Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN văn học về vấn đề số PHẬN CON NGƯỜI TRONG văn học GIAI đoạn đổi mới đến NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.01 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC....................................................................................................1
1. 1. “Con người cá nhân” trong văn học trước năm 1985:...............................2
2. Số phận “con người cá nhân” trong văn học giai đoạn từ 1985 đến nay:......5
2.1. Con người cá nhân với những bi kịch do chiến tranh gây ra..................5
2.2. Con người trong áp lực môi trường sống, khơng thể là chính mình:....12
2.3. Con người khát khao hạnh phúc, thèm khát yêu thương nhưng bất hạnh
và cô đơn.....................................................................................................16
KẾT LUẬN....................................................................................................21


1.

1. “Con người cá nhân” trong văn học trước năm 1985:
“Văn học là nhân học” (M. Gorki). Sự khái quát của câu nói này thật lớn, nó
bao trùm tồn bộ nội dung, mục đích sáng tác của văn học. Xuyên suốt quá
trình lịch sử văn học nhân loại, con người với tất cả đời sống tự nhiên và xã
hội, thân phận và cuộc đời của nó chính là đối tượng và cũng là nội dung đặc
trưng cơ bản nhất của văn học.
Mác đã từng nói rằng: “Con người khơng chỉ là một sinh thể tự nhiên, mà còn
là một sinh thể tự nhiên có tính ngừơi, tức là tồn tại cho chính nó”, “con người
phải tự biểu lộ và khẳng định như là một sinh thể đặc chủng trong tồn tại của
nó và trong tri thức của nó”. Câu nói của Mác có thể xem là tiêu chí để xác
định con người cá nhân.
Ngay từ buổi bình minh của văn học nhân loại, văn học dân gian đã đề cập đến
vấn đề con người. Họ miêu tả thế giới và con người bằng tưởng tượng và hư
cấu. Ở thể loại sử thi, cổ tích, ca dao đều có điểm chung xuất phát từ quan
điểm tư tưởng của cộng đồng nhân dân. Trường ca bất hủ Iliat và Odixe, hình
tượng Uylix, Asin,… đều thể hiện mẫu anh hùng lí tưởng thời đại. Đến những
câu chuyện cổ tích, số phận của nhân vật thể hiện ước muốn, khát vọng của
nhân dân lao động. Tuy nhiên, tính cách, tâm lí nhân vật rất ít được khắc họa,


miêu tả. Ca dao, dân ca đã bắt đầu đi vào nội tâm con người ở mặt tình cảm
riêng tư, ước muốn tự do cá nhân. Con người trong ca dao, dân ca đã dám bày
tỏ nỗi lịng của mình, phê phán những thói hư tật xấu của xã hội. Nói chung,
khi đề cập đến vấn đề con người, văn học dân gian vẫn mang tính ước lệ, một
chiều. Số phận nhân vật trong tác phẩm chỉ là một phương tiện, cách thức để
tác giả dân gian thơng qua đó bộc lộ quan điểm, tư tưởng thời đại. Con người
có xuất hiện nhưng đó là con người tập thể.
Con người với tư cách con – người – cá – nhân, một con người tự ý thức về cá
nhân mình thì trong những điều kiện xã hội lịch sử nhất định mới ra đời.
Lịch sử dân tộc ta luôn phải đối mặt với nạn ngoại xâm nên con người phải
gắn chặt mình với cộng đồng để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, bảo vệ
2


đất nước. Trong suốt trường kì văn học trung đại, mặc dù con người vẫn luôn
xuất hiện trong các tác phẩm nhưng do quan niệm “ con người vô ngã” mà con
người công dân luôn lấn át con người cá nhân. Con người vẫn chưa bứt mình
ra khỏi phạm vi tồn tại của tự nhiên và xã hội. Thơ văn sơ kì trung đại miêu tả
vẻ đẹp tâm hồn con người phong phú, dạt dào tình cảm trước thiên nhiên, cuộc
sống. Văn học hướng đến con người nhưng chưa phải đi vào từng cảnh đời,
từng số phận cụ thể mà là kiếp người nói chung với những băn khoăn, trăn trở
mang ý nghĩa nhân sinh- triết học, hay tập thể “dân đen” chịu nhiều thiệt thòi,
đau khổ lúc đất nước gặp cảnh phong ba. Đến nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu
thế kỉ XIX, xã hội Việt Nam có nhiều biến động lớn. Văn học cũng như vậy.
Trong lòng trào lưu nhân đạo chủ nghĩa rộng lớn vấn đề cá nhân con người
chính thức đựơc đặt ra. Văn học thời kì này khẳng định đời sống trần tục với
thế giới nội tâm phong phú và phức tạp với những khát vọng nhiều mặt của
con người.
Nhưng mãi đến khi có sự bùng nổ của Thơ mới và văn xuôi Tự Lực văn đồn
mới đánh dấu sự hình thành của quan niệm về cá nhân trong văn học. “ Chữ

Tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc lồi nơi đất
khách. Bởi nó mang theo quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá
nhân.” Những con người cá nhân mang nỗi buồn, sự cơ đơn. Con người cá
nhân tìm sự giải thốt trong tình yêu, trong thế giới nội tâm hay trong những
ứơc mơ về cải cách xã hội.
Do yêu cầu của hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, con người cá nhân trong văn
học giai đoạn 1945 đến 1975 là con người mang cái “ta” chung. Con người
thường phải tạm thời quên đi cá nhân mình để phục vụ cho nền độc lập dân
tộc. Con người không suy nghĩ riêng tư cho cá nhân mà chỉ dành tình cảm, suy
nghĩ cho vấn đề lớn lao thuộc vận mạng dân tộc, chế độ đương thời. Họ tìm
thấy niềm vui, hạnh phúc trong cuộc sống tập thể. Vì thế, các nhà văn thường
tập trung thể hiện phương diện tập thể, cộng đồng trong đời sống cá nhân. Chị
Sứ (Hòn Đất – Anh Đức), anh Núp ( Đất nứơc đứng lên – Nguyên Ngọc), chị
3


Út Tịch ( Người mẹ cầm súng), Tnú ,… mới chỉ là những “con người chiến sĩ”
chứ chưa phải là con người bình thường của cuộc sống thật. Các nhân vật ở
đây mang vẻ đẹp toàn diện. Vẻ đẹp ấy ln đựơc đặt trong những hồn cảnh
thử thách của cuộc chiến đấu. Nhà văn khơng nhìn họ dưới góc độ của con
người cá nhân mà là con người của dân tộc, đất nứơc. Tnú cũng như Mai, Dít,
Heng hay những dân làng Xơman đều “mn ngừơi như một” trong lí tửơng
và lòng yêu nứơc. Cái riêng hứơng đến biểu hiện cho cái chung của dân tộc.
Trong hồn cảnh bất bình thừơng – chiến tranh, nhà văn thừơng tránh nói đến
nỗi buồn đau, mất mát mà thừơng hứơng đến ngày mai tươi sáng, tốt đẹp. Điều
đó cần thiết trong giai đoạn lịch sử ấy song chưa đủ, nhất là khi thời đại đã
khác. Khi hồ bình lập lại, con ngừơi trở về với chính bản thân mình, trở về
với những địi hỏi, khát vọng vốn có của mình. Văn học cần có sự chuyển đổi
trong quan niệm về con ngừơi cá nhân. Con người cần đựơc miêu tả với đầy
đủ “ bản ngã” của mình cho dù bức tranh đựơc vẽ ra khơng cịn gam màu tươi

sáng nữa.

