Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Thực trạng trồng đậu tương tại xã hưng xá huyện hưng nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.84 KB, 50 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này ngoài sự nỗ lc ca bn thõn, tụi cũn nhn
c s giỳp đỡ của các thầy cô giáo, các cán bộ, nhân dân và bạn bè.
Trước hết tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới thầy giáo Thạc sĩ:
Nguyễn Đình Châu đã giúp đỡ hướng dẫn tận tình trong suốt quá trình tơi
thực hiện đê tài.
Tơi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cơ giáo, trong khoa sinh học,
phịng thí nghiệm di truyền- vi sinh, phịng thí nghiệm hóa sinh - trường Đại
Học Vinh cùng tất cả bạn bè và người thân luôn giúp đỡ động viên, tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tơi trong q trình thực hiện đề tài này.
Qua đây tôi cũng xin chân thành cảm ơn tới c¸c c¸n bộ sở Nơng
Nghiệp và Phát Triển Nơng Thơn tỉnh Nghệ An, phịng Nơng Nghiệp huyện
Hưng Ngun, nhân dân Xã Hưng Xá – Hưng Nguyên – Nghệ An đã tận
tình giúp đỡ tơi để đề tài này được hồn thành.
Tuy đã có nhiều cố gắng , song bản thân đề tài khơng thể tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô
giáo và các bạn sinh viên.
Tôi xin chân thành cảm ơn

1


MỞ ĐẦU
Cây đậu tương(Glycine max(L) Merr) còn gọi là cây đậu nành,thuộc
họ đậu (Leguminosae), họ phụ cánh bướm(Papilionoidae), là một loại cây
trồng đã có từ lâu đời,được xem là loại “cây kì lạ”, “vàng mọc từ đất”, “cây
thần diệu”, “cây đỗ thần”, “cây thay thịt”v.v..Sở dĩ đậu tương được người ta
đánh giá cao như vậy chủ yếu là do giá trị kinh tế của nó.Vì vậy trong chiến
lược phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã được bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn xem cây đậu tương là cây kinh tế trọng điểm của
nước ta.


Trong những năm gần đây cây đậu tương đang được quan tâm ở nước
ta,do những giá trị kinh tế và dinh dưỡng của nó,tiềm năng của cây đậu
tương cịn rất lớn do vậy có thể tăng diện tích trồng cây đậu tương và với áp
dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất có thể nâng cao năng xuất.
Hạt đậu tương có thành phần dinh dưỡng cao, hàm lượng protein
trung bình khoảng 38-40 %, lipit từ 18-20 %, giàu nguồn sinh tố và muối
khống.H¹t đậu tương là loại thực phẩm duy nhất mà giá trị của nó được
đánh giá đồng thời cả protit và lipit. Protein của đậu tương có phẩm chất tốt
nhất trong số các protein có nguồn gốc thực vật. Hàm lượng protein trong
hạt đậu tương cao hơn cả hàm lượng protein trong cá , thịt và cao gấp hai lần
các loại đậu đỗ khác.
Trong công ngiệp người ta sử dụng đậu tương vào việc chế biến cao
su nhân tạo, sơn, mực in, xà phòng, chất dẻo, tơ nhân tạo, chất đốt lỏng bôi
trơn trong ngành hàng không…

2


Cây đậu tương còn được đánh giá rất cao trong công nghiệp thức ăn
gia súc, chiếm 60 % giá trị tồn bộ thức ăn có đạm. Đồng thời thân và lá cây
đậu tương còn được sử dụng làm phân xanh rất tốt.
Khả năng đặc biệt của cây đậu tương là có khả năng cố định đạm khí
trời để sử dụng, làm giàu đạm trong đất nhờ vi khuẩn nốt sần Rhizobium
cộng sinh với bộ rễ. Các vi khuẩn này có thể tích lũy lượng đạm từ 20-25
kg/ha. Do vậy trồng đậu tương góp phần cải tạo đất và tạo sự cân bằng sinh
thái nơng nghiệp.
Đậu tương là cây trồng có khả năng thích ứng với nhiều vùng sinh
thái khác nhau. Vì vậy có thể trồng với nhiều vụ khác nhau trong năm trên
nhiều loại đất, xen canh gối vụ với những những cây cơng nghiệp khác, góp
phần vào việc chuyển đổi cơ cấu mùa vụ mang lại hiệu quả kinh tế cao trong

sản xuất nông nghiệp.
Đặc biệt những năm gần đây với việc chuyển đổi cơ chế quản lí sản
xuất nông nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Lương thực một vấn đề
cơ bản của người dân Việt Nam đã được giải quyết, từ đó người nơng dân có
nhiều điều kiện sản xuất những ngành, những cây có giá trị kinh tế cao,mà
trong đó cây đậu tương là một trong những mũi nhọn chiến lược kinh tế
trong việc bố trí sản xuất vầ khai thác lợi thế của vùng khí hậu nhiệt đới.
Tuy nhiên, muốn trồng vµ sản xuất đậu tương có hiệu quả kinh cao
chúng ta cần nắm được những đặc trưng nơng học, sinh lí, sinh thái… của
cây đậu tương để làm cơ sở cho việc xây dựng và áp dụng các biện pháp kĩ
thuật gieo trồng, chăm sóc thích hợp. Xuất phát từ lí do trên tôi đã tham gia
nghiên cứu “ Thực trạng trồng đậu tương tại xã Hưng Xá -huyện Hưng
Nguyên- tỉnh Nghệ An”

3


PHẦN I:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VỀ CÂY ĐẬU TƯƠNG
1.1.Nguồn gốc cây đậu tương
Cây đậu tương là một loại cây trồng cổ của nhân loại , nguồn gốc cụ
thể của nó vẫn chưa được làm rõ. [3][4][13]
Căn cứ vào “Thần nơng bảo kinh” và một số di tích trên đá, mai rùa,
xương súc vật…thì cây đậu tương có nguồn gốc ở phương Đông (Đông Á)
được con người biết đến cách đây khoảng 5000 năm và được trồng vào thế
kỉ XI trước công nguyên.[13]
Một số nhà khoa học cho rằng , cây đậu tương xuất hiện đầu tiên ở lưu
vực sông Trường Giang (Trung Quốc). Tôn Tĩnh Đông và Hymowitz(1970)
phân tích cổ ngữ và cho rằng: chữ “Soi-a” của nhiều nước trên thế giới (Nga,
Anh, Pháp…) là xuất phát từ chữ “Shu” của Trung Quốc. Theo Morre

