Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Các vấn đề liên quan đến thương vụ „Ngân hàng Nhà nước mua lại Ngân hàng TMCP Xây dựng với giá 0 đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.7 KB, 17 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

MÔN NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
Chủ đề thảo luận:
Các vấn đề liên quan đến thương vụ „Ngân hàng Nhà nước mua lại
Ngân hàng TMCP Xây dựng với giá 0 đồng‟.
Giảng viên: Phan Đại Thích
Nhóm SV thực hiện: Nhóm 9- Lớp Ca3_thứ3
1
2
3
4
5
6
7

Dương Thị Hương Giang
Phạm Thanh Tùng
Hồng Hữu Chính
Nguyễn Thị Ngọc Anh
Lương Thị Uyên
Hoàng Văn Khánh
Trần Nhật Minh

Hà Nội- 2015
0


LỜI MỞ ĐẦU
Hệ thống Ngân hàng được ví như mạch máu của nền kinh tế. Từ năm 2011, do nền
kinh tế gặp khó khăn, hệ thống Ngân hàng kéo theo đó cũng bị ảnh hưởng lớn, mhiều ngân


hàng hoạt động đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Vì vậy, Chính phủ đã phê duyệt phương án tái cơ
cấu hệ thống Tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo sự ổn định để phát triển, giao cho Ngân hàng
Nhà nước là cơ quan giám sát thực hiện. Trong giai đoạn 2011-2014, đề án đã mở ra đợt
thay máu lớn trong hệ thống và trải qua 3 năm thực hiện tái cơ cấu lần thứ ba theo đề án
254 này, đến thời điểm hiện tại, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã đạt được nhiều thành
công. Thanh khoản của các ngân hàng thương mại được củng cố, tạo lòng tin đối với người
gửi tiền. Việc xử lý nợ xấu, xử lý sở hữu chéo, lung đoạn đã có dấu hiệu tích cực. Năm
2015 là năm cuối cùng của giai đoạn tái cấu trúc Ngân hàng theo đề án 254. Việc tái cơ cấu
được triển khai quyết liệt, đúng lộ trình. Và sự kiện lớn nhất đầu năm 2015, mở ra một năm
về đích quyết liệt của đề án tái cơ cấu đó là: Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành
quyết định số 249/QĐ-NHNN mua bắt buộc toàn bộ 100% cổ phần của Ngân hàng TMCP
xây dựng Việt Nam với giá 0 đồng/cổ phiếu, chấm dứt tồn bộ quyền, lợi ích và tư cách cổ
đông của các cổ đông hiện hữu của Ngân hàng Thương mại CP xây dựng Việt Nam.
Để đi sâu hơn và tìm hiểu kỹ về sự kiện thương vụ trên, chúng em xin phép nghiên
cứu về đề tài thảo luận : Các vấn đề liên quan đến thương vụ „Ngân hàng Nhà nước mua lại
Ngân hàng TMCP Xây dựng với giá 0 đồng”.
Do kiến thức và nguồn số liệu cịn hạn hẹp nên trong q trình thảo luận nghiên cứu
của chúng em cịn gặp nhiều sai sót, hạn chế. Chúng em mong có được nhiều sự góp ý của
thầy cùng toàn thể các bạn để hoàn thiện đề tài hơn !

1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................................................................1
1.

Bối cảnh chung ..........................................................................................................................................2

2.


Sơ lược về Ngân hàng Xây dựng (VNCB) ..............................................................................................3

3.

Thương vụ mua lại VNCB của NHNN với giá 0 đồng ...........................................................................5

4.