4


2. Số phận “con người cá nhân” trong văn học giai đoạn từ 1985
đến nay:
Nguyễn Đình Thi từng nhận xét trong văn học kháng chiến “nói chung chúng
ta chưa mơ tả đựơc sâu sắc tình yêu và những tình cảm trong đời sống riêng
của con ngừơi”. Nhưng từ năm 1986 trở đi, trong bối cảnh xã hội đã được dân
chủ hoá từ sau đại hội VI của Đảng, đời sống văn học đã mang một sắc diện
mới. Văn học từng bước trở lại vị trí, chức năng và bản chất của mình. Các
nhà văn có cái nhìn mới, đa dạng, nhiều chiều hơn về hiện thực. Hiện thực ấy
không chỉ là hiện thực cách mạng mà còn là hiện thực của đời sống hàng ngày
với tất cả những bề nổi lẫn bề chìm, với tất cả những quan hệ phức tạp của nó.
Và con người lúc này là điểm xuất phát, là đối tựơng khám phá chủ yếu, là cái
đích cuối cùng của văn học. “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm
mà tâm điểm là con người”. Con người cần đựơc khám phá tất cả các mặt tự
nhiên của nó: hạnh phúc, khổ đau, cao cả, thấp hèn…trong các mối quan hệ
phức tạp trong đời sống.
Để hiểu rõ vấn đề số phận con người cá nhân trong văn học giai đoạn 1986
đến nay, bài viết dựa trên sự tìm hiểu, nghiên cứu về ba tác phẩm: “ Nỗi buồn
chiến tranh – Bảo Ninh”, “ Thời xa vắng – Lê Lựu” và “ Cánh đồng bất tận –
Nguyễn Ngọc Tư”. Con người cá nhân được đề cập trong đó mang những bi
kịch lớn: lạc lõng trong cộng đồng người, khơng được là chính mình và hạnh
phúc là điều khó nắm bắt nhất mà họ phải trải qua.

2.1.

Con người cá nhân với những bi kịch do chiến tranh gây ra


Văn học giai đoạn 1986 đến nay vẫn viết về chiến tranh nhưng không phải lặp
lại quá khứ mà bổ sung cho quá khứ. Các nhà văn đã phản ánh không hề né
tránh tất cả sự tàn khốc của chiến tranh, đi sâu miêu tả con người với những số
phận khác nhau trong cuộc chiến. Nếu đề cập đến khía cạnh này của văn học
Việt Nam từ 1986 trở đi không thể không kể đến tác phẩm “ Nỗi buồn chiến
tranh” của Bảo Ninh. Một cuốn sách hơi khó đọc – đương nhiên, khi được viết
5


với một kĩ thuật khá lạ, thời gian đồng hiện, hịa trộn giữa q khứ và hiện tại
chứ khơng theo một trật tự kể chuyện thông thường.
“Nỗi buồn chiến tranh” khơng chỉ lạ về hình thức mà cịn mới mẻ cả về nội
dung so với thời điểm nó ra đời. Có thể nói, đây có thể là cuốn sách đầu tiên
của Văn học Việt Nam khai thác chiến tranh dưới góc độ cá nhân. Nếu các tác
phẩm ra đời trước “Nỗi buồn chiến tranh” được viết với góc độ tập thể, cái
riêng được đặt trong cái chung, hòa tan vào cái chung, ngùn ngụt ý chí cứu
nước như “Đất nước đứng lên”, “Người mẹ cầm súng”,…thì Bảo Ninh lại có
cái nhìn sâu hơn về thân phận con người trải qua trận mạc, sự mất mát của cá
nhân trong thời chiến.
Qua Kiên, cụ thể là qua ý thức và vô thức của anh, người đọc gần như được
trực tiếp tham gia vào chiến tranh, nhìn thấu những cuộc giết chóc kinh hoàng,
đẫm máu, chứng thực sự suy tàn, bản năng khát máu của con người. Từ những
cảm giác, ấn tượng, mộng mị, hoang tưởng của Kiên, hiện lên một vũ trụ chiến
tranh u uẩn, ngột ngạt, một vũ trụ “mưa” mù mịt: “Suối lũ rền rĩ. Mưa tầm tã
trong bóng đêm”. Bằng một chuyển động từ ngoài vào trong, người đọc rời
thực tế cuộc chiến tranh để đi vào thế giới nội tâm của Kiên. Đó là thế giới của
buồn bã, cơ đơn, mất niềm tin – những tình cảm bị coi là “tiêu cực”, chưa bao
giờ tồn tại trong văn học chiến tranh chính thống đã được Bảo Ninh mơ tả một
cách tinh tế “Kiên thu mình trong tấm tơi lá, bó gối nhìn làn nước cuồn cuộn,

khơng muốn gì và khơng nghĩ ngợi gì cả” và hàng ngày “Kiên có thể ngồi im
lìm bên suối hàng giờ, ảm đạm bng mình theo dịng ưu tư buồn ngủ. Mùa
thu não nề lê thê, mùa thu ê ẩm”.
Bảo Ninh thể hiện sự bi quan của cá nhân đối với cuộc chiến: chiến tranh
khơng chỉ có vinh quang dù đó là cuộc đấu tranh vì chính nghĩa, chiến tranh
tóm gọn lại là sự chết chóc, hủy diệt; “chiến tranh đã làm người ta hư đi hơn là
làm người ta tốt hơn” (Cỏ lau – Nguyễn Minh Châu). Vì chiến tranh đẩy con
người về hai phía: ta và địch. Con người phải hành động theo một mục đích
rạch rịi. Đó là giành chiến thắng cho dân tộc. Cho nên “từng có một thời sự
6