(1950) viết ghi chú đầu tiên về loại cây trồng này nằm trong cuốn “Bản thảo
cương mục”, cuốn sách này mô tả những cây trồng ở Trung Quốc do vua
Thần Nông viết năm 2838 trước công nguyên. Cây đậu tương được xem là
cây quan trọng được xếp vào cây lấy hạt quan trọng là: lúa nước, đậu tương,
lúa mì, đại mạch, cao lương (kê), quyết định sự tồn tại của nền văn minh
Trung Quốc.[3],[13]
Theo Nogata, cây đậu tương được du nhập vào Triều Tiên và Nhật
Bản khoảng 200 năm trước công nguyên.
Năm 1765, Samuel Bowen đưa đậu tương từ Trung Quốc sang Hoa
Kú [16]
Ở Châu Mĩ cây đậu tương được nói đến từ năm 1804, nhưng mãi đến
năm 1924 mới được trồng.[13]

4


Từ năm 1790 cây đậu tương đã được các nhà truyền giáo mang từ
Trung Quốc về trồng ở vườn thực vật ở Pari và Hồng Gia Anh.[3],[4]
Haberlandt đã mơ tả trong tác phẩm của ông về cây đậu tương ở
Oxtraylia đầu năm 1879.[13]
Ở Viên (thủ đô của Áo),Frecdrich và Haberlandt đã tích cực tuyên
truyền dùng đậu tương làm thực phẩm và thức ăn gia súc.[13]
Đậu tương được đưa tới các nước Nam Á và Đông Nam Á từ Nhật
Bản, Trung Quốc và Triều Tiên qua con đường bán tơ lụa.[17]
Khi cây đậu tương có mặt ở nhiều nước trên thế giới thì nó có các tên
địa phương khác nhau như ở Anh: Soybean; ở

Pháp: Soia, Soya,

Poisoleagineux de chine; ở Indonexia: kedelai, kacang jenpun, kacang bulu;

ở Malayxia: kacangsoya, kacang bulu rimau, kacang jenpun, ở Philippin:
utau, soybean, batatong, Mianma: lasi, pengapi, peryatpym; Tháilan;
thualueang, thua lueang, thua phra lueang; Việt Nam: đậu tương, đậu nành.
[17]
Tuy nhiên đậu tương là một loại cây trồng cổ xưa nhất, nhưng đậu
tương cũng được xem là một loại cây trồng mới nhất. Vì trên thực tế đến
cuối thế kỉ XIX đậu tương mới chỉ được trồng ở Trung Quốc và 30 năm đầu
của thế kỉ XX sản xuất đậu tương chỉ tập trung ở Trung Quốc, Indonexia,
Nhạt Bản, Triều tiên.[13],[17]
Hiện nay người ta đã tiến hành lai tạo để từ giống đậu tương hoang
dại trở thành nhiều giống đậu tương mới có năng suất và chất lượng cao.
1.2. Giá trị của cây đậu tương [6]
Đậu tương là cây trồng cạn, ngắn ngày có giá trị kinh tế cao . Khó có
thể tìm thấy cây trồng nào có tác dụng nhiều mặt như cây đậu tương. Sản
phẩm của nó làm thực phẩm cho con người, thức ăn cho gia súc, nguyên liệu
cho công nghiệp, hàng xuất khẩu và là cây cải tạo đất tốt. Vì thế cây đậu
5


tương được gọi là “Ơng Hồng trong các loại cây họ đậu”. Sở dĩ cây đậu
tương được đánh giá như vậy bởi lẽ cây đậu tương có giá trị rất toàn diện.[6]
1.2.1. Giá trị về mặt thực phẩm:
Hạt đậu tương có thành phần dinh dưỡng cao, hàm lượng proten trung
bình khoảng từ 35.5-40 %. Trong khi đó hàm lượng protein trong gạo chỉ
6.2-12 %; trong ngô khoảng 9.8-13.2 % ; thịt bò 21 %; trong cá từ 17-20 %;
trong trứng 13-14.8 %. Hàm lượng lipit từ 15-20 %, hydratcacbon từ 15-16
% và nhiều loại sinh tố cùng các loại muối khoáng quan trọng cho sự sống.
[6]
Hàm lượng axitamin quan trọng có chứa lưu huỳnh như methionin và
sixtin của đậu tương cao gần bằng hàm lượng các chất này có trong trứng gà.

Hàm lượng cazein, đặc biệt lisin cao gần gấp rưỡi lÇn chất này có trong
trứng .Vì thế mà khi nói về giá trị của protein trong hạt đậu tương là nói đến
hàm lượng protein cao và sự cân đối của các axitamin cần thiết . Protein của
đậu tương dễ tiêu hóa hơn thịt và khơng có các thành phần tạo colesteron.
Ngày nay người ta mới biết thêm hạt đậu tương có chứa lexithin, có tác dụng
làm cho cơ thể trẻ lâu, tăng thêm trí nhớ, tái tạo các mơ, làm cứng xương và
tăng cường sức đề kháng của cơ thể.
Hạt đậu tương có chứa hàm lượng dầu béo cao hơn các loại đậu đỗ
khác nên được coi là cây cung cấp dầu thực vật quan trọng. Lipit của đậu
tương chứa một tỉ lệ cao các axit béo không no (khoảng 60-70 %) có hệ số
đồng hóa cao, mùi vị thơm như axit linoleic chiếm 52-65 % , oleic từ 25-36
% , linolenolic khoảng 2-3 % .Dùng dầu đậu tương thay thế mỡ động vật có
thể tránh xơ mỡ đéng mạch. [3]
Trong hạt đậu tương có khá nhiều loại vitamin, đặc biệt là hàm lượng
vitamin B1 và B2, ngoài ra cịn có các loại vitamin PP,A,E,K,D,C,v.v…Đặc
biệt trong hạt đậu tương đang nảy mầm có hàm lượng vitamin tăng lên
6


