A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mua bán hàng hóa có một vai trị vơ cùng quan trọng trong đời sống
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Trong hoạt động thương mại thì mua bán
hàng hóa là hoạt động chính, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Nó khơng
chỉ kích thích sức sản xuất mà cịn góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế
của đất nước. Hiện nay, mua bán hàng hóa khơng đơn thuần dừng lại trong
phạm vi quốc gia mà còn nhanh chóng lan nhanh sang các quốc gia khác trên
thế giới.
Ở nước ta, trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung nền kinh tế mang tính
tự cung tự cấp là chính, diễn ra nhỏ lẻ và tương đối giống nhau về bản chất,
hoạt động thương mại nói chung và mua bán hàng hóa nói riêng diễn ra trong
một khn khổ chật hẹp, với việc được điều chỉnh bằng một hệ thống có hiệu
lực pháp lý thấp, nhằm giải quyết các vấn đề do thực tiễn cơ chế quản lý kế
hoạch hoá tập trung.
Hiện nay, với việc được điều chỉnh bằng một khung hệ thống pháp luật
mang tính chặt chẽ, hiệu lực pháp lý cao đã tạo bước ngoặt trong hoạt động
thương mại của thương nhân.
Với nền kinh tế ngày càng phát triển như hiện nay, các vấn đề nảy sinh
khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa ngày càng lớn với sự phức tạp ngày
càng gia tăng. Nếu như trước đây, các quan hệ diễn ra đơn thuần chỉ mang
tính tự phát và nhỏ lẻ thì hiện nay các quan hệ mua bán hàng hóa ngày càng
đa dạng và phức tạp hơn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam
-Đại hội hoạch định đường lối đổi mới, khởi xướng công cuộc đổi mới kinh
1
tế, tạo ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng pháp luật ở Việt Nam. Trong
đó hệ thống pháp luật thương mại được đặc biệt chú trọng.
Luật thương mại được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 10/05/1997 đã đánh dấu bước phát triển mới của hệ
thống pháp luật thương mại Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật đồng bộ, khoa học phù hợp với định hướng xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể
nói Luật thương mại năm 1997, trong đó có các quy định về thương mại đã
thực sự tạo ra khuôn khổ pháp lý quan trọng trong hoạt động thương mại phát
triển, trên cơ sở đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng của các
thương nhân, bước đầu phù hợp với pháp luật và tập quán thương mại quốc
tế. Khi nhà nước bắt tay xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nền
kinh tế mới đa hình thức sở hữu, đa hình thức kinh doanh thì vấn đề pháp lý
giải quyết các tình huống đó lại gặp nhiều vấn đề khó khăn cả về chiều rộng
và chiều sâu. Tự do, năng động, sáng tạo, nhạy bén là thuộc tính khách quan
và là yêu cầu của nền kinh tế thị trường nhưng gắn liền với nó lại là nguy cơ
gian lận trong kinh doanh, thương mại…Hơn thế nữa, một nền kinh tế khơng
chỉ bó hẹp trong phạm vi của quốc gia mình mà nó cịn lan rộng và phát triển
ra các quốc gia khác nữa. Để tạo một hành lang pháp lý chặt chẽ đủ sức
thuyết phục, buộc các nhà kinh doanh, các thương nhân phải hành xử theo đó,
ngày 14/11/2005 Quốc hội đã ban hành Luật thương mại số 36/2005- QH 11
quy định về Luật thương mại chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
2006, thay thế cho Luật thương mại năm 1997.
Khác với Luật thương mại năm 1997, Luật thương mại năm 2005 quy
định đầy đủ và chi tiết về mua bán hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa và
các vấn đề khác xung quanh vấn đề bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua
bán hàng hóa… Nhưng, với nền kinh tế sơi động như hiện nay việc thực hiện
2
hợp đồng thương mại nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng có
rất nhiều khía cạnh cần phải quan tâm chú ý.
Trong nội dung của Luật thương mại thì bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng mua bán hàng hóa là vấn đề vơ cùng quan trọng. Bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng mua bán hàng hóa là thể hiện mối quan hệ vật chất giữa các
bên trong hợp đồng, là vấn đề rất khó giải quyết trong nhiều trường hợp ảnh
hưởng đến lợi ích của các bên. Việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng mua bán hàng hóa nhằm khơi phục lại những lợi ích đã bị
xâm phạm, và bù đắp những thiệt hại xảy ra do hành vi vi phạm pháp luật gây
ra. Đây là công cụ pháp lý được nhà nước sử dụng để bảo vệ quyền và lợi ích
và giáo dục ý thức tuân theo pháp luật của các chủ thể. Để có được cách giải
quyết chung cho các trường hợp này Luật thương mại đã có những quy định
về vấn đề bồi thường như thế nào, tạo một cơ sở pháp lý cho hoạt động
thương mại của thương nhân đi vào khn khổ hơn. Thế nhưng mỗi trường
hợp thì vấn đề bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa này lại
được giải quyết khác nhau căn cứ vào mức độ và phạm vi của hành vi vi
phạm. Do đó, với sự phong phú của các quan hệ mua bán thì kéo theo sự đa
dạng trong cách giải quyết các vấn đề phát sinh xung quanh nó.
Với tất cả các lý do trên mà tôi đã lựa chọn đề tài: “Chế tài bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật thương mại Việt
Nam năm 2005. Những vấn đề lý luận và thực tiễn” nhằm góp phần làm
sáng tỏ và hiểu rõ hơn những quy định của Luật thương mại năm 2005 về
trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và chế tài bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng.
Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng cả về phương diện lý luận cũng
như thực tiễn.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với sự quan trọng và tính thực tế cao, chế tài bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng mua bán hàng hóa đã thu hút sự quan tâm và thu hút được rất nhiều
các nhà khoa học cũng như các nhà nghiên cứu. Trong những năm qua, giới
nghiên cứu khoa học pháp lý đã có một số cơng trình nghiên cứu, bài nghiên
cứu có liên quan đến vấn đề này với mức độ và phạm vi khác nhau như:
- Luận án tiến sĩ của Trương Văn Dũng năm 2003 “Trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và vấn đề hồn thiện pháp luật
Việt Nam”.
- Luận án tiến sĩ của PGS.TS Phạm Hữu Nghị năm 1996 “Chế độ hợp
đồng trong nền kinh tế thị trường Việt Nam ở giai đoạn hiện nay”.
- Bài viết của tác giả Phạm Thị Trong “Vi phạm hợp đồng được dự
đoán trước - sự cần thiết phải điều chỉnh trong pháp luật hợp đồng của Việt
Nam”.
- Bài viết của tác giả Đỗ Văn Đại “Phạt vi phạm hợp đồng trong pháp
luật thực định Việt Nam”, tạp chí tịa án nhân dân số 19/ 2007.
- Bài viết của tác giả Dương Anh Sơn và Lê Thị Bích Thọ “Một số ý
kiến về phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt
Nam”, tạp chí khoa học pháp lý số 01/2005.
- Bài viết “Tác động của hình thức lỗi đến việc xác định hợp đồng nhìn
từ góc độ ngun tắc trung thực và thiện chí”, tạp chí khoa học pháp lý số
01/2007.
Trong các cơng trình nghiên cứu trên, các tác giả đã tập trung nghiên
cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh yêu cầu xây dựng và hoàn
thiện pháp luật thương mại của Việt Nam. Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu
của các cơng trình đặt ra khác nhau nên các cơng trình đó khơng đi sâu vào
vấn đề chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Tuy
4
vậy, các cơng trình nói trên là những tài liệu rất quý giá cho tôi cũng như
những người muốn nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến trong q
trình nghiên cứu của riêng mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu khoa học.
3.1. Mục đích
Dựa trên việc phân tích chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua
bán hàng hóa, trên cơ sở tìm hiểu, đánh giá một cách khách quan thực trạng,
thực thi các quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về bồi thường
thiệt hại, cùng với việc tìm ra những khó khăn, bất cập trong quá trình giải
quyết các vấn đề xung quanh chế tài này, khóa luận có đề xuất những giải
pháp nhằm giúp cho quá trình thực thi pháp luật và giải quyết được đúng đắn
và chính xác, phù hợp với các quy định của pháp luật cũng như với thực tiễn
trong đời sống kinh tế của nước ta hiện nay.
Cùng với nền kinh tế hiện nay, việc hiểu rõ và tuân thủ pháp luật là một
trong những vấn đề hàng đầu giúp cho các quy định của pháp luật được hiện
thực hóa trong đời sống là vơ cùng quan trọng. Chính vì vậy, qua việc nghiên
cứu, tìm hiểu chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ
giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn, đồng thời với các chế tài như vậy sẽ tạo tâm lý
cho các thương nhân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích đã đề ra, khóa luận luận tập trung giải
quyết các nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Nghiên cứu và phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về chế độ trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và chế tài bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng.
5
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định về chế tài bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật thương mại Việt
Nam năm 2005.
- Phân tích, đánh giá một cách sâu sắc những bất cập, hạn chế trong các
quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 về chế tài bồi thường thiệt
hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
- Đề xuất những phương hướng và những giải pháp cụ thể nhằm tiếp
tục hoàn thiện các quy định của Luật thương mại Việt Nam về chế tài bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa, trên cơ sở đó giúp cho
thực tiễn thi hành những quy định này được hiện thực hóa và đạt hiệu quả
cao hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả khóa luận sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chủ trương,
đường lối của Đảng và nhà nước và pháp luật. Đặc biệt, khóa luận được thực
hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và
nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận dụng theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế.
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như:
Phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh luật học, phương pháp logic và lịch sử, phương pháp điều tra xã hội...
Trong đó, phương pháp tổng hợp và phân tích là phương pháp chủ yếu được
tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu hoàn thành đề tài này.
6
5. Những đóng góp khoa học của khóa luận
- Khóa luận nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ
bản về chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung
và chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng
theo Luật thương mại Việt Nam năm 2005.
- Khóa luận phân tích, đánh giá một cách khách quan thực trạng áp
dụng Luật thương mại 2005 về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
mua bán hàng hóa, từ đó chỉ ra những bất cập, khó khăn để từ đó có cách giải
quyết phù hợp hơn với tình hình thực tế của xã hội Việt Nam.
- Khóa luận đã đề xuất phương hướng và giải pháp cụ thể để tiếp tục
hoàn thiện các quy định của Luật thương mại năm 2005 về chế tài bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng
và phát triển kinh tế nói chung cũng như yêu cầu phát triển của hoạt động
mua bán hàng hóa và pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua
bán hàng hóa trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt trước xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
* Về mặt lý luận: Đề tài đã nghiên cứu, làm rõ và đánh giá một cách
đúng đắn về chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng, trong đó
giúp cho chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa được
thực hiện một cách nghiêm túc theo khuôn khổ của pháp luật. Giúp bổ sung
nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên ngành luật kinh tế, giúp người
nghiên cứu có thêm nguồn tài liệu để tham khảo.