chém giết đã trở thành hành động tự nhiên tất yếu của con người”. Con người
quen với tiếng súng, âm thanh chát chúa đã quá quen tai, siết cò súng trở thành
một thói quen: “Tơi vẫn tự nhủ là tránh giết người bằng dao và lê, nhưng đã
quen mất tay rồi”; “Không phải bắn nữa mà là tàn sát”…Bảo Ninh đã đi vào
chiều sâu của con người để hiểu rõ, nắm bắt được một mất mát lớn, một bi
kịch mà con người phải gánh chịu trong chiến tranh: mất mát nhân tính.
Và cho dù nhiều người trở về sau chiến tranh may mắn không phải mang
những vết thương thể xác nhưng vết thương trong lòng của họ dường như cứ
bị ngốy sâu mãi và ln rỉ máu. Họ, những con người đã đi qua năm tháng ác
liệt của chiến tranh, trở về với cuộc sống hịa bình nhưng dường như họ đã
khơng bao giờ cịn là chính mình nữa. Chiến tranh đã lấy đi của họ tuổi xuân,
tình yêu, sự bình yên trong tâm hồn, và cả niềm tin yêu cuộc sống. Họ lại đối
diện với một bi kịch mới: trở thành con người lạc lõng, cô đơn trong cộng
đồng.
Chiến tranh, như đã nói dù có là một cuộc chiến tranh vì chính nghĩa nó cũng
giết chết bao nhiêu điều tốt đẹp trong con người, giết chết bao điều tốt đẹp của
một đời người. Trong chiến tranh, con người nhỏ bé và mong manh biết bao
nhiêu. Họ có thể bị hủy diệt trong tích tắc mà có thể khơng kịp nhắn nhủ lời

nào với đồng đội, người thân. Và những con người đi qua cuộc chiến tranh
khốc liệt ấy, nếu may mắn được trở về dù nguyên vẹn hay hao khuyết cũng
khó lịng thốt khỏi những ám ảnh ghê rợn của chiến tranh. Tâm hồn họ có lẽ
chẳng bao giờ cịn có thể lấy lại được sự bình n, tĩnh lặng mà đơi khi ta lầm
tưởng bởi vẻ ngồi trầm tư của họ. Cho nên đôi khi chỉ cần một thứ mùi gì đó
khơng rõ ràng, một hình ảnh gì đó là cũng có thể kéo ngược tâm trí của họ về
ngay giữa những ngày tháng ngập ngụa trong bom đạn, khói súng “Mùi hơi
hám pha tạp của đường phố bị cảm giác nồng lên thành mùi thối rữa. Tôi
tưởng mình đang đi qua đồi “Xáo Thịt” lê liệt người chết sau trận xáp lá cà
tắm máu cuối tháng chạp 72” và khi đang xem một nghệ sĩ kịch câm uốn lượn
thâm mình một cách quằn quại, gào thét một cách âm thầm, thống thiết nỗi đời
7


tuyệt vọng, Kiên như choàng tỉnh, chợt nhớ lại một cách rành rọt và không
đúng lúc, nhưng sáng rõ như có đèn rọi câu chuyện tình bi thảm và mơng muội
giữa các đội viên trinh sát của anh với ba cô gái.
Trong chiến tranh, Kiên tồn tại hai cái tôi, một cái tơi có khi kiên cường, rắn
thép và một cái tôi đôi khi nhu nhược hèn nhát. Sau chiến tranh, ở Kiên cũng
tồn tại hai cái tôi, một cái tôi đang sống và một cái tôi không ngừng đang nhớ
lại, trở về quá khứ, có điều hai cái đó thường khơng đồng nhất. Cái tơi đang
sống thì dường như đã khơng cịn chút sinh lực, khơng cịn chút niềm tin yêu
vào cuộc sống trong khi cái tôi “hồi tưởng” thì hết sức sống động, dạt dào,
hừng hực nhưng lại là cái hừng hực tái tê, đau đớn. Và cả hai cái tơi ấy gặp
nhau ở chỗ “chỉ có nỗi buồn, mênh mang nỗi buồn- nỗi buồn được sống sót”.
Hóa ra cuộc sống thật đáng quý nhưng cuộc sống sau khi đã lăn lộn bao năm
giữa chiến trận lại là một điều bất hạnh và cay đắng. Chiến tranh luôn ám ảnh,
quấy phá tâm trí Kiên, khiến anh vĩnh viễn sống cùng lúc giữa hai đầu của thời
gian: quá khứ và hiện tại. Nhưng có lẽ dĩ vãng lại có một sức mạnh ghê gớm
hơn cả. Ngay khi Kiên quyết định tiếp tục sống ‘những ngày tháng phía

trước”, cuộc đời anh vẫn cho ta cái cảm giác như càng ngày càng bị đẩy lùi, bị
xô ngược về với quá khứ qua hình ảnh tuyệt đẹp của “con thuyền bơi ngược
dịng sông”. Hơn thế nữa, với Kiên, cái đang diễn ra hay sẽ diễn ra, tất cả đều
thuộc về quá khứ, một thứ quá khứ vĩnh cửu “Đối với tôi, tương lai đã nằm lại
ở phía sau xa kia rồi”. Các đoạn đời cứ đan xen, pha trộn lẫn nhau để cuối
cùng biến thành những vùng không gian mới, những cùng “quá khứ chưa từng
có”. Như một khởi đầu tuyệt đối, chiến tranh là cội nguồn những mất mát hệ
lụy đời anh. Kiên thuộc về loại người mà chính anh gọi là “không tài nào nhấc
chân ra khỏi miệng hố của chiến tranh, loại người bị kí ức quá kinh khủng đè
bẹp và làm cho suy đốn”. Sống ở thời bình nhưng trong cách nhìn thời thế,
trong lối sống, niềm vui hay nỗi buồn, hạnh phúc hay đau khổ của anh, đâu
đâu cũng nghe tiếng vọng của cuộc chiến giờ đã là quá khứ.