nhiều, đặc biệt là vitamin C. Phân tích thành phần sinh hóa cho thấy trong
hạt đậu tương đang nảy mầm, ngồi hàm lượng vitamin C cao, cịn có các
thành phần khác như: vitamin PP, và nhiều chất khoáng khác như Ca, P,
Fe ..vv..Chính vì thành phần dinh dưỡng cao như vậy nên đậu tương có khả
năng cung cấp năng lượng khá cao khoảng 4700ccal/kg ( Nguyễn Danh
Đông, 1982 ). Hiện nay, từ hạt đậu tương người ta đã chế biến ra được trên
600 sản phẩm khác nhau, trong đó có hơn 300 loại làm thực phẩm được chế
biến bằng phương pháp cổ truyền, thủ công và hiện đại dưới dạng tươi, khô
và lên men vv…Như làm giá, đậu phụ, tương, xì dầu vv.. đến các sản phẩm
cao cấp khác như cà phê đậu tương hạt đen, có tác dụng tốt cho tim, gan,
thận, dạ dày và ruột. Đậu tương là những thức ăn tốt cho những người bị

bệnh đái đường, thấp khớp, thần kinh suy nhược và suy dinh dưỡng.
1.2.2 .Giá trị về mặt công nghiệp
Đậu tương là nguyên liệu của nhiều ngành công nghiệp khác nhau
như: chế biến cao su nhân tạo, sơn, mực in, xà phòng chất dẻo, tơ nhân tạo,
chất đốt lỏng, dầu bôi trơn trong ngành hàng không, nhưng chủ yếu đậu
tương dùng để ép dầu. Hiện nay trên thế giới cây đậu tương là cây đứng đầu
về cung cấp nguyên liệu cho ép dầu, dầu đậu tương chiếm 50% tổng lượng
dầu thực vật. Đặc điểm của dầu đậu tương: khô chậm, chỉ số iốt cao: 120127; ngưng tụ nhiệt độ : -15 đến -18 đ ộ C. Từ dầu này người ta chế biến
hàng trăm sản phẩm cơng nghiệp khác như: làm nến, xà phịng , ni lông…
Giá trị về mặt nông nghiệp
Làm thức ăn cho gia súc: Đậu tương là nguồn thức ăn tốt cho gia súc,
1kg đậu tương tương đương với 1,38 đơn vị thức ăn chăn ni. Tồn cây đậu
tương(thân,lá ,quả, hạt ) có hàm lượng đạm khá cao cho nên các sản phẩm
phụ như thân lá tươi có thể làm thức ăn cho gia súc rất tốt, hoặc nghiền khô
làm thức ăn tổng hợp của gia súc. Sản phẩm phụ công nghiệp như khô dầu
7


có thành phần dinh dưỡng khá cao: Nitơ: 6,2% ; P2O5 : 0,7% ; K2O: 2,4% ,
vì thế làm thức ăn cho gia súc rất tốt.[ 3]
Cải tạo đất: Đậu tương là cây luân canh cải tạo đất tốt. 1ha trồng đậu
tương nếu sinh trưởng phát triển tốt để lại trong đất từ 30 – 60kg N [17].
Trong hệ thống luân canh, nếu bố trí cây đậu tương vào cơ cấu cây
trồng hợp lí sẽ có tác dụng tốt với cây trồng sau, góp phần tăng năng suất cả
hệ thống cây trồng và giảm chi phí cho việc bón Nitơ. Thân lá đậu tương
dùng bón thay phân hữu cơ rất tt bi vỡ hm lng có chứa hàm lợng
Nit cao.
1.3. Tình hình sản xuất đậu tương
1.3.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới


Đậu tương là cây trồng lấy hạt, cây có dầu quan trọng bậc nhất trên
thế giới, đứng hàng thứ tư sau cây lúa mì, lúa nước và ngơ.[6] [3]
Do khả năng thích ứng rộng nên nó đã được trồng ở khắp năm châu
lục, nhưng nó tập chung ở nhiều nhất là châu Mỹ 73,03% ; tiếp đến là châu
Á 23,15% … Hàng năm trên thế giới trồng khoảng 54 – 56 triệu ha đậu
tương (thời gian từ 1990 – 1992 ) với sản lượng khoảng 103 – 114 triệu tấn.
[17]
Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới trong những năm gần đây
được thể hiện trong bảng sau

8


Bảng 1.1: Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới từ năm 2001 – 2005

Năm
2001
2002
2003
2004
2005

Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(triệu ha)


(Tạ/ha)

(Triệu tấn)

76,007
79,167
83,600
91,440
91,386

23,20
22,73
23,40
22,34
23,00

176,761
108,907
188,929
204,266
209,532

Số liệu bảng 1.1 cho thấy diện tích gieo trồng và sản lượng đậu
tương trên thế giới tăng nhanh trong vòng 5 năm qua. Hàng năm trên thế
giới trồng

khoảng hơn 91 triệu ha với năng suất bình quân khá cao 22-23

tạ/ha, đã tạo được một sản lượng đậu tương gấp 2 lần so với 20 năm trước
Các nước trồng đậu tương đứng hàng đầu trên thế giới về diện

tích gieo trồng và sản lượng là Mỹ, Braxin, Achentina, Trung Quốc.[6]
Năm 2003
Diện
Năng

Sản

Năm 2004
Diện
Năng

Sản lượng

Năm 2005
Diện
Năng

Sản lượng

tích

suất

lượng

tích

suất

(triệu/tấn)


tích

suất

(triệu/tấn)

(Triệu

Tạ/ha

(triệu/tấ

(Triệu

Tạ/ha

(Triệu

Tạ/ha

n)

ha)

ha)

29,93 28,6 85,740
21,5 23,14 49,793


28,84 28,72
22,89 21,92

82,82
50,1

2
14,3
9,7

14,03 27,28
9,5
17,79

33,3
16,9

ha)