* Về mặt thực tiễn: Các tài liệu trong lĩnh vực nghiên cứu học thuật liên
quan đến chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa như:
trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa, lỗi trong phạt hợp đồng
hay bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc tế, vi phạm hợp đồng… có ý
7
nghĩa vơ cùng quan trọng trong q trình nghiên cứu đề tài. Trên cơ sở phân
tích, đánh giá, bình luận khóa luận chỉ ra những bất cập, những tình huống
khác nhau của chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa
theo Luật thương mại năm 2005, để từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần
hoàn thiện hơn nữa chế tài bồi thường thiệt hại này, trên cơ sở đó giúp cho
q trình thực thi và hiện thực hóa các quy định của pháp luật.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo nội dung
luận văn bao gồm 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng mua bán hàng hóa theo Luật thương mại Việt Nam năm 2005.
Chương 2. Thực tiễn áp dụng các quy định về chế tài bồi thường thiệt
hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Chương 3. Giải pháp nhằm hồn thiện các quy định của Luật thương
Việt Nam năm 2005 về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán
hàng hóa.
8
B. NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ TÀI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA THEO LUẬT THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM NĂM 2005
1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.1.Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa được xác lập và thực hiện thơng
qua hình thức pháp lý là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán
hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay
đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán.
“Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại theo đó bên bán có nghĩa
vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh
tốn, bên mua có nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán, nhận hàng và quyền sở
hữu theo thỏa thuận”. (Khoản 8 điều 3 Luật thương mại năm 2005).
Hợp đồng mua bán hàng hóa là cơng cụ pháp lý quan trọng và có hiệu
quả nhằm thúc đẩy quan hệ giao lưu mua bán hàng hóa phát triển, đảm bảo
cho các quan hệ tài sản khi trao đổi được thực hiện trong hành lang pháp lý an
toàn theo những nguyên tắc đặc trưng của pháp luật thương mại. Hợp đồng
mua bán hàng hóa cũng là phương tiện pháp lý quan trọng để các chủ thể của
pháp luật thương mại thỏa mãn nhu cầu vật chất trong sản xuất kinh doanh,
góp phần xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Luật thương mại Việt Nam năm 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp
đồng mua bán hàng hóa song có thể xác định bản chất pháp lý của hợp đồng
mua bán hàng hóa trong thương mại trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự về
hợp đồng mua bán tài sản. Một hợp đồng mua bán có thể thỏa thuận về việc
mua bán hàng hóa ở hiện tại hoặc mua bán hàng hóa sẽ có ở một thời điểm
9
nào đó trong tương lai. Bất cứ khi nào một người mua bán bằng tiền hoặc
phương thức thanh toán khác và nhận quyền sở hữu hàng hóa thì khi đó hình
thành nên quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa.
Như vậy, có thể thấy hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa
các thương nhân với nhau, hoặc giữa thương nhân với các chủ thể khác về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên
trong quan hệ mua bán hàng hóa.
1.1.2.Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
Có thể xem xét hợp đồng mua bán hàng hóa trong mối liên hệ với hợp
đồng mua bán tài sản trong dân sự theo nguyên lý của mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng. Bên cạnh đó, để phù hợp với bản chất thương mại của hợp
đồng mua bán hàng hóa một số vấn đề như chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa
vụ của các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa, chế tài và giải quyết tranh
chấp hợp đồng mua bán hàng hóa.... được quy định trong pháp luật thương
mại có tính chất là sự phát triển tiếp tục những quy định của dân luật truyền
thống về hợp đồng mua bán tài sản. Với tư cách là hình thức pháp lý của hợp
đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa có những đặc điểm nhất
định xuất phát từ bản chất thương mại của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập chủ yếu giữa
các chủ thể là thương nhân. Theo quy định của Luật thương mại năm 2005,
thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xun và có đăng kí kinh doanh.
Thương nhân là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là thương
nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngồi (trong hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế). Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải
10
là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ hai, về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được thiết lập theo
cách thức nào mà các bên thỏa thuận được sự mua bán hàng hóa giữa các
bên. Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được thể hiện dưới hình thức lời
nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong
trường hợp nhất định pháp luật bắt buộc các bên thiết lập hợp đồng mua
bán bằng hình thức văn bản. Điều 24 Luật thương mại năm 2005 cũng quy
định: “Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn
bản hoặc được xác định bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng
mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì
phải tuân theo các quy định đó”.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một ví dụ bắt buộc hình thức
của hợp đồng phải được lập thành văn bản. Theo quy định của Luật thương
mại hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được thể hiện dưới hình thức
văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương như: điện báo,
TELEX, FAX, thông điệp dữ liệu.
Thứ ba, về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng mua bán là
hàng hóa. Hiểu theo nghĩa thơng thường hàng hóa là sản phẩm lao động của
con người, được tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người. Cùng với sự
phát triển của xã hội hàng hóa ngày càng phong phú và đa dạng. Luật thương
mại năm 2005 quy định: “Hàng hóa bao gồm: (i) Tất cả các loại động sản,
kể cả động sản hình thành trong tương lai; (ii) Những vật gắn liền với đất
đai”. Với cách hiểu về hàng hóa như vậy, hàng hóa là đối tượng của mua bán
có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai; hàng
hóa có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại.