3.1

Diễn biến và kết quả ...........................................................................................................................5

3.2

Nguyên nhân dẫn đến việc VNCB bị mua lại bởi NHNN ...................................................................7

3.3

Lý do NHNN thực hiện mua lại ........................................................................................................10

a)

Cơ sở.................................................................................................................................................10

b)

Thực tiễn các nước khác ...................................................................................................................11

Tác động từ thương vụ mua ngân hàng VNCB với giá 0 đồng...........................................................12

4.1

Đối với VNCB ...................................................................................................................................12

4.2

Đối với NHNN ..................................................................................................................................14

4.3

Đối với hệ thống Ngân hàng .............................................................................................................15

KẾT LUẬN ......................................................................................................................................................15

1. Bối cảnh chung
Cách đây 3 năm, ngày 1-3-2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
254/QĐ-TTg phê duyệt đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015
(gọi tắt là Đề án 254). Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu chúng ta tiến hành tái cơ cấu
ngân hàng mà trong 15 năm qua, hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam đã 3 lần tái cơ cấu,
lần nào cũng thành công nhưng đều phải chịu những mất mát, hy sinh nhất định. Lần thứ
nhất sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1998-2003). Lần thứ hai (từ 2005 đến 2008)
gắn với giai đoạn Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Thực hiện Đề
án 254 là lần tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thứ ba của Việt Nam.
Bối cảnh của tái cơ cấu lần thứ ba là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy
thối kinh tế tồn cầu năm 2008-2009 lan rộng. Nhiều ngân hàng Mỹ có lịch sử hàng trăm
năm hoạt động cũng sụp đổ. Trong nước, hậu quả của một thời kỳ phát triển “bong bóng”
bất động sản, chứng khốn và tín dụng những năm 2005-2007 để lại, đã dồn tích lên vai các
ngân hàng thương mại mà biểu hiện rõ nét là rủi ro tín dụng tiềm ẩn cao, nợ xấu liên quan
2



đến bất động sản tăng nhanh. Tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo, thành lập công ty “sân
sau”, cho vay vượt quá khả năng nguồn vốn cả về khối lượng và cơ cấu thời hạn đã tới mức
báo động. Trước tình hình đó, ngay từ cuối năm 2011, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Nguyễn Văn Bình, sau khi nhậm chức đã đặt ngay nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách xuyên suốt
của toàn ngành phải tập trung tái cơ cấu toàn diện lại hệ thống các ngân hàng thương mại,
kể cả các tổ chức tín dụng nhỏ, đồng thời thiết lập một trật tự kỷ cương trong quản lý và
điều hành thị trường tiền tệ.
Trong giai đoạn 2011-2015, Chính phủ phê duyệt đề án thì có danh sách 9 ngân hàng
phải tái cơ cấu gồm Habubank, SCB, TinNghiaBank, Ficombank, TPBank, TrustBank,
Navibank, Western Bank và GP.Bank. Tính đến hiện tại, Ngân hàng Sài Gịn (SCB), Ngân
hàng Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và Ngân hàng Đệ Nhất (Ficombank) đã hợp nhất
thành SCB và kết quả hoạt động của năm 2014 được cho là khá khả quan. Ngân hàng Nam
Việt (Navibank), sau khi tự cơ cấu lại đã đổi tên thành Ngân hàng Quốc dân (NCB). Tương
tự Nam Việt, Ngân hàng Tiên Phong (TienPhongBank) và Đại Tín (TrustBank) cũng chọn
cách tự tái cơ cấu thông qua việc tăng mạnh vốn điều lệ từ các cổ đơng. Ngồi ra, Ngân
hàng Nhà Hà Nội (Habubank) đã sáp nhập vào Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB). Bên
cạnh đó, Ngân hàng Phương Tây (Western Bank) cũng đã tiến hành hợp nhất với Tổng công
ty Tài chính Cổ phần Dầu khí (PVFC).
Có thể thấy, trong những năm trước, 2 con đường tái cơ cấu của các ngân hàng đó là
(1) tiến hành hợp nhất, sáp nhập (2) tăng vốn điều lệ từ các cổ đông. Thế nhưng đầu năm
2015, lần đầu tiên NHNN tham gia tái cơ cấu một ngân hàng thương mại bằng cách tham
gia góp vốn mua cổ phần. Với việc bị quốc hữu hóa, VNCB là ngân hàng thương mại thứ
hai trên thị trường được Nhà nước sở hữu 100% vốn, sau Agribank.
2. Sơ lược về Ngân hàng Xây dựng (VNCB)
Năm 1989, VNCB được thành lập với tên gọi khai sinh là Ngân hàng TMCP nông
thôn Rạch Kiến theo Quyết định số 1114/UB.QÐ ngày 21-7-1989 của UBND tỉnh Long An
và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 9 năm 1989. Thời điểm thành lập, Ngân
hàng đối mặt với nhiều khó khăn trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi từ kinh tế
3



hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Chính phủ. Bằng sự nỗ lực,
Ngân hàng đã vượt qua giai đọan khủng hoảng hệ thống tín dụng vào đầu những năm 1990.
Ngày 29 tháng 12 năm 1993, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp giấy phép số
0047/NH-GP về việc chấp thuận cho Ngân hàng TMCP nông thôn Rạch Kiến thành lập và
hoạt động.
Giai đoạn từ năm 1990 đến 1999, Ngân hàng ổn định hoạt động, bước đầu có sự tăng
trưởng qua từng năm.
Giai đoạn từ năm 1999 đến 2005: Ngân hàng giữ vững các chỉ tiêu tăng trưởng đều
đặn qua từng năm.
Ngày 17/08/2007, theo quyết định số 1931/QĐ-NHNN, VNCB được Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc chuyển đổi mơ hình hoạt động thành Ngân hàng
thương mại cổ phần đô thị với tên gọi là Ngân hàng TMCP Đại Tín (TrustBank). Năm 2007
cũng đánh giá giai đoạn phát triển chóng mặt của ngân hàng này. So với khi mới thành lập,
tổng tài sản của TrustBank khi đó tăng gấp năm lần, từ hơn 243 tỷ đồng lên hơn 1.142 tỷ
đồng; vốn điều lệ tăng gấp bảy lần, từ 70 tỷ đồng lên hơn 504 tỷ đồng; lợi nhuận tăng gấp
bảy lần, từ hơn 4,5 tỷ đồng lên hơn 32 tỷ đồng...
Giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2010: Giai đoạn Ngân hàng TMCP Đại Tín tăng
trưởng với tốc độ nhanh và ổn định. Đến 31/12/2010 vốn điều lệ Ngân hàng đạt 3.000 tỷ
đồng, tổng tài sản đạt 19.762 tỷ đồng; tăng hơn 300% so với năm 2009; mạng lưới hoạt
động tăng thêm 42 điểm so với năm 2009, đạt 103 điểm trên cả nước. Cũng trong năm 2010,
TrustBank lọt vào Top 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam và đứng thứ 30 trong
Top 500 doanh nghiệp tăng trưởng nhanh nhất Việt Nam.
Tính đến cuối năm 2011, tổng tài sản của TrustBank đạt 28.000 tỷ đồng, tăng 3.111
lần so với ngày đầu thành lập. Lợi nhuận trước thuế của TrustBank đến cuối năm 2011 đạt
550 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 152%. Từ năm 2011, do ảnh hưởng
bởi suy thối kinh tế, ngân hàng rơi vào khó khăn, phải tái cơ cấu theo yêu cầu của Chính