Mỹ
Braxin

29,33 22,77 66,77
18,52 28,08 52,02

Achentina 12,4
Trung
9,32

28,0 34,88

16,53 15,39

22,0 31,500
18,14 17,6

Quốc

1.3.2. Tình hình sản xuất đậu tương ở trong nước

9


Ở Việt Nam, cây đậu tương đã được phát triển rất sớm ngay từ
khi nó đang cịn là cây hoang dại, sau đó được thuần hóa và trồng như một
cây thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao.[6],[17]
Vai trị của đậu tương ở nước ta hiện nay cũng như những năm
tới chủ yếu là nhằm giải quyết vấn đề đạm cho người và gia súc, thay thế
một phần bột cá và thỏa mãn một phần nhu cầu dầu thực vật rồi sau đó mới
nói đến xuất khẩu.[17]
Trong những năm gần đây, cây đậu tương đã phát triển khá
nhanh cả về diện tích và năng suất góp phần tạo ra mặt hàng tiêu dùng nội
địa quan trọng. Tình hình sản xuất đậu tương trong nước mấy năm gần đây
được trình bày trong bảng 1.3 [6]
Bảng 1.3: Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam trong những năm gần
đây( 2001-2005)

Năm

Diện tích


Năng suất

Sản lượng

(Nghìn ha)

(Tạ/ha)

(Nghìn
tấn)

2001
146,3
2002
140,3
2003
166,5
2004
109,0
2005
185,0
( Nguồn FAOSTAT Database, 2006)

12,36
12,56
13,50
12,63
13,24

176,3

176,3
225,3
240,0
245,0

Về mặt diện tích: Diện tích gieo trồng đậu tương của nước ta
mới chiếm chỉ lệ nhỏ trong tổng diện tích gieo trồng (khoảng 1,5-1,6%). Xét

10


về tốc độ thì tăng rất nhanh nếu lấy năm 1980 làm mốc thì đến năm 2004
diện tích đã tăng lên 3,6 lần. [6]
Về năng suất: Năng suất đậu tương bình quân của nước ta rất
thấp, chỉ ở múc 9,5-11 tạ/ha. Nếu lấy năng suất của năm 1992 ra để so sánh
thì năng suất đậu tương của nước ta chỉ mới đạt 39,27% năng suất bình quân
của thế giới. Nếu so với nước có năng suất cao nhất của thế giới thì năng
suất của nước ta chỉ mới bằng 22,87%. Tuy nhiên, nhờ những nỗ lực rất lớn
của các nhà khoa học trong công tác nghiên cứu chọn giống và các biện
pháp canh tác , năng suất đậu tương trong 5 năm gần đây đã có một bước
nhảy vọt quan trọng, năng suất tăng 1,8 lần so với năm 1980. [6],[14]
Về mặt sản lượng: Trong vòng 20 năm từ 1976-1995 tăng 6 lần.
Tuy vậy nếu so với yêu cầu thì cịn thiếu rất nhiều, vì hiện tại sản lượng đậu
tương của chúng ta nếu tính theo đầu người
1.3.3. Tình hình sản xuất đậu tương ở Nghệ An

Nghệ An là một trong những địa phương có diện tích gieo trồng đậu
tương lớn so với trung bình của cả nước.
Tình hình sản xuất đậu tương ở Nghệ An trong những năm gần đây
được thể hiện trong bảng sau :


Bảng 1.4: Tình hình sản xuất đậu tương ở Nghệ An trong sáu năm 2004-2009

11


Nm

Din tớch

Nng sut

Sn lng

2004
2005
2006
2007
2008
2009

(ha)
1188
938
762
985
914
884

( T/ha)

8,39
6,642
8,71
9,3
9,49
8,94

(Tn)
996,7
623
663,7
916
867,3
790,2

Hng Nguyên là một trong những huyện có diện
tích gieo trồng đậu tơng tơng đối lớn so víi toµn tØnh.
Tình hình sản xuất đậu tương ở huyện Hưng Nguyên được thể hiện
qua

bảng

sau:

[23]

Bảng 1.5:Tình hình sản xuất đậu tương ở Hưng Nguyên trong 4 năm (2004-2007)

Năm


Diện
(ha)

2004
2005
2006
2007

18
18,3
28
9,7

tích

Năng suất
(tạ/ha)
5,78
7
9
14

Sản lượng
(tấn)
10,4
10,78
25,12
13,14

Trong đó xã Hưng Xá là một trong những xã có diện tích gieo trồng

đậu tương tương đối lớn được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1.6: Tình hình sản xuất đậu tương ở xã Hưng Xá – Huyện Hưng
Nguyên trong 4 năm (2004-2007)

12


Năm

Diện

tích

(ha)
2004
2005
2006
2007

13
7
7
7

Năng suất

Sản lượng

(tạ/ha)
4,92

7,94
14
14,3

(tấn)
6,4
5,56
9,8
10

1.4. Sinh trưởng và phát triển của cây đậu tương
Chu kì sống của cây đậu tương chia ra làm 5 giai đoạn hoặc
thời kì khác nhau :
1.4.1. Giai đoạn nảy mầm-cây con

Giai đoạn này được tính từ khi gieo hạt giống xuống đất, hạt
hút ẩm trương lên,rễ mọc ra, thân vươn lên đội hai lá mầm lên khỏi mặt
đất,lá mầm xòe ra, thân mầm tiếp tục phát triển lên thành thân chính. Giai
đoạn này cây con sống chủ yếu dựa vào nguồn chất dinh dưỡng các lá mầm
này chuyển dần sang màu vàng rồi rụng và đồng thời cũng là lúc mà bộ rẽ đã
phát triển đủ khả năng hút nước và chất dinh dưỡng từ trong đất để nuôi cây.
[3] [4]
Nảy mầm là giai đoạn đầu tiên trong quá trình sinh trưởng và
phát triển của cây đậu tương yêu cầu giai đoạn này phải đủ nước, nhiệt độ và
oxy.
+ Nước: Hạt đậu tương hút nhiều nước hơn so với cây trồng
khác. Hạt phải hút một lượng nước trên 50% trọng lượng hạt thì hạt mới nảy
mầm, trong khi đó các cây trồng như lúa chỉ hút 26% , ngơ 44% v.v…[6]
+ Nhiệt độ: Q trình nảy mầm rất mẫn cảm với nhiệt độ.
Nhiệt độ từ 15-300C là thích hợp nhất đối với q trình nảy mầm của hạt đậu

tương. Trong khoảng nhiệt độ này, chỉ sau gieo 3-7 ngày là hạt nảy mầm.