11
Thứ tư, về nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng mua bán thể hiện quyền và nghĩa vụ của các
bên trong quan hệ mua bán, được quy định tại Điều 402 BLDS 2005:
“Tùy theo từng loại hợp đồng các bên có thể thỏa thuận về những nội
dung sau đây:
1. Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm
hoặc không được làm;
2. Số lượng, chất lượng;
3. Giá, phương thức thanh toán;
4. Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
5. Quyền, nghĩa vụ của các bên;
6. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
7. Phạt vi phạm hợp đồng;
8. Các nội dung khác”.
1.2.Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
Khi một hợp đồng mua bán hàng hóa được xác định có hiệu lực pháp
luật, các bên có nghĩa vụ thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận. Việc vi phạm
các nghĩa vụ theo hợp đồng mua bán (không thực hiện, thực hiện không đúng,
không đầy đủ các nghĩa vụ), sẽ dẫn đến bên vi phạm phải chịu những chế tài
do pháp luật quy định. Về bản chất, trách nhiệm do hợp đồng mua bán là dạng
cụ thể của trách nhiệm pháp lý phát sinh trong lĩnh vực mua bán hàng hóa.
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa có những đặc
điểm cơ bản là: (i) Được áp dụng trên cơ sở hành vi vi phạm hợp đồng mua
bán có hiệu lực pháp luật; (ii) Nội dung gắn liền với việc thực hiện nghĩa vụ
theo hợp đồng hoặc trách nhiệm về tài sản; (iii) Do cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền áp dụng hoặc do bên bị vi phạm áp dụng trên cơ sở pháp luật.
12
1.3. Căn cứ áp dụng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
Với tính chất là một loại trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng mua bán hàng hóa được áp dụng khi có những căn cứ do pháp luật
quy định. Với mỗi hình thức chế tài căn cứ áp dụng có những hình thức khác
nhau nhất định, phù hợp với tính chất và mục đích của hình thức chế tài đó.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn khoa học pháp lý về lỗi trong quan hệ
mua bán, Điều 230 Luật thương mại năm 2005 quy định: “Căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy định bốn yếu tố cấu thành trách nhiệm
do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm: Có hành vi vi phạm hợp
đồng, có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra, hành vi vi phạm là nguyên nhân
trực tiếp gây ra thiệt hại thực tế, có lỗi của bên vi phạm”.
1.3.1. Có hành vi vi phạm hợp đồng
Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ pháp lý để áp dụng đối với tất cả
các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Hành vi vi phạm hợp đồng mua
bán hàng hóa là cách xử sự của các chủ thể hợp đồng không phù hợp với
nghĩa vụ hợp đồng.
Biểu hiện cụ thể của vi phạm hợp đồng mua bán là việc không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ hợp đồng.Vì vậy,
khi xem xét hành vi có vi phạm hợp đồng mua bán hay không phải căn cứ vào
hợp đồng và các quy định về hợp đồng mua bán.
Trong mua bán hàng hóa, việc người bán khơng giao hàng, người mua
không trả tiền hàng sẽ bị coi là hành vi không thực hiện hợp đồng, và như vậy
nếu hợp đồng được ký kết theo đúng quy định của pháp luật thì hành vi vi
phạm pháp luật này sẽ được coi là hành vi vi phạm pháp luật. Mặt khác, việc
người bán không thực hiện đầy đủ, thực hiện không tốt hợp đồng như giao
hàng thiếu, giao hàng chậm, giao hàng không đúng phẩm chất quy cách đã
13
thỏa thuận... và người mua thiếu tinh thần thiện chí trong thực hiện hợp đồng
như không chịu nhận hàng cũng bị coi là vi phạm hợp đồng.
Như vậy, chỉ khi nào các chủ thể hợp đồng thực hiện đúng nguyên
tắc chấp hành mua bán hàng hóa sau thì mới được coi là không vi phạm
hợp đồng:
+ Thực hiện đúng hợp đồng, đúng số lượng, đối tượng, chất lượng,
chủng loại, thời hạn, phương thức và các hình thức thỏa thuận khác.
+ Thực hiện một cách trung thực theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất
cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau.
+ Khơng được xâm phạm lợi ích nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và
lợi ích chính đáng của người khác.
1.3.2. Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra
Thiệt hại vật chất thực tế do vi phạm hợp đồng mua bán gây ra là yếu tố
cần thiết, đăc biệt trong trường hợp muốn quy trách nhiệm đòi bồi thường
thiệt hại thì đây là căn cứ bắt buộc phải có. Đối với các hình thức chế tài khác,
thiệt hại thực tế có thể coi là tình tiết để xác định mức độ nặng nhẹ của chế tài
được áp dụng. Thông thường thiệt hại mà bên bị vi phạm phải gánh chịu có
thể là thiệt hại vật chất và thiệt hại về tinh thần. Song, Luật thương mại năm
2005 cũng như luật các nước thường chỉ thừa nhận thiệt hại tài sản (thiệt hại
vật chất) mới là yếu tố để quy trách nhiệm.
Thiệt hại thực tế là những thiệt hại có thể tính được thành tiền mà
bên bị vi phạm phải gánh chịu. Thiệt hại thực tế được chia làm hai loại là
thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Trong đó, thiệt hại trực tiếp là
những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế, có thể tính tốn một cách dễ dàng và
chính xác.