4



phủ, là 1 trong 9 ngân hàng trong đề án 254, và đã tái cơ cấu thành công với sự xuất hiện
của nhóm cổ đơng mới vào cuối năm 2012.
Tháng 05/2013, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành quyết định số
1161/QĐ-NHNN về việc thay đổi tên gọi của Ngân hàng TMCP Đại Tín, theo đó, tên gọi
mới chính thức là Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam (Tên viết tắt tiếng Việt và tiếng
Anh là Ngân hàng xây dựng Việt Nam và Vietnam Construction Bank- VNCB) với chiến
lược phát triển đáp ứng nhu cầu thiết thực của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành
xây dựng nói riêng. Theo đó, Ngân hàng Xây dựng Việt Nam là ngân hàng đa năng, tập
trung hoạt động theo hướng cung cấp các dịch vụ ngân hàng đặc thù đến các khách hàng
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng, xây dựng
nhà ở xã hội, nhà trả chậm... Đồng thời, ngân hàng cũng triển khai thực hiện theo các chủ
trương của Chính phủ tại các nghị quyết 01/NQ-CP và 02/NQ-CP trong việc đồng hành
cùng các doanh nghiệp bất động sản, xây dựng, tháo gỡ khó khăn, giải phóng hàng hóa tồn
đọng, hỗ trợ sự phát triển của thị trường...Qua đó, ơng Phan Thành Mai, Tổng thư ký Hiệp
hội bất động sản Việt Nam được giới thiệu với vai trị là phó tổng giám đốc thường trực
Ngân hàng, tuy nhiên những thành viên HĐQT của Ngân hàng Xây dựng không được công
bố công khai trên website ngân hàng này như những nhà băng khác vẫn làm. VNCB ra đời
đứng đằng sau là một tập đồn xây dựng và một nhóm cổ đơng bất động sản và từ đầu tháng
2-2013 tập đoàn Thiên Thanh - cổ đơng mới - đã chính thức tiếp quản VNCB. Đồng thời,
ngày 26/12/2013, VNCB có bố cáo chính thức nâng vốn điều lệ thành công từ 3000 tỷ lên
7.500 tỷ đồng.
Trong năm 2014, VNCB đã có nhiều bước đi táo bạo trong kinh doanh dẫn đến sự
âm vốn và vụ bê bối về các nhân sự cấp cao bị truy tố đã khiến ngân hàng này nhanh chóng
rơi vào diện kiểm soát đặc biệt của NHNN. Cho đến đầu tháng 3/2015, ngân hàng này đã
chính thức bị NHNN mua lại với giá 0 đồng/ 1 cổ phần.
3. Thương vụ mua lại VNCB của NHNN với giá 0 đồng
3.1 Diễn biến và kết quả


5


Ngày 2/2/2015, Ngân hàng Nhà nước phát đi thông báo về việc xử lý đặc biệt đối với
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xây dựng Việt Nam (VNCB). Thông cáo cho biết, ngày
31/1/2015, đại hội đồng cổ đông bất thường VNCB đã được tổ chức tại Long An để thông
báo cơng khai về kết quả kiểm tốn độc lập về thực trạng tài chính, giá trị thực và vốn điều
lệ của ngân hàng, và thông qua phương án bổ sung vốn điều lệ theo quy định của pháp luật.
Đại hội đồng cổ đông quyết nghị không thông qua phương án bổ sung vốn điều lệ để đảm
bảo giá trị thực vốn điều lệ tối thiểu của ngân hàng bằng mức vốn pháp định. Với tổn thất tài
chính nặng nề, trong khi VNCB khơng có các giải pháp tái cơ cấu khả thi theo yêu cầu của
Ngân hàng Nhà nước, do vậy mà căn cứ Luật Các tổ chức tín dụng, Quyết định số
48/2013/QĐ-TTg ngày 1/8/2013 về việc góp vốn, mua cổ phần bắt buộc của tổ chức tín
dụng được kiểm soát đặc biệt và nghị quyết của đại hội đồng cổ đông VNCB, Ngân hàng
Nhà nước đã tuyên bố quyết định sẽ mua lại bắt buộc toàn bộ vốn cổ phần của VNCB với
giá bằng 0 đồng/cổ phần. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước trở thành chủ sở hữu (100% vốn
điều lệ) của VNCB, chấm dứt toàn bộ quyền, lợi ích và tư cách cổ đông đối với các cổ đông
hiện hữu của ngân hàng này.
Ngày 5/3/2015, Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định chuyển đổi Ngân hàng cổ
phần Xây dựng (VNCB) sang mơ hình mới, ngân hàng trách nhiệm hữu hạn một thành viên
do Nhà nước làm chủ sở hữu. Đây là bước tiếp theo sau khi Ngân hàng Nhà nước mua lại
với giá 0 đồng và trở thành chủ sở hữu (100% vốn điều lệ) của nhà băng, chấm dứt tồn bộ
quyền, lợi ích và tư cách cổ đông đối với các cổ đông hiện hữu. Vốn điều lệ của VNCB
được Ngân hàng Nhà nước công bố là 3.000 tỷ đồng - mức tối thiểu theo quy định hiện hành.
Thực tế là, mức vốn điều lệ 7.500 tỷ đồng mà VNCB tăng lên từ 3.000 tỷ đồng từ ngày
26/12/2013 đã khơng cịn tồn tại và mức 3.000 tỷ đồng vừa công bố là mức vốn điều lệ mới,
sau khi Ngân hàng Nhà nước trở thành chủ sở hữu và “bơm” vốn vào.
Bên cạnh công bố quyết định chuyển đổi mơ hình VNCB, NHNN cũng bổ nhiệm cơ
cấu nhân sự quản trị điều hành ngân hàng này, cụ thể là: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
(Vietcombank) tiếp tục được chỉ định tham gia quản trị, điều hành VNCB. Ông Nguyễn Văn

