vào 55 NSG) và tỉ lệ ký sinh của côn trùng ký sinh là
21,1% (vào 50 NSG).

17



Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

Trên ruộng ngô nếp, đỉnh cao thứ nhất của sâu hại là 5,80 con/m 2 (vào
15 NSG), tương ứng với đỉnh cao của sâu hại NLAT đạt đỉnh cao thứ nhất là
5,2 con/m2 (vào 25 NSG), CCAT là 1,6 con/m 2 (vào 25 NSG), và tỉ lệ ký sinh
của côn trùng ký sinh là 17,3% (vào 20 NSG). Đỉnh cao thứ hai của sâu hại là
7,40 con/m2 (vào 45 NSG), tương ứng với đỉnh cao đó thì NLAT đạt 4,4
con/m2 (vào 50 NSG), CCAT đạt 5,2 con/m2 (vào 55 NSG) và tỉ lệ ký sinh của
côn trùng ký sinh là 19,6 % (vào 50 NSG).
Qua đó cho thấy, mật độ của chân khớp ăn thịt và côn trùng ký sinh
luôn chậm pha hơn sâu hại từ 5-10 ngày.
3.2.3.1. Diễn biến số lượng chân khớp ăn thịt, ký sinh của sâu xám
Sâu xám (Agrotis ypycilon Rott) là một loại sâu nguy hiểm đối với ngô
và các loại cây trồng khác trong vụ đông xuân ở miền Bắc nước ta. Qua kết
quả điều tra thu thập sâu non sâu xám (Agrotis ypycilon Rott) trên hai ruộng
ngô tẻ và ruộng ngô nếp vụ đông xuân năm 2011 cho thấy sâu xám bị loại côn
trùng Apanteles sp. ký sinh.
Trong q trình phát triển, cây ngơ bị nhiều loài sâu phá hại, ngay từ
đầu vụ đã bị sâu xám phá hại rất nghiêm trọng.
Kết quả điều tra cho thấy sâu xám (Agrotis ypycilon Rott) ở cả hai
ruộng ngô tẻ và ngô nếp luôn biến động và đạt một đỉnh cao trong một vụ
tương ứng côn trùng ký sinh của chúng cũng đạt một đỉnh cao trong một vụ.
Đỉnh cao của thiên địch luôn chậm pha hơn so với đỉnh cao của sâu hạit từ 510 ngày (Bảng 4)

18


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp


- Trên ruộng ngô tẻ, đỉnh cao của sâu xám đạt 0,6 con/m 2 (vào 15 NSG)
và tương ứng với đỉnh cao đó thì tỉ lệ ký sinh của chúng là 17,5% (vào 20
NSG).
- Trên ruộng ngô nếp, đỉnh cao của sâu xám đạt 0,6 con/m2 (vào 15
NSG) và tương ứng với đỉnh cao đó thì tỉ lệ ký sinh của chúng là 15,3% (vào
20 NSG).

Bảng 4. Mật độ quần thể sâu xám hại ngô và chân khớp ăn thịt, ký sinh của chúng
trên sinh quần ruộng ngô vụ đông xuân ở xã Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.

Ruộng ngơ tẻ
Sâu

vụ
Trung
bình
Đỉnh
cao

TLKS

Sâu

(%)

xám

P.pseu

CCAT


0,0

0,2

0,0

0,0

0,09

0,51

1,56

0,6

1,4

5,4

xám
Đầu

Ruộng ngơ nếp
TLKS

P.pseu

CCAT


0,0

0,2

0,0

0,0

3,088

0,09

0,475

2,15

2,76

17,5

0,6

1,2

5,6

15,3

(%)


3.2.3.2. Diễn biến số lượng chân khớp ăn thịt ký sinh trên của sâu đục
thân
Sâu đục thân (Ostrinia nubinalis Hubner) là loại sâu gây hại ngô. Hàng
năm gây thiệt hại rất nghiêm trọng đối với cây ngô trồng vụ hè và vụ thu cịn
trên vụ đơng xn sâu it hại hơn.