13


Nếu nhiệt độ nhỏ hơn 10 độ C thì sau gieo ph¶i từ 12-15 ngày mới mọc.
Nếu cao hơn 300C hạt nảy mầm nhanh nhưng mầm yếu. [6]
+ Hàm lượng oxy: có liên quan tới độ ẩm đất, nếu độ ẩm đất
trên 90% thì khơng đủ oxy để hạt nảy mầm. Khi có đủ nước, oxy và nhiệt độ
thì hạt sẽ hút nước trương lên, các men proteaza, amyloaza… chứa trong hạt
bắt đầu hoạt động chuyển các chất dự trữ ở dạng phức tạp sang đơn giản để
ni hình thành bộ phận mới. [6]
Giai đoạn này ngắn hay dài tùy thuộc vào điều kiện ngoại
cảnh. Nếu gieo vào vụ hè thì giai đoạn này ngắn hơn vụ đơng. Thơng thường
thời gian này khoảng 15-20 sau khi gieo. Thời kì này chính là thời kì quyết
định mật độ cây con cũng như sức sinh trưởng của cây đậu tương sau này.
[14][17]
1.4.2. Giai đoạn sinh trưởng thân, lá

Giai đoạn này được tính từ khi cây con ra được 1-2 lá kép và
căn bản kết thúc khi bắt đầu nở hoa. Tốc độ sinh trưởng thân lá trong thời
gian đầu của thời kì này tương đối chậm chỉ tới khi bắt đầu xuất hiện lớp rễ
thứ hai và sắp ra nụ hoa mới bắt đầu tăng nhanh. Đây là thời kì mầm hoa bắt
đầu phân hóa. Thời kì này rất quan trọng, chỉ trên cơ sở thân lá sinh trưởng
tốt, cành phát triển nhiều, sinh trưởng nhanh thì mầm hoa mới phân hóa
được nhiều. Nhưng nếu thân lá sinh trưởng quá mạnh lại ức chế mầm hoa
phân hóa chậm lại. Thời kì này nốt sần bắt đầu hình thành. Sau mọc được
khoảng 15 ngày
cây có lá kép đầu tiên thì nốt sần được hình thành và khả năng cố định
nitơ dần dần được tăng lên.[6] [17]

Điều kiện ngoại cảnh thích hợp cho thời kì này là nhiệt độ từ
22-25 0C, độ ẩm đất từ 70-80% và yêu cầu ánh sáng đầy đủ để cây sinh

14


trưởng và phát triển khỏe. Có thể nói đây là thời kì mấu chốt để cây đậu
tương thân to, đốt ngắn, rễ ăn sâu và mầm hoa nhiều [6] [17]
Trong kỹ thuật cần chú ý những vấn đề sau:
+ Phải bón lót đủ phân và vun xới sớm để bộ rễ phát triển
thuận lợi. Để tạo điều kiện cho nốt sần phát triển tốt nên bón đủ lân, kali và
một số loại phân vi sinh như Mo, Bo, Mg vv…[6]
+ Nếu mật độ cây dày quá phải tỉa sớm và làm cỏ kịp thời để
các lá phía dưới có đủ ánh sáng. Cần phải điều tiết sự sinh trưởng của cây
không cho sinh trưởng sinh dưỡng quá mạnh, nhưng cây cũng phải tích lũy
được nhiều chất hữu cơ để hình thành các cơ quan sinh sản về sau. [6]
1.4.3. Giai đoạn ra hoa

Giai đoạn này được bắt đầu kể từ khi hoa đầu tiên ra co tới khi
ra hoa cuối cùng. Khác với một số cây khác là cây đậu tương khi đã ra hoa
thì các bộ phận khác như rễ, thân, lá vẫn tiếp tục sinh trưởng và phát triển.
[6] [12][17]
Giai đoạn này dài hay ngắn tùy thuộc vào đặc tính của giống là
chín sớm hay chín muộn. Thời kì này cây đậu tương rất mẫn cảm với điều
kiện khí hậu thời tiết bất thuận như mưa to, gió lớn, khơ, nóng v.v…lúc đó
mặc dù số hoa của mỗi cây rất nhiều nhưng kết quả cuối cùng là số hoa được
thụ phấn và kết quả cũng sẽ rất ít, vì thơng thường 75% số hoa thường bị
háng và rụng.[6] [17]
Thời gian ra hoa kéo dài 30-40 ngày tùy vào giống và điều kiện
sinh trưởng, có những giống thời gian ra hoa chỉ kéo dài 10-15 ngày. [12]

1.4.4. Giai đoạn hình thành quả và hạt

Thời kì có quả non được bắt đầu từ giai đoạn ra hoa. Quả đầu
tiên được hình thành trong vịng 7-8 ngày kể từ lúc hoa nở.

15


Trong điều kiện bình thường sau khoảng 3 tuần lễ là quả đã
phát triển đầy đủ. Lúc các chùm quả non đã xuất hiện thì các chất dinh
dưỡng trong thân, lá được vận chuyển về ni hạt làm cho h¹t lớn dần. Các
yếu tố nhiệt độ, độ ẩm… trong giai đoạn này sẽ tác động rất lớn đến tốc độ
phát triển của quả và hạt.[17]
1.5 Kỹ thuật trồng cây đậu tương
1.5.1. Giống đậu tương

Hiện nay trong sản xuất giống đậu tương cũng tương đối phong
phú. Trong những năm qua, giống mới đã góp phần quan trọng đẩy mạnh
nâng nhà chọn giống ln chú ý đến các đặc tính như khả năng chống chịu
sâu bệnh, chống đổ, chống tách hạt và đạt năng suất cao. Một xu hướng nữa
là chọn được giống thích nghi với điều kiện nhất định nào đó như chọn
giống chịu lạnh cho vụ đông và đông xuân ở miền bắc và các vùng trồng đậu
tương ở miền nam( Trần Đình Long và Andrew).
Thời gian sinh trưởng của các giống đậu tương do đặc tích di
truyền quyết định. Tuy nhiên thời gian sinh trưởng của đậu tương bị ảnh
hưởng bởi thời gian chiếu sáng và nhiệt độ.
Nhóm chín sớm thường bao gồm những giống có thời gian sinh
trưởng khoảng dưới 80 ngày. Ưu điểm của nhóm lai là chín sớm nhưng
nhược điểm là yếu cây, hạt bé năng suất thấp. Gần đây qua công tác nhập
nội, chọn lọc, lai tạo vv… các cơ quan khoa học cũng đã đưa ra sản xuất một

số giống mới có năng xuất cao và thời gian sinh trưởng ngắn.
Nhóm chín trung bình thơng thường bao gồm các giống có thời
gian sinh trưởng là 90-110 ngày. Nhóm này thì cho năng xuất cao những
giống có thời gian sinh trưởng ngắn.