Thiệt hại gián tiếp là những thiệt hại phải dựa trên những phán đoán
khoa học (trên cơ sở những chứng cứ, tài liệu) mới có thể xác định được. Biểu
14
hiện cụ thể của thiệt hại gián tiếp là thu thập thực tế bị mất, bị giảm sút, khoản
lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu. Đây chính
là những khoản mà khi ký kết hợp đồng các bên đều mong đợi. Những khoản
lợi này dù trên thực tế nếu khơng có vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm có
nhận được hay khơng khơng quan trọng mà cứ có vi phạm gây thiệt hại làm
mất khoản lợi dư trước đó, bên bị vi phạm vẫn được quyền đòi bên vi phạm.
Về nguyên tắc, bên bị vi phạm chỉ được đòi bồi thường những khoản
thiệt hại trong phạm vi do pháp luật quy định. Đối với hợp đồng trong lĩnh
vực thương mại, Luật thương mại năm 2005 quy định về các khoản thiệt hại
do vi phạm hợp đồng bao gồm: giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi
phạm phải gánh chịu do bên vi phạm gây ra, và những khoản lợi trực tiếp mà
bên bị vi phạm lẽ ra được hưởng. Nếu trường hợp bên vi phạm chậm thanh
toán tiền thì bên bị vi phạm có quyền u cầu trả tiền lãi trên số tiền trả chậm
tương ứng với thời gian chậm trả (Điều 306 Luật thương mại năm 2005).
1.3.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và
thiệt hại thực tế
Về phương diện triết học, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm
hợp đồng và thiệt hại thực tế được xác định bằng hành vi vi phạm và thiệt hại
thực tế có mối liên hệ nội tại, tất yếu; hành vi vi phạm là nguyên nhân trực
tiếp gây ra thiệt hại. Bên có hành vi vi phạm hợp đồng chỉ phải bồi thường
thiệt hại khi thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi vi phạm hợp đồng.
Trong trường hợp thiệt hại xảy ra không phải do hành vi vi phạm gây
nên thì bên có hành vi vi phạm khơng phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đó.
Trên thực tế một hành vi vi phạm hợp đồng có thể gây ra nhiều khoản
thiệt hại và một khoản thiệt hại có thể được sinh ra do nhiều hành vi vi phạm
hợp đồng. Trong khi đó các chủ thể hợp đồng, đặc biệt là các chủ thể kinh
doanh, có thể cùng lúc tham gia nhiều quan hệ hợp đồng khác nhau. Vì vậy,
15
việc xác định chính xác mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng
và thiệt hại thực tế không phải bao giờ cũng dễ dàng, sẽ rất dễ nhầm lẫn nếu
chỉ dựa vào suy nghĩ chủ quan. Điều này đòi hỏi bên bị vi phạm khi đòi bồi
thường thiệt hại cũng như các cơ quan tài phán khi áp dụng chế tài bồi thường
thiệt hại đối với bên vi phạm phải dựa trên những chứng cứ rõ ràng, xác thực
và hợp pháp.
1.3.4. Có lỗi của bên vi phạm
Lỗi của bên vi phạm hợp đồng là căn cứ bắt buộc phải có để áp dụng
đối với tất cả các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Vì vậy, khi xác định
lỗi của chủ thể là tổ chức vi phạm hợp đồng để xác định trách nhiệm hợp
đồng phải căn cứ vào lỗi của người đại diện cho tổ chức đã giao kết và thực
hiện hợp đồng. Trách nhiệm hợp đồng được xác định dựa trên nguyên tắc lỗi
suy đốn, theo đó mọi hành vi khơng thực hiện, thực hiện khơng đúng hợp
đồng đều bị suy đốn là có lỗi (trừ trường hợp bên vi phạm chứng minh được
là mình khơng có lỗi). Khi áp dụng chế tài đối với bên vi phạm, bên bị vi
phạm cũng như cơ quan tài phán khơng có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên
vi phạm. Pháp luật Việt Nam đã có sự phân biệt giữa hai hình thức lỗi là lỗi
cố ý và lỗi vô ý. Tuy nhiên, việc xác định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
thì hình thức lỗi hồn tồn khơng ảnh hưởng đến giới hạn và phạm vi của
trách nhiệm, hay nói đúng hơn là khơng ảnh hưởng đến mức độ bồi thường
thiệt hại.
Khi bị quy trách nhiệm, bên vi phạm muốn thoát trách nhiệm phải
chứng minh là mình khơng có lỗi, chừng nào khơng chứng minh được thì
đương nhiên vẫn bị coi là có lỗi và phải chịu trách nhiệm.
16
1.4. Các hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng
hóa theo Luật thương mại Việt Nam năm 2005
Khi vi phạm hợp đồng trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bên vi phạm
phải chịu trách nhiệm trước bên bị vi phạm thơng qua các hình thức trách
nhiệm gọi là chế tài.
Tùy thuộc vào các vi phạm và các quy định khác nhau trong hợp đồng
mà các chế tài khác nhau được áp dụng. Luật thương mại Việt Nam năm 2005
dành hẳn mục 1 chương VII để quy định các chế tài áp dụng cho việc vi phạm
hợp đồng trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Theo điều 292, Luật thương mại Việt Nam năm 2005, các chế tài trong
thương mại bao gồm:
+ Buộc thực hiện đúng hợp đồng
+ Phạt vi phạm
+ Bồi thường thiệt hại
+ Tạm ngừng thực hiện hợp đồng
+ Đình chỉ thực hiện hợp đồng
+ Hủy hợp đồng
1.4.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Buộc thực hiện đúng hợp đồng mua bán là hình thức chế tài, theo đó
bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo
yêu cầu của bên bị vi phạm.