8


Trong “Nỗi buồn chiến tranh”, những mất mát và đau thương mà con người
phải chịu đựng trở thành một chiều kích khơng thể quy giản. Khơng lẩn tránh
hoặc trừu tượng hóa chiều kích đó, Bảo Ninh cụ thể hóa nó thành những dòng
tâm tư dằn vặt khủng khiếp và ám ảnh dai dẳng suốt quãng đời hậu chiến. Dẫu
vậy trong anh, những đau đớn của cuộc sống hiện tại còn xuất phát từ sự lạc
lõng của anh trước “nền hòa bình thản nhiên thời hậu chiến”. Kiên cảm thấy
rằng “cái cảm giác hòa nhập, cảm giác đồng điệu ngày mới rời ngũ trở về anh
thường thấy khi đi giữa phố xá, giữa mọi người giờ đây khơng cịn nữa. ám
ảnh cơ đơn ln bám gót Kiên: cuộc sống thời hậu chiến không dung nạp anh.
Trong con mắt những người xung quanh, anh chỉ là một gã “nhà văn phường”
gàn dở. “Càng ngày Kiên càng có cảm giác rằng khơng phải mình đang sống
mà đang bị mắc kẹt lại trên cõi đời này”. Hội chứng chiến tranh đã làm anh
không thể tách mình với quá khứ.
Ngay cả mối tình dường như là hằng số với Phương cũng bị cuộc chiến đó

chia đơi “Đời anh chỉ có hai tình u thơi. Một là mối tình của anh và Phương
trước chiến tranh. Và sau chiến tranh là một mối tình khác, cũng giữa anh với
nàng”. Và cả hai mối tình ấy đều chẳng đi đến đâu. Kiên không chỉ mất đi tuổi
trẻ trong chiến tranh, mất đi sức sống hừng hực của người trai trẻ sau chiến
tranh mà còn mất mát nhiều hơn thế thời hậu chiến. Mất đi tình u với
Phương có khác chi là mất đi tất cả, sau chiến tranh, khơng cịn ai thân thích,
khơng tìm đâu thấy niềm u sống của đời mình, anh chỉ cịn Phương như là
cứu cánh duy nhất của đời mình nhưng tuyệt nhiên khơng thể cịn có một tình
u đẹp như thế giữa hai người như trước khi Kiên nhập ngũ. Tình yêu tan vỡ
là gáo nước lạnh dội vào những tàn lửa sắp tắt cuối cùng của trái tim Kiên. Và
Kiên đã tìm sự giải thốt của mình trong những trang viết, những trang viết về
chính anh, về thế hệ của anh, thời đại của anh.
Trong “Nỗi buồn chiến tranh”, ngồi Kiên cịn có hình ảnh của cha anh. Hình
tượng Kiên và cha anh trước hết cần được hiểu như những số phận dị thường,
những thực thể cô dơn và cá biệt mà một thứ “thiên mệnh vô danh, thiêng
9


liêng và cao cả, song tuyệt đối bí ẩn” đã buộc họ phải trải qua những cảnh
huống đầy trái ngược của lịch sử. vì thế cơ độc và số phận dị thường ấy lúc
giúp họ nhìn thấy được những góc khuất của lịch sử. Cái nhìn của họ khơng
phải là sự phản chiếu cái nhìn cộng đồng về lịch sử mà nó là một cái nhìn, một
suy nghiệm cá nhân về lịch sử. Chỉ có điều, nếu như cha của Kiên sau khi đã
thấu thị những đe dọa của một thời đại mới đối với cái đẹp, ông dừng lại ở bên
này cánh cửa của lịch sử (cái chết về tình thần – đốt tranh – và thể xác trước
chiến tranh) thì Kiên lại đi theo một hành trình khác: dấn thân vào chiến tranh,
trải nghiệm những cảnh huống kinh hoàng của chiến tranh và ra khỏi chiến
tranh với gánh nặng của kỉ niệm đau đớn.
Trong chiến tranh, ngoài số phận của những người lính trở về từ trận mạc cịn
hiện lên hình ảnh của những người phụ nữ. Người phụ nữ là hiện thân của

tình yêu – đối âm của chiến tranh. Tình yêu gắn liền với cái đẹp, với nhân tính,
là cái đối lập với bạo lực hủy diệt nhân tính. Nếu như chiến tranh đánh thức
trong Kiên phần tàn bạo, biến anh thành cỗ máy, “âm thầm và mệt mỏi” –
nghĩa là vô cảm – của sự giết chóc thì những người phụ nữ từ Hạnh cho đến
Phương, đến người nữ y tá trong Điều trị 8(một hóa thân của Phương) lại đánh
thức trong anh tình u, một tình u mà cho ơng tới tận cuối đời anh, vĩnh
viễn không trọn vẹn. Người phụ nữ là ánh sáng cứu rỗi cuộc đời con người
nhưng đồng thời cũng là nạn nhân của sự hủy diệt. Điều đó được biểu thị tập
tring trong hình tượng Phương, người phụ nữ xuyên suốt cuốn tiể u thuyết. đối
với Kiên, Phương là người đánh thức tình yêu trong anh thời tuổi trẻ, là người
sức mạnh chập chờn trong quãng đời chiến trận của anh, nhưng chiến tranh
không “bỏ lỡ” bất cứ một người nào tồn tại trong quỹ đạo của nó. Phương bị
làm nhục ngay trong giờ khắc khởi đầu của cuộc chiến và mỗi tình của họ mãi
mãi là một mối tình đau khổ khơng thành với những vết thương khơng thể
chữa lành trong cuộc sống thời bình. Cái chết của những người lính, sự tan vỡ
của tình u và sự chà đạp nhân phẩm người phụ nữ là những biểu hiện sức
mạnh hủy diệt của chiến tranh, sức mạnh chà đạp lên đời sống con người.
10


Trong khi đó, cuộc đời Kiên giống như một hành trình đau đớn của một số
phận kì dị tìm lại quá khứ của mình. Suốt dọc hành trình sống của Kiên, số
phận giống như một thứ lực li tâm hất văng những người thân thiết nhất ra
khỏi cuộc đời anh. Hoặc họ lặng lẽ rời khỏi anh (mẹ anh, Phương,..) hoặc cái
chết giật họ khỏi cuộc đời anh (cha, dượng và những người đồng đội,…).
Những cái chết và khoảng trống tâm hồn để lại sau những cái chết chính là
nguồn thúc đẩy cuộc hành trình thuộc về quá khứ của Kiên. Tồn bộ cuộc đời
hậu chiến của Kiên bị trơi đi trong cuộc hành trình “đi tìm thời gian đã mất”.
Tóm lại, số phận của con người trong chiến tranh và sau chiến tranh đều là
những số phận bi đát, sầu thảm nhất . Trong chiến tranh, họ mất đi tuổi xuân,

mất đi những đồng đội thân yêu, mất đi tình u và thậm chí cả cuộc sống của
mình. Trở về sau chiến tranh, họ khao khát tìm lại chính mình để hịa mình vào
cuộc sống hịa bình và qn đi quá khứ với những kỉ niệm “quên thật là khó”,
chẳng biết đến bao giờ lịng mình mới có thể ngi lại, trái tim mình mới thốt
khỏi bàn tay xiết chặt của những hồi ức chiến tranh. Những kỉ niệm có thể thật
êm đềm, có thể là ác hại nhưng đều đã để lại những vết thương mà tới bây giờ
một năm đã qua, hay mười năm, hai mươi năm nữa vẫn cịn đau, đau mãi.
Cuối cùng, hãy mượn chính những trăn trở của Kiên để nói về cuộc đời anh
“Nhưng mà tâm hồn tơi thì đã ngưng bước lại ở những tháng ngày ấy chứ
không tài nào mà đổi đời nổi như bản thân đời sống của tôi. Một cách trực giác
tôi luôn nhận thấy quanh tôi quá khứ vẫn đang lẩn khuất. Đêm đêm, giữa
chừng giấc ngủ tôi nghe thấy tiếng chân tơi từ những thuở nào đó rất xa rồi
vang hè phố lát đá (…) Ôi năm tháng của tôi, thời đại của tôi, thế hệ của tôi!
Suốt đêm nước mắt tôi ướt đầm gối bởi nhớ nhung, bởi tiếc thương và cay
đắng ngậm ngùi”.
Là một thành viên trong cộng đồng, mỗi người sẽ phải chịu áp lực của môi
trường mà ta đang sống. Sự tác động của mơi trường ấy đối với sự hình thành
nhân cách con người rất lớn. Con người có thể trưởng thành hơn trong môi