16


1.5.2 Chọn đất và kỹ thuật làm đất

Mục đích của việc làm đất là làm sao tạo điều kiện cho hạt dễ
nảy mầm, bộ rễ phát triển tốt giúp cho quá trình sinh trưởng của cây được
thuận lợi cho nên yêu cầu đất phải tơi xốp, giữ được độ ẩm, sạch cỏ dại..[17]
Năng suất cây trồng là kết quả của việc tác động lên các biện pháp kỹ
thuật một cách đầy đủ đúng lúc và đúng cách. Tùy từng loại đất thời vụ gieo
trồng cũng như yêu cầu kỹ thuật cụ thể mà có biện pháp làm đất khác nhau
[6][17]
Chọn đất nên chọn những đất có thành phần cát pha thịt nhẹ,
ruộng có hệ thống thốt nước tốt.
Đậu tương là cây hai lá mầm nên mọc khỏi đất khó khăn hơn
cây một lá mầm. Đất tơi xốp thì nốt sần ở cây đậu tương hình thành tốt, hoạt
động cố định của vi khuẩn nốt sần tiến hành tạo điều kiện cho cây sinh
trưởng mạnh.[6]
Một số địa phương thì có thói quen không làm đất, nếu hệ
thống không làm đất, hạt được gieo trồng trên nền đất không bừa, mọi tàn dư
của cây trồng vẫn còn ở trên mặt đất. Hệ thống làm đất tối thiểu thì mặt đất
được xáo trộn sơ bộ nhưng tàn dư của cây trồng vẫn ở trên mặt đất. Ở các hệ
thống canh tác khác nhau, năng suất đậu tương khác nhau. Nhìn chung trên
nền đất dễ bị khô, hệ thống làm đất bảo dưỡng cho năng suất cao hơn do độ
ẩm của đất được bảo vệ tốt hơn. Tuy nhiên trên nền đất khó thốt nước, làm

đất bảo dưỡng cho năng suất kém hơn vì đất nhiều khi quá ẩm ảnh hưởng
đến sinh trưởng của cây. Qua các kết quả nghiên cứu cho thấy, biện pháp
làm đất hợp lí tùy thuộc vào từng vùng, từng loại đất và ngay trên cùng một
cánh đồng, biện pháp làm đất có thể thay đổi qua các năm. [6]
1.5.3 Chuẩn bị hạt giốnng [6]

17


Hạt giống tốt là hạt to, đồng đều, đẩy chắc, tỉ lệ nảy mầm ít
nhất là 85%, khơng có mấm mống bệnh.
* Lượng hạt giống
Phụ thuộc chủ yếu vào mật độ cần thiết cho mỗi giống và độ to nhỏ
của hạt. Nhìn chung tùy thuộc vào đặc tính của giống như thời gian và tập
tính sinh trưởng và trọng lượng 1000 hạt mà lượng hạt giống cần thiết cho
một đơn vị diện tích khác nhau. Nhưng lượng hạt giống thường là
- Giống chín sớm: 50 - 60 kg/ha
- Giống chín trung bình: 40- 50 kg/ha
- Giống chín muộn : 30-35 kg/ha
* Xử lý hạt giống
Hạt giống trước khi gieo cần được xử lý như sau:
- Phơi một vài nắng nhẹ trước khi gieo trồng ( tránh không
nên phơi trên nền xi măng)
- Xử lý thuốc diệt mầm bệnh: Ví dụ như Faliran 0,15% trộn
đều với hạt ủ khơ trong vịng 24 đến 28 ngày nhằm tiêu diệt mầm mống
bệnh
- Xử lý phân vi lượng: người ta thường dùng Molipdatamon 1
– 2 kg/ha xử lý khô nhằm tăng thành phần của Mo.
- Tiến hành nhiễm khuẩn Rhizobium cho hạt trước khi gieo
trồng nhằm tăng khả năng hình thành nốt sần để tăng khả năng cố định đạm

khí trời của cây.
1.5.4 Thời vụ gieo hạt [6]

Cây đậu tương mẫn cảm với điều kiện thời tiết. Thời vụ không
những ảnh hưởng tới sinh trưởng phát triển của cây, tới năng suất, phẩm chất
của hạt mà còn ảnh hưởng cả tới những cây trồng tiếp sau trong hệ thống
luân canh.
18


Ở nước ta có thể trồng nhiều vụ trong năm, nhưng xác định
được thời vụ chính trong từng vùng là điều cấn thiết trong sản xuất.
* Cơ sở xác định thời vụ
- Đất đai: Tùy thuộc vào chân ruộng thấp hay cao, thốt
nước hay khơng mà phải gieo trồng đúng thời vụ, tránh lúc ra hoa và làm
quả gặp mưa bị úng, rụng hoa, rụng quả nhiều.
- Căn cứ vào chế độ canh tác: Tùy theo chế độ canh tác của
từng nơi, luân canh hoặc trồng xen gối mà bố trí thời vụ gieo trồng đảm bảo
năng suất cây trồng trước và cây trồng sau.
- Căn cứ vào giống: Tùy theo giống chín sớm, trung bình
hay chín muộn, để bố trí thời vụ gieo trồng thích hợp nhất. Ví dụ nếu trồng
giống chín muộn khơng được gieo muộn q làm rút ngắn thời gian sinh
trưởng, năng suất giảm.
- Căn cứ vào điều kiện khí hậu: đây là yếu tố chủ yếu nhất
để bố trí thời vụ, hay phải căn cø vào điều kiện nhiệt độ, độ ẩm và ánh sáng
để gieo trồng đúng thời vụ, tạo điều kiện cho đậu tương sinh trưởng thuận
lợi nhất, biểu hiện khi gieo trồng gặp hạn khơng bị rét khi ra hoa và chín có
ẩm độ và nhiệt độ thích hợp khi thu hoạch, ẩm độ phải khơ.
Ở nước ta có thể gieo trồng nhiều vụ trong năm, nhưng ở miền
Bắc có một số vụ chính sau:

*Vụ xuân
Đặc điểm của vụ xuân là đất gieo trồng khá nhiều. Ở miền núi gieo
trên đất chiêm xuân bỏ hóa, ở đồng bằng gieo trên đất ruộng mạ chiêm xuân
và đất bãi ven sông. Vụ này nếu gieo sớm hay gặp nhiệt độ thấp và khô hạn
nếu gieo muộn thì nhiệt độ và ẩm độ thích hợp nhưng ảnh hưởng đến vụ lúa
mùa( miền núi: thu hoạch trước 31 tháng 5, đồng bằng trước 10 tháng 6). Từ
19


Nghệ Tĩnh đổ vào cần tính tốn ra hoa và làm quả tránh gió tây nóng và thu
hoạch trước lụt tiểu mãn ( lụt tiểu mãn có hai cao điểm: 10 tháng 5 đến 15
tháng 5 và 25 tháng 5 đến 10 tháng 6)
Vụ xuân chỉ dùng giống lúa chín sớm và trung bình. Thời vụ
gieo thích hợp nhất cho vùng miền núi phía bắc là 15/2 đến 10/3; Đồng
bằng 1/2 đến 15/2; Bắc trung bộ 10/2- 10/2.
*Vụ hè
Hầu hết các giống có thể trồng được trong vụ hè, do điều kiện
thuận lợi có thể gieo khắp nơi, nhưng tập trung nhiều ở các tỉnh miền núi, ở
các chân ruộng đồi bãi, phù xa. Thời vụ gieo trồng các giống như sau:
+ Giống chín sớm: 25/5-30/6
+ Giống chín trung bình 15/5-15/6
+ Giống chín muộn: 20/4-25/5
*Vụ đơng
Đưa đậu tương vào vụ đông sẽ tạo ra nhiều chuyển biến sâu sắc
trong cơ cấu cây trồng ở vùng trọng điểm lúa. Vụ đông thường gặp rét, hạn
và sống trong điều kiện ánh sáng ngày ngắn nên năng suất không cao. Thời
vụ gieo sớm cuối tháng 9 đầu tháng 10 nói chung càng sớm càng tốt, cố
gắng kết thúc trước 20/10. Khó khăn trong vụ đông khi làm đất giao hạt gặp
mưa cuối vụ khi thu hoạch về cũng bị mưa phùn khó ra hạt.
Ở miền Nam, điều kiện khí hậu ấm áp, đậu tương gieo từ 20/12

đến tháng1
1.5.6. Mật độ gieo trồng [6]
* Cơ sở để xác định mật độ:
- Căn cứ vào đặc tính của giống : giống chín sớm, thấp cây,
phân cành ít thì nên trồng dày cịn đối với những giống chín muộn cây cao
phân cành nhiều thì nên trồng nhiều ta phải trồng thưa.
20


- Căn cứ vào thời vụ: Vụ xuân và vụ đông trong điều kiện nhiệt
độ thấp hay bị khô hạn cây sinh trưởng kém thì ta trồng dày hơn so với vụ hè
và vụ thu nóng ẩm.
- Căn cứ vào đất đai: Đất tốt nhiều màu ta trồng thưa, đất xấu ít
màu ta trồng dày.
- Căn cứ vào mức độ thâm canh của từng nơi: Đầy đủ phân
bón, chăm sóc tốt thì trồng thưa, trái lại ít phân chăm sóc kém thì ta trồng
dày.
* Mật độ gieo trồng cụ thể
- Giống chín sớm: Đảm bảo 50-60 cây/ m 2, khoảng cách cụ

thể: hàng cách hàng 30-35 cm, cây cách cây 5-6cm, hoặc khóm cách
khóm 20cm/3-4 cây.
- Giống chín trung bình; Đảm bảo 40-50 cây/m2, khoảng
cách cụ thể là hàng cách hàng 35-40cm, cây cách cây 7-8 cm, hoặc
khóm cách khóm 20cm/3-4 cây.
- Giống chín muộn: 15-20 cây/m2, khoảng cách cụ thể là
hàng cách hàng 40-45cm, cây cách cây 12-15 cm, hoặc khóm cách
khóm 25cm/2 cây.
1.6. Dinh dưỡng cây đậu tương [6]
Đậu tương cần đầy đủ các yếu tố dinh dưỡng cần thiết để

sinh trưởng, phát triển bình thường. Nếu thiếu hoàn toàn hoặc thiếu bất
cứ một yếu tố nào đều ảnh hưởng đến sư sinh trưởng và phát triển của
cây. Để phát huy đầy đủ tác dụng của các loại phân bón cho đậu tương,
cần phải hiểu rõ đặc tính lý hóa và thành phần dinh dưỡng của đất, đặc
điểm tính chất của loại phân bón, đặc điểm dinh dưỡng của cây đậu
21


tương. Đậu tương cảm ứng với muối khoáng hơn các loại cây trồng
khác. Do đó víi đất nghèo dinh dưỡng hoặc lượng phân ít buộc phải
bón tập trung thì nên bón phân cách hàng 8-13cm, lấp sâu 8-10 cm.
Khơng nên rắc phân ngay dưới hàng hạt, rễ sẽ ăn sâu thẳng xuống mà
khơng phát triển bề rộng. Bón phân tập trung gần hạt, làm rễ mầm bị
cháy, không đảm bảo mật độ cây.
1.6.1. Phân đạm:

Đậu tương là cây họ đậu có khả năng cố định đạm tứ khí
trời để cung cấp cho cây, do vậy người ta thường bón ít phân N cho đậu
tương. Khả năng cố định N của vi khuẩn nốt sần phụ thuộc vào nhiều
yếu tố. Harper(1974) thấy rằng việc cố định và sử dụng nitrat (NO 3) có
tầm quan trọng để thu năng suất tối đa. Tuy nhiên, nếu nitrat dư thừa có
hại tới năng suất vì lúc đó sự cố định nitơ bị cố định hồn tồn. Khi bón
đạm khơng hợp lí, bón q nhiều N, hoặc bón khơng đúng thời kì sẽ ức
chế sự hình thành và phát triển hoạt động của vi khuẩn nốt sần.
1.6.2. Phân lân và vơi

Bón phân lân cho cây giảm tỉ lệ rụng hoa, tăng tỉ lệ hạt chắc và
tăng năng suất rõ rệt. Lân làm tăng hoạt động cố định đạm của vi khuẩn
nốt sần. Lượng phân lân thường được bón từ 30-100 kg P 2O5/1ha, bón
lót cùng với phân hữu cơ.