Căn cứ để áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là có hành
vi vi phạm hợp đồng và có lỗi của bên vi phạm. Biểu hiện cụ thể của việc
áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu
cầu bên vi phạm thực hiện đúng các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc dùng các
biện pháp khác để hợp đồng thực hiện (tự sửa chữa khuyết tật của hàng
hóa, thiếu sót của hàng hóa, dịch vụ, mua hàng hóa, nhận cung ứng dịch vụ
17
của người khác theo đúng hàng hóa, dịch vụ ghi trong hợp đồng...) và bên
vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh. Những trường hợp bên bị vi phạm và
bên vi phạm thỏa thuận gia hạn thực hiện nghĩa vụ hoặc thỏa thuận thay thế
nghĩa vụ này bằng nghĩa vụ khác không được coi là áp dụng chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng.
Theo điều 297, Luật thương mại khi áp dụng chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng bên bị vi phạm có thể lựa chọn hoặc yêu cầu bên vi phạm thực
hiện đúng hợp đồng hoặc lựa chọn các hình thức khác để hợp đồng được thực
hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng theo Luật thương mại được đặt ra khi có vi phạm về số lượng, chất
lượng hàng hóa, u cầu kỹ thuật của cơng việc. Bên bị vi phạm cũng có thể
tự sửa chữa khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ và yêu cầu bên vi
phạm phải trả các chi phí hợp lí.
Trên thực tế khi một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, để bảo vệ quyền
lợi cho mình, bên bị vi phạm khơng phải lúc nào cũng cứng nhắc địi bên kia
thực hiện đúng nghĩa vụ như giao hàng thêm (nếu như giao hàng thiếu), hay
tìm biện pháp khắc phục khuyết tật của hàng hóa hoặc thay thế bằng hàng hóa
khác (nếu giao hàng kém chất lượng), nhất là trong trường hợp bên vi phạm
gặp nhiều khó khăn và chi phí để làm được như vậy và thậm chí bên bị vi
phạm cũng có thể bị thiệt hại hơn.
Trong trường hợp này, tức là khi bên vi phạm không thực hiện các quy
định nói trên, tại khoản 3, 4 điều 297 của Luật thương mại năm 2005 cũng thể
hiện sự linh hoạt khi quy định cụ thể rằng: Bên có quyền lợi bị vi phạm có
quyền mua hàng hay nhận cung ứng dịch vụ của người khác để thay thế theo
đúng loại hàng hóa, dịch vụ ghi trong hợp đồng, khi đó bên vi phạm phải bù
chênh lệch nếu có. Đây cũng là giải pháp mà Công ước viên 1980 đưa ra khi
bên bán không giao hàng hoặc giao hàng thiếu. Ví dụ, khi bên vi phạm giao
18
hàng thiếu, bên bị vi phạm không nhất thiết phải chờ bên vi phạm giao hàng
đủ mà có thể mua ngay hàng khác cùng chủng loại của người cung cấp khác
để khơng mất thời cơ kinh doanh của mình. Tất nhiên để bảo vệ cho quyền lợi
của bên bị vi phạm bên vi phạm phải có trách nhiệm đền bù chi phí phát sinh.
Nếu bên có quyền lợi vi phạm tự sửa chữa khuyết tật, thiếu sót của
hàng hóa, dịch vụ thì bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý. Rõ ràng
là giải pháp này vừa giúp các bên tiếp tục quan hệ hợp đồng, vừa hạn chế thiệt
hại. Theo quy định này bên vi phạm phải trả “các chi phí thực tế hợp lý”. Nói
cách khác nếu bên bị vi phạm viện cớ sửa chữa khuyết tật của hàng hóa để địi
bên kia các chi phí khơng liên quan đến việc sửa chữa khuyết tật đó hoặc địi
hỏi các chi phí vơ lý q cao so với thực tế thì bên vi phạm sẽ khơng phải trả
các chi phí đó.
Khi bên vi phạm đã thực hiện đúng các quy định nói trên tức là giao
đủ hàng với trường hợp giao hàng thiếu và sửa chữa khuyết tật, thiếu sót
của hàng hóa nếu giao hàng đúng phẩm chất thì “bên có quyền lợi vi phạm
phải nhận hàng, nhận dịch vụ và thanh tốn tiền hàng, phí dịch vụ” (khoản
4, điều 297).
Để cho bên vi phạm thực hiện được nghĩa vụ nói trên, Luật thương mại
năm 2005 cịn cho phép bên có quyền lợi bị vi phạm có thể gia hạn một thời
gian hợp lý (Điều 298). Song việc gia hạn này khơng có nghĩa là thay đổi điều
khoản về thời hạn giao hàng. Thời hạn giao hàng nếu có sự thay đổi là do hai
bên thỏa thuận, còn việc gia hạn chỉ là quyết định đơn phương của bên bị vi
phạm nhằm bảo vệ lợi ích của mình. Nếu hết thời hạn ấn định mà bên mà bên
vi phạm vẫn không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi
phạm được thực hiện các chế tài khác để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình
(khoản 2, điều 299). Tuy nhiên, khoản 1, điều 299 của Luật thương mại năm
2005 lại quy định rõ rằng: “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, trong thời
19
gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng không được áp dụng các
chế tài khác”.