11


trường đó, cũng có khi chính họ tự đánh mất bản thân, khơng thể sống thật với
chính mình.

2.2.

Con người trong áp lực mơi trường sống, khơng thể là chính

mình:

Nhân vật Giang Minh Sài trong “Thời xa vắng” của Lê Lựu là một con người
mang bi kịch ấy gần như cả cuộc đời mình.
Khi đọc tác phẩm, ta nhận thấy Sài trước hết vẫn là con người công dân, con
người xã hội, nhân vật có số phận chung với dân tộc. Cách mạng tháng Tám
thành công, những con người nghèo khổ, lực lượng chủ yếu của cách mạng đã
vùng dậy làm chủ dân tộc. Sài cũng như mọi người hăng hái tham gia các
phong trào ở nông thôn. Từ thân phận nô lệ, một cậu bé Sài ốm eo, sẵn sàng
đổi sức lao động chỉ mong kiếm miếng ăn, bỗng chốc hóa thân thành niềm tự
hào, hy vọng của cả làng. Sài xông xáo, chỉ huy mọi người trong lúc nước sôi
lửa bỏng – vỡ đê. Trong cuộc chiến bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc, Sài đã
sống, chiến đấu, lập chiến cơng như một anh hùng. Sài cịn có những bước tiến
xa trên con đường học vấn. Anh trở thành thần tượng của mọi người. Nhưng
con người thật sự của Sài là con người đầy bi kịch.
Hơn 10 tuổi đầu, Sài đã là nạn nhân của tập tục tảo hôn ở làng Hạ Vị - một tệ
nạn gây đau khổ cho con người. Nạn nhân của tệ nạn tảo hơn xét đến cùng là
từ sự nghèo đói. Do nghèo đói mà cha mẹ Sài “chỉ mong cưới một cô con dâu
hơn tuổi, khỏe mạnh để đảm đương công việc”. Đó là bất hạnh đầu tiên của
Sài. Sài ý thức được tình trạng bất hạnh của bản thân nhưng chỉ biết phản ứng
theo kiểu trẻ con.
Bi kịch cá nhân của Sài chỉ thực sự khi con người công dân đã được khẳng
định, tức là Sài đã ý thức được vai trị xã hội của mình. Hai con người này
ln đấu tranh giành giật với nhau trong Sài, phần lấn át là con người xã hội,
phần thất bại là con người cá nhân. Lúc đầu, trong phạm vi gia đình, Sài là
con, là em, là cháu nên phải nghe lời người lớn. Phạm vi được mở rộng dần và
sự chi phối của xã hội đến Sài càng lớn hơn. Trong làng xã, Sài giữ vai trò một
12


liên đội trưởng. Sài sợ dư luận nên phải thể hiện mình là con người gương
mẫu. Vì thế, mới “mười bốn tuổi đầu đã phải sống hai cuộc đời: thật và giả…

Sài cứ cố dồn sức lực, cố phồng mình lên để cái phần sống ở chỗ đông người,
chỗ ban ngày được khen ngợi trầm trồ, còn ban đêm với riêng mình, nó tự giết
đi những xao xuyến thèm khát một hạnh phúc thực sự.” Sau này, chiến tranh
nổ ra, Sài lên đường nhập ngũ. Đây là giải pháp tình thế để anh thốt khỏi tình
trạng hiện tại. Song thực tế, Sài chưa thể thoát ra khỏi bi kịch mà dường như
càng bị dấn sâu thêm vào bế tắc. Đi bộ đội, bước vào môi trường xã hội rộng
lớn, anh trở thành nạn nhân của sự định kiến hẹp hòi từ cấp chỉ huy. Anh đơn
độc trong quân đội, chỉ có thể sống thật lịng mình qua những trang nhật kí. Để
được đứng vào hàng ngũ của Đảng, Sài tiếp tục phải sống hai con người. Từ
lúc này trở đi, cuộc đời Sài chịu một sự chi phối khác: những mệnh lệnh, chỉ
thị của cấp trên. Xem xét những chặng đường đời mà Sài trải qua, chúng ta có
thể nhận thấy khi con người xã hội càng trưởng thành, càng được khẳng định
thì con người cá nhân càng rơi vào bi kịch đau đớn hơn.
Thật ra mọi người đều rất yêu thương Sài nhưng do mang nặng đầu óc gia
trưởng, đầu óc mang định kiến về một thứ chủ nghĩa tập thể cứng nhắc, ln
muốn hóa tan cái cá nhân vào cái tập thể nên họ đã vơ tình làm anh đau khổ.
Trong một xã hội mà con người được đặt vào vị trí chủ thể, kiểu quan tâm đó
khơng cịn phù hợp nữa.
Thơng thường hồn cảnh tạo ra số phận con người. Trong xã hội mà mọi cái
riêng tư của cá nhân đều bị xem là ích kỷ, là chủ nghĩa cá nhân, mọi tiếng nói
riêng của con người, mọi tình cảm của con người đều bị đè bẹp và chà đạp. Từ
nhỏ Sài đã phải sống theo sự sắp đặt của cha mẹ, rồi đến khi đi bộ đội anh
cũng phải tuân theo sự sắp đặt của tổ chức: tổ chức lại đề nghị anh phải yêu
vợ, yêu vợ theo đúng cách. Cũng chỉ vì những dị nghị xã hội, vì gia đình anh
u Hương nhưng khơng thể đến được với Hương. Chính cái hồn cảnh, tập
qn, thói quen thuộc di sản của xã hội cũ đã tạo nên một Giang Minh Sài nhút
nhát, yếm thế, không dám sống là chính mình.
13