Tuân, Phó tổng giám đốc Vietcombank, được bổ nhiệm giữ chức Chủ tịch Hội đồng Thành
viên VNCB; ông Đàm Minh Đức được bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng Thành viên, kiêm
6


Tổng giám đốc VNCB. Ngoài ra, một số nhân sự của Vietcombank cũng được bổ nhiệm các
chức vụ trong Hội đồng Thành viên, Ban Tổng giám đốc, Ban Kiểm soát ngân hàng vừa
chuyển đổi này.
Sau khi tiếp quản VNCB, Ngân hàng Nhà nước sẽ phối hợp với các cơ quan liên
quan triển khai phương án tái cơ cấu xử lý những tồn tại, yếu kém đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt, đồng thời triển khai các giải pháp phát triển Ngân hàng Thương mại TNHH
MTV Xây dựng Việt Nam hoạt động an toàn, đúng pháp luật, cũng theo định hướng nêu
trong thơng cáo. Và Phó thống đốc Nguyễn Phước Thanh cho biết, Ngân hàng Nhà nước có
kế hoạch hỗ trợ vốn cho VNCB, dự tính cần 40.000 tỷ đồng cho quá trình trở lại hoạt động
bình thường. Một phần nhu cầu vốn trên được Ngân hàng Nhà nước “bơm” qua tái cấp vốn,
một phần VNCB sẽ bán nợ cho VAMC.
3.2 Nguyên nhân dẫn đến việc VNCB bị mua lại bởi NHNN
Trong thông cáo của NHNN về việc mua lại VNCB có nêu rằng : hoạt động của
VNCB bộc lộ nhiều yếu kém, việc quản trị, điều hành ngân hàng vi phạm nghiêm trọng quy
định của pháp luật. Vậy thực tế thì hoạt động của VNCB như thế nào trong thời gian qua để
dẫn tới tình trạng thất thốt vốn?
Đầu năm 2013, Tập đồn Thiên Thanh chính thức tham gia tái cơ cấu ngân hàng
TMCP Đại Tín (tên cũ của Ngân hàng Xây dựng), với việc doanh nghiệp này sở hữu 9,67%
vốn của VNCB đồng thời chủ tịch Thiên Thanh là chủ tịch của VNCB. Sau khi tăng vốn
điều lệ từ 3000 tỷ lên 7500 tỷ thành công ở cuối năm 2013, đến năm 2014 thì VNCB đã đưa
ra các chiến lược kinh doanh mới chuyển mình hướng đến mục tiêu ưu tiên phát triển hệ
thống sản phẩm, dịch vụ, phục vụ nhóm ngành nghề đặc thù là ngành xây dựng. Tháng
3/2014, VNCB chủ trì xây dựng chương trình liên kết 4 nhà trị giá 50.000 tỷ đồng nhằm hỗ
trợ thị trường bất động sản. Gói 50.000 tỷ mà (VNCB) cùng công ty Thiên thanh đưa ra vấp
phải nhiều sự hoài nghi, khi Thiên Thanh và VNCB do cùng một người là ông Phạm Công