Như vậy, buộc thực hiện đúng hợp đồng là chế tài nhẹ nhất trong các
loại chế tài và là tiền đề để thực hiện các chế tài khác. Biện pháp này bảo vệ
quan hệ hợp đồng và giúp các bên đạt được những lợi ích mà họ hướng đến
khi giao kết hợp đồng.
1.4.2. Phạt hợp đồng
Phạt hợp đồng mua bán là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng, theo
đó bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm một khoản tiền nhất
định do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận trên cơ sở quy định
của pháp luật. Chế tài phạt hợp đồng có mục đích chủ yếu là trừng phạt, tác
động vào ý thức của các chủ thể hợp đồng nhằm giáo dục ý thức tơn trong
hợp đồng, phịng ngừa vi phạm hợp đồng. Với mục đích như vậy, phạt hợp
đồng được áp dụng một cách phổ biến đối với các vi phạm hợp đồng.
Theo điều 300, Luật thương mại năm 2005 quy định như sau: “Phạt vi
phạm là bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền nhất định do
vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ các trường hợp
miễn trách nhiệm do pháp luật quy định tại điều 294 của luật này”.
Từ định nghĩa trên ta thấy, phạt vi phạm chỉ được áp dụng khi trong
hợp đồng có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định sẽ áp dụng chế tài này cho
những vi phạm nhất định và không phụ thuộc vào bên bị vi phạm có thiệt hại
hay khơng.
Như vậy, phạt hợp đồng là việc bên vi phạm trả cho bên bị vi phạm một
khoản tiền do đã có hành vi vi phạm và nó chỉ được áp dụng nếu trong hợp
đồng đó có thỏa thuận về vấn đề này. Đây là một chế tài rất hay được sử dụng
trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong hợp đồng kinh tế. Chế tài phạt
20
hợp đồng được quy định nhằm mục đích chủ yếu là trừng phạt, răn đe tác
động vào ý thức của các chủ thể hợp đồng nhằm giáo dục ý thức tôn trọng
thực hiện hợp đồng, buộc các chủ thể phải triệt để tuân thủ nghĩa vụ theo hợp
đồng, phòng ngừa vi phạm hợp đồng.
Phạt vi phạm thực hiện hai chức năng: Thứ nhất, phạt vi phạm được
xem là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng khi chưa có hành vi
vi phạm nghĩa vụ, nó thúc đẩy các bên thực hiện nghĩa vụ dưới sự đe dọa phải
chịu hậu quả bất lợi do không thực hiện nghĩa vụ; Thứ hai, khi có sự vi phạm
thì nó được coi là hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, bởi vì bản chất
của việc trả tiền phạt vi phạm là sự đề bù vật chất cho bên bị vi phạm.
Theo Luật thương mại năm 2005, chế tài phạt chỉ được áp dụng nếu
trong hợp đồng có thỏa thuận về việc áp dụng chế tài này. Mặt khác, để áp
dụng hình thức chế tài này cần phải có hai căn cứ là có hành vi vi phạm hợp
đồng và có lỗi của bên vi phạm hợp đồng.
Ở đây, Luật thương mại năm 2005 không quy định rằng, khi áp dụng
chế tài phạt vi phạm bên có quyền lợi bị vi phạm phải có nghĩa vụ chứng
minh được là bên kia vi phạm và vi phạm đó thuộc diện áp dụng chế tài phạt
vi phạm theo hợp đồng hoặc pháp luật quy định thì hồn tồn có thể u cầu
bên vi phạm trả tiền phạt.
Về mức tiền phạt, pháp luật Việt Nam quy định tối đa mức phạt vi
phạm, không phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên. Theo điều 301 Luật
thương mại năm 2005 thì “mức phạt đối với vi phạm hợp đồng hoặc tổng mức
phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuân trong hợp đồng, nhưng
không quá 8% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm”. Có thể thấy trong trường
hợp các bên có thỏa thuận mức phạt vi phạm thì dù thiệt hại có lớn bao nhiêu
đi chăng nữa thì bên vi phạm chỉ phải trả tiền tối đa trong giới hạn đó. Như
vậy, Luật thương mại năm 2005 cho phép các bên trả một số tiền cụ thể hoặc
21
theo tỷ lệ phần trăm đối với việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nhưng lại không
quá tám phần trăm giá trị của phần hợp đồng bị vi phạm. Điều khoản này cho
thấy, Luật thương mại Việt Nam năm 2005 coi chế tài phạt vi phạm như một
biện pháp trừng trị về mặt vật chất đối với bên vi phạm, nhưng chỉ giới hạn ở
mức tối đa tám phần trăm giá trị phần hợp đồng vi phạm là nhằm tránh các
bên sẽ lạm dụng điều khoản này. Có thể thấy chế tài phạt hợp đồng không
những bảo vệ bên bị vi phạm mà còn bảo vệ bên vi phạm hợp đồng.
Quan điểm của các nước về chế tài phạt đều cho rằng, phạt là tiền bồi
thường ước tính (tính trước). Như vậy, điều quan trọng là các bên phải có sự
thỏa thuận, dự kiến trước về mức phạt trong hợp đồng mua bán. Tuy nhiên
các nước lại có quy định khác nhau về mối quan hệ giữa thiệt hại và số tiền
phạt. Các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam thì thừa nhận tiền phạt
là tiền thừa nhận tính trước.
Như vậy, có thể thấy các điều khoản phạt hợp đồng thường được áp
dụng và phát huy tốt tác dụng nhằm ngăn ngừa, giáo dục các bên nâng cao ý
thức trách nhiệm chấp hành tốt nghĩa vụ hợp đồng.