19


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

Kết quả điều tra cho thấy, trên hai ruộng ngô tẻ và ruộng ngơ nếp thì
cơn trùng ký sinh sâu đục thân (Ostrinia nubinalis Hubner) là loài
Xanthopimpha stemmator Thunb.
Cùng với sâu xám (Agrotis ypycilon Rott), sâu đục thân (Ostrinia
nubinalis Hubner) cũng là loại gây hại chính cho cây ngơ. Sâu đục thân
thường xuất hiện khi cây ngơ bắt đầu có lóng.
Qua điều tra biến động số lượng của sâu đục thân trong vụ đông xuân
cho thấy, ở cả hai ruộng ngô nếp và ngô tẻ mật độ sâu đục thân luôn biến động
và cũng đạt hai đỉnh cao trong một vụ, tương ứng với nhện lớn ăn thịt
Pardosa pseudoannulata và côn trùng ký sinh của chúng cũng đạt hai đỉnh cao
trong một vụ, đỉnh cao của thiên địch luôn chậm pha hơn đỉnh cao của sâu hại
từ 5-10 ngày (bảng 5).
- Trên ruộng ngô tẻ, đỉnh cao thứ nhất của sâu đục thân đạt 2,8 con/m 2
(vào 45 NSG), đỉnh cao thứ nhất của Pardosa pseudoannulata là 1,2 con/m2
(vào 25 NSG), và tương ứng với đỉnh cao đó thì tỉ lệ của cơn trùng ký sinh là
12,8% (vào 50 NSG). Đỉnh cao thứ hai của sâu đục thân đạt 3,0 con/m 2 (vào
75 NSG), đỉnh cao thứ hai của Pardosa pseudoannulata là 1,4 con/m2 (vào 55
NSG), và tương ứng với đỉnh cao đó thì tỉ lệ của cơn trùng ký sinh là 16.7%

(vào 80 NSG).
- Trên ruộng ngô nếp, đỉnh cao thứ nhất của sâu đục thân đạ 3,8 con/m 2
(vào 35 NSG), tương ứng với đỉnh cao của nhện Pardosa pseudoannulata là
1,0 con/m2 (vào 25 NSG), và tương ứng với đỉnh cao đó thì tỉ lệ của cơn trùng
ký sinh là 10,2% (vào 50 NSG). Đỉnh cao thứ hai của sâu đục thân đạt 18,0
con/m2 (vào 75 NSG), tương ứng đỉnh cao thứ hai của nhện Pardosa

20


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

pseudoannulata là 1,2 con/m2 (vào 55 NSG), và tương ứng với đỉnh cao đó thì
tỉ lệ của cơn trùng ký sinh 14,5% (vào 80 NSG).
Qua đó ta thấy đỉnh cao của sâu đục thân luôn chậm pha hơn so với
đỉnh cao của nhện Pardosa pseudoannulata cho nên quan hệ của Pardosa
pseudoannulata và sâu đục thân là không chặt. Tỉ lệ của côn trùng ký sinh trên
sâu đục thân cũng không cao điều nàu thì do nhiều ngun nhân nhưng có thể
lí giải là do đặc điểm của sâu non đục thân thường sống trong thân cây ngơ
cho nên cơn trùng rất khó tiếp xúc để ký sinh được.
Bảng 5. Mật độ quần thể sâu đục thân và chân khớp ăn thịt, ký sinh của chúng

Ruộng ngơ tẻ
Sâu
Đầu
vụ
Trung
bình
Đỉnh
cao


TLKS

Sâu

(%)

xám

0,0

0,0

0,51

1,65

1,4

5,4

P.pseu

CCAT

0,0

0,2

1,075

3,0

xám

Ruộng ngơ nếp
TLKS

P.pseu

CCAT

0,0

0,2

0,0

0,0

5,42

3,64

0,475

2,15

4,97

16,7


18,8

1,2

5,6

14,5

(%)

3.2.3.3. Diễn biến số lượng chân khớp ăn thịt, ký sinh trên sâu cắn lá hại
ngô
Kết quả nghiên cứu, thu thập sâu non cắn lá (Leucania loreyi Dup) ở hai
ruộng ngô vụ đông xuân năm 2011 cho thấy sâu non cắn lá bị loài chaorops
bicolor Szepl và loài microplitis sp. ký sinh.