Có thể nói con người khơng thể thốt khỏi sự tác động của hồn cảnh. Đúng,
nhưng chưa đủ. Chính tính cách cũng sinh ra số phận. Để lí giải cuộc đời đầy
bi kịch của Sài ta có thể kể ra một số nguyên nhân, song điểm cốt yếu là ở
chính bản thân nhân vật. Anh tự đánh mất mình. Sài luôn khuất phục, chịu
đựng, rụt rè, yếu đuối, không dám sống thật với cảm xúc của mình. Con người
đó chẳng khác gì một nhánh cây sống trong khung giàn, khơng thể vượt ra
ngòai khung giàn. Anh là sản phẩm con người của nền nông nghiệp lạc hậu,
cái xứ sở lúc nào cũng là địa phương tiên tiến điển hình được tuyên dương
nhưng liên tục phải cứu tế.
Những năm sống trong quân ngũ, mất mát, gian khổ, hi sinh, tình đồng đội đã
rèn luyện cho Sài bản lĩnh vững vàng hơn trong cuộc sống. Anh nhận ra
nguyên nhân bi kịch của qng đời trước “khơng ai có thể bằng cách gì bắt tôi
phải trở về sống với một người mà cả đời tơi khơng đủ can đảm để nói tiếng
u”. Nửa đời phải sống hộ ý định người khác, yêu cái yêu của người khác –
do những ràng buộc của danh dự dịng họ và cộng đồng, giờ đây, khi thốt ra
khỏi sự ràng buộc với Tuyết, Sài khao khát bù đắp cho bi kịch đời mình và anh
đã vội vã đến với Châu. Tình u này khơng ai can thiệp nhưng Sài vẫn rơi
vào bi kịch lớn: yêu cái mà mình khơng có. Bi kịch này chấm dứt ở anh tất cả:
hồi bão, ước mơ tình u, hạnh phúc, danh dự và cả lòng tự trọng. Trong
chiến tranh, Sài là một anh hùng nhưng trong cuộc đời anh là một kẻ chiến bại,
mong tìm hạnh phúc chân chính nhưng khơng bao giờ với tới.
Ở Sài ln có mâu thuẫn giữa con người xã hội và con người cá nhân; mâu
thuẫn giữa sự thành đạt, khẳng định vai trò xã hội và bi kịch mà anh phải gánh
chịu; mâu thuẫn giữa nghĩa vụ và quyền lợi con người.
Qua cuộc đời đầy bi kịch của Sài, một câu hỏi mà Lê Lựu muốn đặt ra cho tất
cả chúng ta: Tại sao con người lại phải chịu bi kịch? Những sức mạnh nào cản
bước con người vươn tới hạnh phúc? Làm thế nào để có hạnh phúc thật sự?
Với tiểu thuyết “Thời xa vắng”, Lê Lựu cịn đề cập đến khát vọng tình yêu
chân chính của con người. Là một người lính với vẻ ngồi thơ mộc khơ khan
14



nhưng thực chất bên trong con người Sài lại là một người đang vùng vẫy với
niềm khát khao được yêu, được sống với cảm giác thực của lịng mình. Khơng
chấp nhận tình yêu do cha mẹ sắp đặt anh đâm ra ghét bỏ người vợ, ghét đến
mức không đội trời chung, đến cái gì cũng riêng rẽ tách bạch. Cũng vì khơng
muốn phải nhìn thấy mặt vợ mà anh đã tự nguyện đi bộ đội và nhường suất
học lớp 10 cho Hương. Anh đã u Hương cơ bạn học trị. Tình u của họ
thật đẹp và làm cho lịng người phải xúc động. Họ đã yêu nhau mặc những lời
dị nghị của xã hội, mặc gia đình, mặc cho Sài đã có vợ. Cảm động nhất là chi
tiết sau khi Sài đi bộ đội anh nhớ và yêu Hương đến mức tự bịa ra những cảnh
gặp gỡ, những buổi hẹn hò cùng đi ăn kem bên bờ hồ; mơ màng đến những
niềm hạnh phúc khi tình yêu của hai người được mọi người tác thành và chấp
nhận. Đọc những dòng nhật kí mà Sài bịa ra chính ủy đã phải kêu thốt
lên :“một thằng điên”. Thế nhưng cho dù tình yêu của họ có mạnh mẽ đến đâu
đi nữa cũng không vượt qua được rào cản của xã hội, của những phong tục tâp
quán. Hai người chỉ biết yêu nhau trong thầm lặng và đau khổ. Dù rất yêu
Hương nhưng anh không dám bỏ vợ để đến với Hương, đến với tình u chân
chính của mình chỉ đơn giản một điều: bỏ vợ thì cịn gì tư cách chính trị, tư
cách của một đảng viên. Rồi khi chiến tranh kết thúc, lúc này thì anh đã có thể
bỏ Tuyết nhưng cũng khơng thể đến với Hương vì Hương đã có chồng và con.
Hương vẫn yêu Sài, ngay cả khi Sài đang đang ở chiến trường Hương luôn
sống với hai con người: một con người của gia đình, của chồng con; và một
người tình chung thủy, cơ ln dõi theo hình bóng Sài qua các mặt trận, qua
những bìa báo. Rồi khi Sài trở về và li dị vợ Hương một bên chăm sóc cho gia
đình mình, một bên lén lút cho từng bữa ăn của Sài. Có nỗi đau nào lớn hơn
khi hai người yêu thương nhau mà không thể lấy được nhau? Giá mà Sài mạnh
mẽ hơn, quyết đoán hơn và đặc biệt là dám đứng lên để giành lấy và bảo vệ
tình yêu của mình! Nhưng bi kịch cũng chính là ở đó!
Nói đến bi kịch trong tình u có kẽ ta khơng thể khơng nói đến Tuyết. Lấy