1.4.3. Bồi thường thiệt hại
Khác với phạt vi phạm bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài được
áp dụng nhằm mục đích khơi phục những lợi ích vật chất bị mất của bên bị
vi phạm hợp đồng mua bán. Với mục đích này bồi thường thiệt hại chỉ
được áp dụng khi có thiệt hại xảy ra. Theo Luật thương mại để áp dụng
trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải có các căn cứ: Có hành vi vi phạm
hợp đồng; có thiệt hại thực tế; hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân
trực tiếp gây ra thiệt hại; có lỗi của bên vi phạm (không thuộc các trường
hợp được miễn theo quy định của pháp luật). Về nguyên tắc, bên vi phạm
phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho bên bị vi phạm. Tuy
22
nhiên, như đã phân tích, các khoản thiệt hại địi bồi thường phải nằm trong
phạm vi được pháp luật ghi nhận.
Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn
thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng
lẽ được hưởng nếu khơng có hành vi vi phạm hợp đồng. Khi xảy ra vi phạm
hợp đồng, bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý
để hạn chế tổn thất kể cả tổn thất với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng
do hành vi vi phạm gây ra. Nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không áp
dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá
trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được.
Khi áp dụng trách nhiệm bồi thường cần lưu ý mối quan hệ giữa phạt
hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Với bản chất của hợp đồng, các bên trong
hợp đồng có quyền thỏa thuận về hình thức chế tài phù hợp với quy định của
pháp luật. Các bên có quyền thỏa thuận về việc bên vi phạm chỉ cần nộp tiền
phạt vi phạm hợp đồng mà không phải bồi thường thiệt hại, hoặc là vừa phải
nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng và vừa phải bồi thường thiệt hại.
Theo Luật thương mại trong trường hợp các bên của hợp đồng mua bán
khơng có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại; trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi
phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại.
1.4.4. Tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng
Theo luật thương mại năm 2005, “Tạm ngừng thực hiện hợp đồng mua
bán” là hình thức chế tài theo đó, một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng mua bán. Khi hợp đồng mua bán bị tạm ngừng thực hiện thì hợp
đồng vẫn cịn hiệu lực.
Chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng được áp dụng trong những
trường hợp sau:
23
+ Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm
ngừng thực hiện hợp đồng;
+ Một bên vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng (Điều 308).
Việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng nghĩa là các bên sẽ không phải
thực hiện nghĩa vụ của mình trong một thời hạn cụ thể nào đó, thơng thường
thời hạn này do các bên thỏa thuận, luật khơng quy định cụ thể.
“Đình chỉ thực hiện hợp đồng mua bán” là hình thức chế tài theo đó
một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng mua bán. Khi hợp đồng mua
bán bị đình chỉ thực hiện hợp đồng thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực kể từ thời
điểm một bên nhận được thơng báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia
thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.
“Hủy bỏ hợp đồng mua bán” là hình thức chế tài theo đó, một bên
chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và làm cho hợp đồng khơng có hiệu
lực kể từ thời điểm giao kết. Hủy hợp đồng là chế tài nặng nhất áp dụng cho
việc mua bán hàng hóa. Chế tài này chỉ được áp dụng khi các bên đã sử dụng
những biện pháp khác song không mang lại kết quả. Luật pháp của các nước
chưa quy định thống nhất trường hợp vi phạm nào được quyền hủy hợp đồng.
Đề cập đến chế tài này, Điều 302, Luật thương mại Việt Nam năm 2005
quy định như sau:
“1. Hủy bỏ hợp đồng bao gồm: hủy toàn bộ hợp đồng và hủy một phần
hợp đồng.
2. Hủy toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất các
các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng.
3. Hủy một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ
hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
24
4. Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại điều 294 của luật
này, chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau:
a) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy
bỏ hợp đồng;
b) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”.
Như vậy, theo quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 để có
thể hủy bỏ hợp đồng, có hai trường hợp:
Thứ nhất, khi các bên có thỏa thuận sẵn rằng việc vi phạm đó sẽ áp
dụng chế tài hủy hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận bằng điều khoản hợp
đồng hoặc bằng văn bản bổ sung hợp đồng.
Thứ hai, chế tài hủy hợp đồng thường được áp dụng khi một bên có sự
vi phạm cơ bản các nghĩa vụ của hợp đồng.
Việc áp dụng chế tài hủy hợp đồng để lại cho các bên những hậu quả
pháp lý nhất định. Theo điều 314, hậu quả của việc hủy hợp đồng là:
+ Sau khi hủy hợp đồng, hợp đồng khơng có hiệu lực kể từ thời điểm
giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong
hợp đồng (trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng
và về giải quyết tranh chấp).
+ Mỗi bên có quyền địi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ
đã thỏa thuận trong hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hồn trả thì nghĩa
vụ của họ phải được thực hiện đồng thời.
+ Bên bị thiệt hại có quyền địi bên kia bồi thường.
Quy định “không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận” có
nghĩa là nếu các bên chưa thực hiện hợp đồng thì khơng thực hiện nữa, nếu
đang tiến hành thì phải dừng lại, nếu đã thực hiện xong rồi thì thơi. Cịn
trường hợp hai bên đã nhận được quyền lợi của nhau thì phải hồn trả song
song bằng hiện vật (trả lại hàng) hoặc bằng tiền.
25