21


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

Cây ngô ở mỗi giai đoạn phát triển của nó lại có các loài sâu phá hại.
Cùng với các loài sâu như sâu xám, sâu đục thân thì sâu cắn lá (Leucania
loreyi Dup) cũng là loài sâu gây tác hại quan trọng đối với cây ngô.
Kết quả điều tra nghiên cứu cho thấy sâu cắn lá xuất hiện từ 10 ngày
sau gieo ở cả hai ruông luôn luôn biến động và đạt đỉnh cao trong một vụ,
tương ứng thì nhện Pardosa pseudoannulata và côn trùng ký sinh của chúng
cũng biến động và đạt hai đỉnh cao trong một vụ, đỉnh cao của thiên địch luôn
chậm pha hơn sâu hại từ 5-10 ngày (bảng 6).

- Trên ruộng ngô tẻ, sâu cắn lá (Leucania loreyi Dup) xuất hiện từ 10
NSG và đạt đỉnh cao là 0,6 con/m2 (vào 15 NSG), tương ứng với đỉnh cao của
nhện Pardosa pseudoannulata là 1,2 con/m2 (vào 25 NSG), và tương ứng với
đỉnh cao đó thì tỉ lệ của cơn trùng ký sinh là 18,95% (vào 20 NSG). Đỉnh cao
thứ hai của sâu cắn lá đạt 1,0 con/m2 (vào 45 NSG), tương ứng đỉnh cao thứ
hai của nhện Pardosa pseudoannulata là 1,4con/m2 (vào 55 NSG), và tương
ứng với đỉnh cao đó thì tỉ lệ của cơn trùng ký sinh 20,71% (vào 80 NSG).
- Trên ruộng ngô nếp, sâu cắn lá (Leucania loreyi Dup) cũng xuất hiện
từ 10 NSG và đạt đỉnh cao là 1,6 con/m2 (vào 15 NSG), tương ứng với đỉnh
cao của nhện Pardosa pseudoannulata là 1,0 con/m2 (vào 25 NSG), và tương
ứng với đỉnh cao đó thì tỉ lệ của côn trùng ký sinh là 17,5% (vào 20 NSG).
Đỉnh cao thứ hai của sâu cắn lá đạt 1,4 con/m 2 (vào 45 NSG), tương ứng đỉnh
cao thứ hai của nhện Pardosa pseudoannulata là 1,2con/m2 (vào 55 NSG), và
tương ứng với đỉnh cao đó thì tỉ lệ của cơn trùng ký sinh 19,9% (vào 80 NSG).
Bảng 6. Mật độ quần thể sâu cắn lá và chân khớp ăn thịt, ký sinh của chúng

Ruộng ngô tẻ

Ruộng ngô nếp

22


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

Đầu
vụ
Trung
bình


Sâu

P.pse

xám

u

0,0

0,2

0,29

0,51

TLK

TLKS

Sâu

(%)

xám

0,0

0,0


0,0

0,2

0,0

0,0

1,65

8,38

0,5

0,475

2,15

8,31

CCAT

P.pseu

CCAT

S
(%)

Đỉnh


1,0
1,4
5,40
20,7
1,4
1,2
5,6
19,8
cao
3.3. TÁC HẠI DO SÂU HẠI NGƠ GÂY RA VÀ BIỆN PHÁP PHỊNG
TRỪ
3.3.1. Tác hại do sâu xám gây ra
3.3.1.1 Đặc điểm của sâu xám
- Sâu xám (Agrotis ypycilon Rott) có màu xám đất hoặc màu đen bóng
(Hình 1). Có khả năng chui xuống đất sâu khoảng 2-5 phân để làm nhộng.
Nhộng màu cánh gián, cuối bụng có một đơi gai ngắn
- Bướm màu nâu tối. Chúng hoạt động về ban đêm. Con cái đẻ trứng
rải rác hoặc thành từng cụm 2-3 qủa trên những lá nằm gần với mặt đất hay
trong các kẽ nẻ của đất.
- Trứng hình bán cầu, lúc mới đẻ có màu sữa, sau đó chuyển dần sang
màu hồng, khi sắp nở có màu tím thẫm.
3.3.1.2. Khả năng gây hại
- Sâu thường phá hại nghiêm trọng các cây rau màu, nhất là giai đoạn
cây con, nhiều khi thành dịch rất nặng, làm mất cây trên ruộng, phải trồng