chồng từ lúc 13 tuổi – cái tuổi của sự ngây thơ vụng dại và đặc biệt là không
15


được chồng yêu thương. Cô dường như sống trong lặng lẽ, sống trong cô đơn
tủi hờn. Thà Sài dứt bỏ cơ sớm cịn hơn để cơ mịn mỏi mong chờ ở người
chồng một chút đói hồi, một chút bố thí của tình cảm cịn hơn để cơ chết ngắt
vì sự ghẻ lạnh của người chồng. Là một người phụ nữ, cô cũng cần yêu và
được yêu như Hương, như Châu và bao người phụ nữ khác; nhưng chưa kịp
biết mùi vị tình u đầu đời như thế nào cơ đã bị cha mẹ ép gã làm dâu nhà
người và suốt đời sống trong niềm khát khao một chút tình cảm dư thừa của
người chồng mà cũng không thể được.
Không chỉ nhân vật Sài mà cả Tuyết, Hương đều không được sống như mình
mong muốn. Cái tơi cá nhân, những khát vọng sống giản dị chân thực của họ
bị lấn át, bị trói buộc bởi sức ép dục vọng của những người xung quanh, bởi
những định kiến chung. Họ không quyết định được số phận của mình và phải
hứng chịu mọi khổ đau. Chính vì thế, tính cách nhân vật trở nên gần gũi và
chân thực và ý nghĩa nhân văn.
Tác phẩm “Thời xa vắng” để lại cho ta bài học thấm thía về mối quan hệ giữa
cá nhân và tập thể, bài học về bản lĩnh cá nhân: phải sống thực với lịng mình,
sống thực với con người mình, dù hồn cảnh nào cũng khơng nên để xảy ra
tình trạng “bao cấp về tư tưởng”, phải khẳng định được bản ngã của mình.
Hạnh phúc là điều mà con người ln theo đuổi. Bất cứ ai trong tâm hồn cũng
luôn khát khao yêu thương và được yêu thương. Nhà văn quan tâm đến số
phận từng cá nhân là quan tâm đến khát vọng chính đáng, ln cháy bỏng này
của họ.

2.3.

Con người khát khao hạnh phúc, thèm khát yêu thương nhưng


bất hạnh và cô đơn
Đọc truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”chúng ta không chỉ hiểu thêm cuộc sống,
con người Nam Bộ mà bắt gặp trong đó những trăn trở của nhà văn về hạnh
phúc con người. Sống trên đời, bên cạnh những nhu cầu tối thiểu về vật chất
để tồn tại, con người cịn có một nhu cầu khơng kém phần quan trọng, đó là
nhu cầu yêu thương, và được yêu thương. Mà nơi nương tựa vững vàng nhất
16


ấy chính là gia đình. Ấy thế nhưng, những gì mà các nhân vật trong truyện
ngắn “ Cánh đồng bất tận” trải qua lại khiến chúng ta khơng khỏi xót xa, đau
đớn. Họ khát khao đến cháy bỏng tình yêu thương nhưng hạnh phúc lại là một
ảo ảnh. Điều đáng lưu tâm đó lại là những đứa trẻ đang ở lứa tuổi cần tình u
thương của cha mẹ để hồn thiện bản thân hơn bao giờ hết. Nương, Điền sớm
dối mặt với cuộc sống khơng có một mối giao hịa thân tình nào. Chúng cơ
đơn trước thiên nhiên, trong xã hội, cộng đồng và cơ đơn trong cả gia đình của
mình.
Thảm trạng nghèo nàn của đời sống vật chất là nguyên nhân dẫn đến sự tan vỡ
một gia đình. Một cuộc sống tù túng, nghèo nàn đã khiến người mẹ gục ngã
trước sự cám dỗ để rồi ra đi mãi mãi, rời bỏ gia đình của mình. Hai chị em
Nương và Điền, một đứa mới mười tuổi, một đứa chín tuổi đã phải sống trong
cảnh thiếu vắng tình thương của người mẹ. Khơng chỉ thiếu sự chăm sóc của
mẹ mà cả sự chở che, quan tâm của cha, hai chị em cũng khơng có được. Từ
một con người rất coi trọng tình thương, sẵn sàng làm tất cả để người thân
sống trong hạnh phúc, vì sụp đổ niềm tin mà người cha hồn tồn biến đổi tâm
tính. Người cha mải miết chạy theo hành trình trả thù đàn bà, trả thù đời cực
kì nhẫn tâm.
Đỉnh điểm của lịng thù hận và tận dụng cơ hội để trả thù đời khi người cha
ngọt nhạt để một người đàn bà góa chồng đi theo mình, nhưng khi người đàn

bà ơm gói đồ cuối cùng te tái chạy ra thì người đã giục hai đứa con chèo ghe
xa khuất. Sự chưng hửng, bẽ bàng của người đàn bà tưởng mái ấm đã gần kề,
bị tiếng cười hoang dại, cay đắng của gã đàn ơng từng bị phụ bạc, nuốt chửng:
“cha tơi tính tốn rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng,
và bỏ rơi họ đúng lúc. Có người vừa bán xong cái qn nhỏ của mình. Có
người vừa nói xong những lời dứt tình với chồng, con. Có người vừa phũ
phàng chia xong gia sản, có cô gái sắp về nhà chồng…Cha mang họ đi một
quãng đường vừa đủ để người ở lại nhìn rõ chân dung của sự phản bội, sau đó
người đàn bà bị hắt lên bờ. Con đường quay về bị bịt kín”.
17


Vơ hình chung, hai đứa con tội nghiệp của gia đình tan vỡ ấy cũng bị cuốn vào
vịng xốy của hận thù. Sống cuộc đời du mục, mưu sinh trên sông nước,
không được học hành lại thiếu vắng sự quan tâm, dạy dỗ, lũ trẻ phải tự hiểu
lấy cuộc sống để tồn tại. Trên cánh đồng ấy chỉ có những con người sống theo
bản năng sinh tồn. Cánh đồng dường như rộng mênh mơng vì sự thiếu vắng
một tình thương. Hơi ấm gia đình là thứ mà Nương và Điền đã khơng có từ
lâu.. Sợi dây mong manh giữ cho mối quan hệ của cha và con tồn tại chỉ là bầy
vịt, cái ăn, chiếc ghe rách.
Dù sống trong hoàn cảnh nào, con người cũng luôn khao khát được yêu
thương, được sống hạnh phúc. Đó là động lực giúp con người vượt lên hồn
cảnh. Đó là chất người của con người. Lũ trẻ ln khao khát một cuộc sống
bình thường. Chúng thèm được trồng cây, thèm có nhà, thèm đi đến trường,
được đưa tiễn, được nhận những cái vẫy tay, nhận q q và được u
thương, thèm có ơng nội để nhớ… Những gì bình gị nhất của một con người
khi sống trong cộng đồng mà hai chi em Nương cũng khơng thể có được. Và
một người – cha – bình – thường lại càng vượt quá tầm tay.
Hai chị em Nương và Điền họ khát khao hạnh phúc như kẻ hành khất trên sa
mạc cần giọt nước. Chúng đã cố gắng tìm cách khơi gợi lại sự quan tâm của