Bón vơi cho đất chua đạt pH khoảng 6-6,5 là yếu tố quan
trọng để sản xuất đậu tương có hiệu quả. Đất có độ kiềm cao, pH>7,5
ảnh hưởng không tốt tới sản xuất đậu tương.
1.6.3. Phân kali

22


Nhu cầu về kaki cả cây đậu tương còn lớn hơn đạm và lân. Nhu
cầu này tăng dần theo thời gian sinh trưởng của cây và đỉnh cao là giai
đoạn trước khi cây ra hoa, nhưng giảm dần khi hình thành hạt và ngừng
ở thời kì khoảng 21 ngày trước khi chín.

1.6.4. Phân vi lượng

Molipđen(Mo) là yếu tố quan trọng cho quá trình trao đổi
nitơ, làm tăng khả năng cố định đạm của vi khuẩn nốt sần. Lượng M o
dùng để xử lý hạt cần 17g/ha, trong khi đó nếu bón vào đất cần
800g/ha. Bón vơi để giữ pH đất 6,2 có thể có tác dụng phịng chống
hiện tượng thiếu Mo.
1.6.5. Qui trình bón phân [6]

Để đạt năng suất cao, phẩm chất tốt thì đËu tương cần
được bón đầy đủ phân hữu cơ và các loại phân khoáng khác, qui trình
bón phân cho cây đậu tương như sau:
-Liều lượng: Liều lượng phân bón cho 1 ha
+ Phân chuồng: 6-10 tấn
+ Phân đạm: 20-40 kg đạm urê
+ Phân lân: 150-300 kg supe lân
+ Kali: 80-150 kg kali sunphat.

+ Vôi: 300-500 kg vôi bột.
Tuy nhiên tùy thuộc vào từng loại đất và mùa vụ khác nhau mà
tỉ lệ bón các loại phân là khác nhau.
-

Cách bón:
23


+ Bón tồn bộ vơi trước khi cày bừa lần cuối cùng.
+ Bón lót vào rãnh hoặc hốc tồn bộ phân chuồng cùng
toàn bộ lân và một nửa số đạm và phân kali. Sau khi bón lót phân
chuồng và phân vơ cơ cần dùng đất nhỏ lấp kín tồn bộ phân dày 23cm, tránh để phân tiếp xúc với hạt làm giảm tỉ lệ nảy mầm. Khi đất
quá quá ướt (độ ẩm đất > 90%) hoặc q khơ thì khơng nên bón lót
phân đạm và kali mà lại tập trung bón thúc sớm cho cây khi cây có 3-5
lá kép, để phân không ảnh hưởng đến tỉ lệ nảy mầm.
+ Bón thúc: Bón 1/2 lượng phân đạm và kali cịn lại vào lúc
cây có 3-5 lá kép. Bón cách gốc 3-5 cm sau đó xới vun lấp tồn bộ
phân.
1.7.Phịng trừ sâu bệnh hại đậu tương
Đậu tương là cây trồng dễ bị nhiều sâu bệnh phá
hại. Tại Việt Nam, qua điều tra cho thấy có tới hơn 70 loại sâu hại,
thuộc 34 họ, 8 bộ và có tới 17 loại bệnh, trong đó có tới 12-13 loại sâu
và 4-5 loại bệnh hại phổ biến ở nhiều vùng. [4]
1.7.1. Sâu hại:

Sâu hại trực tiếp ăn hại các bộ phận của cây như
thân , lá, quả chúng gây hại bằng cách làm rụng lá, cắn gẫy thân và ăn
hại quả hoặc một số loại chích hút nhựa cây làm cây yếu dần.
*Sâu xanh (Plathypena scabra F): khi trưởng thành

sâu non dài 2-3 cm màu xanh với sọc trắng nhạt ở hai bên cạnh. Sau khi
giai đoạn sâu non kết thúc, giai đoạn nhộng xảy ra trên hoặc ngay dưới
mặt đất hoặc dưới tàn dư cây. Sâu này ăn hại các bộ phận của cây như
lá, thân, quả.
24


*Sâu cuốn lá đậu tương( Lamprosema indicata): Sâu
cuốn lá đậu tương rất phổ biến. Sâu phá hại là bánh tẻ từ giai đoạn cây
non cho đến khi có quả non. Sâu non lúc nhỏ gặm ở mặt dưới của lá.
*Sâu xám:Sâu xám gây hại chủ yếu ở giai đoạn cây
non, vụ xuân thường gây hại nặng hơn vụ đông. Sâu thường cắn ngang
thân làm cho cây gãy và chết.
Biện pháp phòng trừ:
+ Làm đất kỹ để diệt nhộng và sâu non, chúng thường ẩn
nấp ở độ sâu cách mặt đất 4-6cm.
+ Mật độ thấp thì bắt thủ cơng vào sáng sớm hoặc chiều mát.
+ Mật độ cao phòng trừ bằng các loại thuốc như: Sugadan 30
G, Vifuran 3G…
*Ruồi đục thân
Sâu non phá hại nặng nhất vào tháng 3,4 và tháng 10,11(vụ
đông). Ruồi đục thân gây hại nặng nhất cho đậu tương đông và đậu
tương vụ thu đông (giai đoạn cây non)
-

Trưởng thành làm một loài ruồi nhỏ, sâu non phá hoại các

bộ phận của cây như: Trên thân, lá
-


Biện pháp phòng trừ:
+ Luân canh với các cây trồng khác như cây lúa nước, không

nên trồng liên tiếp các loại cây ký chủ của ruồi như cây đậu xanh, đậu
đen, đậu cô ve….
+ Xử lý đất trước khi gieo bằng các loại thuốc Basudin
+ Các loại thuốc có hiệu lực cao để phòng trừ ruồi như:
Angun 5ME, Golnitor 50WDG, Soka 25EC,…
25


×