23


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp


dặm nhiều đợt, khiến cho ruộng ngô phát triển không đồng đều, gây giảm
năng suất.
- Sau khi nở, sâu non tuổi 1 sống trên cây gặm lá ngô non làm cho lá
ngô bị thủng, hoặc bị khuyết mép lá. Từ tuổi 2 trở đi, ban ngày, sâu sống ở
dưới đất, gần xung quanh gốc cây ngô, ban đêm chui lên cắn hại cây bằng
cách gặm quanh thân cây hoặc cắn ngang phiến lá. Từ tuổi 3 tuổi trở đi, sâu
cắn đứt ngang thân cây (trong một đêm mỗi con có thể cắn đứt 3-4 cây ngô
non). Sâu gây hại cho ngô chủ yếu khi ngô ở giai đọan cây con (từ lúc mọc
đến 4-5 lá). Khi cây ngô đã lớn, sâu thường đục vào thân cây chui vào bên
trong ăn phần non, phần mềm của ruột cây làm cho cây bị héo lá đọt và chết.
- Sâu hoạt động mạnh từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau đặc biệt từ
tháng 12 đến tháng 2.
3.3.1.3. Biện pháp phịng trừ
- Ngơ phải được vệ sinh sạch cở khơng những trong ruộng và cịn cả
xung quanh bờ. Đất phải được cày, xới và phơi để diệt bớt sâu nhộng trong đó
trước khi xuống giống.
- Luân canh trồng ngô và cây lúa nước hoặc những loại rau ưa nước
khác để diệt sâu nhộng đang sống trong đất và cắt đứt nguồn thức ăn phù hợp
cho sâu.
- Có thể sử dụng một số loại thuốc trừ sâu dạng bột như Basudin 10G;
Vibasu 10 H; Furadan 3G; Vibaba 5H; Regent 0,2/0,3G; Vifuran 3G; Padan
4G; Vicarp 4H...rải xuống hàng hoặc hốc gieo hạt để diệt sâu theo liều lượng
khuyến cáo hoặc có thể sử dụng một trong các loại thuốc trừ sâu để phun như:
Sumithion

50EC;

Sherpa


10EC/25EC;

24

Visher

25ND;

Cyperan


Báo cáo kết quả thực tập tốt nghiệp

5EC/10EC/25EC; Fastocid 5EC; Bi58 40EC; Bian 40EC/50EC; Ofatox
400EC/400WP; Karate 2,5EC...Nên Sử dụng thuốc vào buổi chiều mát để ban
đêm sâu bò ra gây hại dễ bị nhiễm độc hơn.
- Bắt sâu bằng tay vào ban đêm hoặc lúc sáng sớm khi sâu chưa kịp
chui xuống đất; sử dụng bả chua ngọt để diệt bướm vào đầu vụ ngơ.

Hình 1. Sâu xám hại ngơ

3.3.2. Tác hại do sâu keo gây ra
3.3.2.1. Đặc điểm sâu keo
- Sâu non có hình ống, màu nâu. Trên lưng và 2 bên có sọc màu nâu
vàng, đen, nâu thẫm (Hình 2).
- Bướm sâu keo có màu nâu đen. Cánh bướm có màu nâu hay xám với
những chấm màu vàng sẫm và một đường viền màu xám ở gần mép cánh.
Cánh sau có màu trắng.
3.3.2.2. Khả năng gây hại
- Sâu keo thường xuất hiện vào mùa mưa. Sâu non hoạt động và ăn lá

cây vào ban đêm và đặc biệt những ngày nhiều mây chúng hoạt động cả ngày
và đêm. Dịch sâu keo thường xảy ra sau thời gian khô hạn kéo dài vào thời kỳ
có mưa. Đó là thời kỳ thích hợp cho sâu keo nở ra thành từng đàn.

25


×