người cha đối với mình: “có lần thằng Điền giả đị ngã té, chìm nghỉm mất
tăm, tơi giả đị kêu la chói lói, cha hơi giật mình hoảng hốt, dợm lao xuống
nước, nhưng rồi cha điềm nhiên ngồi lại, tiếp tục gọt đẽo”. Một chút lo lắng
dấy lên trong tâm hồn người cha, nhưng lí trí q lấn ướt tình cảm cha con.
Song với hai chị em “chỉ một chút xao lòng của cha là đã mừng lắm rồi”.
Những lời nói ấy thốt ra từ một đứa trẻ sao cay đắng và xót xa đến thế. Hai chị
em cịn trơng chờ người hàng xóm đi thăm lúa ghé qua chịi vì lúc ấy cha sẽ
kêu: “Nương à, nướng mấy con khô, cha lai rai với mấy bác. Em tôi cũng
sướng ran xách chai ra tiệm mưa rượu. Nó khối chí nghe cha gọi: Điền ơi,
Điền…”. Hạnh phúc ấy thật nhỏ nhoi nhưng vẫn thật đáng q. Nó thốt hiện
rồi tan nhanh, tưởng chừng như có thể xoa dịu được phần nào nỗi khát khao
18


của hai chị em nhưng lại càng tăng thêm nỗi đau đớn khi nhận ra đó khơng
phải là sự thật “vui được chút đó thơi, khi khuất bóng người hai chị em tơi
đắng đót như cha hao hao giống người đóng tuồng vừa trút lớp”.
Câu chuyện khơng dài, nếu khơng muốn nói là ngắn, nhưng nó vẽ ra những số
phận – kiếp người giữa dịng đời chảy trơi. Cuộc sống, cuộc đời, số phận các
nhân vật được nhìn ở chiều sâu nội tâm. Đó là cuộc sống của những nỗi buồn
và cuộc sống tưởng chừng như bình lặng nhưng bỗng chốc lại nhói đau…
Hiện lên trong tác phẩm là những người đàn bà (bao gồm cả người làm đĩ và
cô gái bị hãm hiếp) với những khát khao hạnh phúc nhưng khơng có được, là
những đứa trẻ khơng có tình thương của cha mẹ – hoặc là có mà như khơng, là
người cha khép chặt tim mình cho cằn khơ héo hắt… Ở họ, có một điểm chung
dễ nhận thấy – nỗi CƠ ĐƠN. Nỗi cơ đơn, lạc lõng trở thành nỗi ám ảnh không
cùng tận.
Nương và Điền – hai đứa trẻ cô đơn trước thiên nhiên, trong xã hội, cộng đồng
và trong chính gia đình của mình. Sự cơ đơn, trống trải bị đẩy đến cùng cực,
trở thành nỗi ám ảnh đối với những ai đọc Cánh đồng bất tận, khi hai chị em

mất đi tiếng nói con – người. Chúng giao tiếp với nhau bằng ý nghĩ, tiếng nói
khơng phải của con người mà là của lồi vịt. Hạnh phúc khơng thể kiếm tìm
trong xã hội lồi người, Nương và Điền bước vào thế giới loài vật. Đàn vịt trở
thành cộng đồng và tiếp nhận hai thành viên mới, Nương và Điền “đắm đuối
với loại ngôn ngữ mới” và chấp nhận để cho người ta nhìn mình như những kẻ
điên. Sự cách biệt giữa thế vịt và thế giới người đã không cho chúng cái
quyền được “làm người” như bao đứa trẻ khác. Chúng hồn tồn cơ độc giữa
lồi người. Khơng nói được tiếng người giữa cộng đồng người là nỗi đau, là
bất hạnh nhưng cũng là hồi chuông cảnh tỉnh mà tác giả đặt ra trong tác
phẩm. Còn bao nhiêu đứa trẻ nữa trong xã hội này giống Nương và Điền?
Liệu những đứa trẻ cô đơn như thế có được phát triển, được thành người như
lẽ ra chúng đáng được hưởng?

19


Rõ ràng, nếu như con người trong văn học 1930 – 1940 khi rơi vào tận cùng
cái cô đơn sẽ đập phá, gào thét và tìm lối giải thốt như Chí Phèo của Nam
Cao thì con người trong văn học đương đại chấp nhận và sống chung với cô
đơn. Thông điệp mà Nguyễn Ngọc Tư muốn nhắn gửi đến người đọc qua hình
tượng con người cơ đơn là hãy tạo mọi điều kiện để con người được hòa nhập,
được phát triển đầy đủ nhất trong cộng đồng xã hội, bởi vì khơng đâu con
người có thể tồn tại và phát triển tốt nhất bằng nơi họ được cộng đồng bao bọc,
chở che.
Cũng như nhân vật Giang Minh Sài trong tiểu thuyết “ Thời xa vắng” – Lê
Lựu, người cha tự tạo ra bi kịch cho mình và cho người khác. Ông đã tự cô
lập, tách biệt với con cái, khoảng cách vơ hình ấy cứ lớn dần, lớn mãi, đến khi
trong bản năng cần được che chở, Nương – con gái ông không hề nghĩ tới ông.
Đau đớn, sững sờ, nhưng đó đúng là cái giá mà ơng phải trả. Ông đâu biết rằng
mình cũng tạo nên bi kịch cho hai người con. Điền từ chối niềm vui được

trưởng thành, được là người đàn ông thực thụ. Nương phải gánh lấy báo ứng
mà tội lỗi của cha gây ra. Hạnh phúc thật mong manh, khó nắm bắt nhưng
khơng phải khơng thể bảo vệ hạnh phúc. Đừng để lòng thù hận làm mất đi
niềm tin, lẽ sống của mình. Đem đến cho người khác hạnh phúc cũng là tự
đem đến niềm vui sống cho chính bản thân mình.
Quan tâm đến hạnh phúc cá nhân, đi sâu vào trong ngõ ngách tận cùng của đời
sống cá nhân, là biểu hiện của sự quan tâm đến việc nâng cao giá trị con
người, bồi dưỡng nhân cách, hoàn thiện con người.

20


KẾT LUẬN
Vấn đề số phận con người cá nhân không phải là mới, nó đã được đặt ra từ lâu
trong văn học Việt Nam. Nhưng do ảnh hưởng của thời đại cũng như sự chi
phối của hệ tư tưởng mà mức độ phản ánh của mỗi giai đoạn văn học sẽ khác
nhau.
Văn học thời kì đổi mới đã có những bước tiến sâu hơn vào chiều sâu cuộc
sống con người. Các nhà văn mạnh dạn tìm tịi, khám phá, thể hiện những biến
động, đổi thay trong đời sống, trong tư tưởng con người trước những mối quan
hệ đa chiều của nó.
Những tác phẩm được sáng tác trong thời kì này đã hướng đến những vấn đề
có ý nghĩa quan trọng đối với con người. Đó là ở nhu cầu được sống là mình,
sống cho riêng mình; là tình yêu lứa đơi, mái ấm gia đình, khát khao cuộc sống
hạnh phúc…mọi ngõ ngách tận cùng của đời sống cá nhân. Tất cả những cung
bậc ấy đều toát lên từ một chủ nghĩa nhân văn của nhà văn trước những vấn đề
không thể lảng tránh.

21




×