Danh là chủ tịch. Khi mà trong 2 năm vừa qua Trust Bank ngân hàng trong diện yếu kém
được chuyễn đổi thành VNCB không báo cáo doanh thu của ngân hàng là dấy lên dư luận về
chuyện khơng được minh bạch và có gì ẩn khuất trong gói 50000 tỷ đồng? Ngồi ra, trên thị
7


trường những năm trước đó cũng có những thơng tin rằng ngân hàng VNCB bị âm vốn chủ
sở hữu tức là khoản nợ của VNCB lớn hơn rất nhiều so với vốn chủ. Cho đến ngày
29/7/2014, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã công bố quyết định khởi tố vụ án, khởi
tố bị can và bắt tạm giam bị can đối với: ông Phạm Công Danh, Chủ tịch Hội đồng thành
viên Công ty trách nhiệm hữu hạn Tập đồn Thiên Thanh, ơng Phan Thành Mai, ngun
thành viên Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Thiên Thanh, ông Mai Hữu Khương, nguyên
thành viên Hội đồng quản trị, phụ trách Tài chính Tập đồn Thiên Thanh. Những nhân vật
này đều tham gia Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam (VNCB), trong đó, ơng Phạm
Cơng Danh là Chủ tịch Ngân hàng VNCB cịn ơng Phan Thành Mai là Tổng Giám đốc ngân
hàng này. Đây là vụ án cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả
nghiêm trọng theo điều 165 Bộ luật Hình sự, xảy ra tại Cơng ty TNHH Tập đồn Thiên
Thanh. Hoạt động sai phạm của họ lại không diễn ra tại VNCB, mà đi vay mượn sai trái tại
các tổ chức tín dụng khác.
Ngày 5/12/2014, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an khởi tố bị can thêm 6 đối
tượng bị xác định là đồng phạm của ông Phạm Cơng Danh, trong đó có Hồng Đình Quyết
ngun Phó giám đốc phụ trách VNCB Chi nhánh Sài Gòn, kiêm Giám đốc VNCB Chi
nhánh Lam Giang và Nguyễn Quốc Viễn ngun Trưởng Ban kiểm sốt VNCB. Ngồi tội
“cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, 2 bị
can này còn bị khởi tố về tội “vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức
tín dụng”. Do đó, ngân hàng này lại rơi vào diện kiểm soát đặc biệt của NHNN và phải nhờ
tới sự “trợ giúp” từ Vietcombank. Tuy khơng có thơng tin chính xác là VNCB bị âm vốn
bao nhiêu song tình trạng bị âm vốn này chắc chắn và VNCB có nguy cơ phá sản nếu
không được bổ sung vốn. Để giải quyết vấn đề này, VNCB đã tổ chức họp ĐHCĐ bất
thường song quyết định không thông qua phương án bổ sung vốn điều lệ tại ĐHCĐ của

Ngân hàng đã khiến NHNN phải can thiệp.
Giải thích về nguyên nhân VNCB âm vốn dẫn tới nguy cơ phá sản dựa trên lý
thuyết ( Tham khảo bài viết về VNCB của tác giả: Lê Hồng Giang –
Nguồn: kinhtetaichinh.blogspot.com)

8


Để giải thích về vụ của VNCB cũng như hoạt động của 1 ngân hàng thương mại thì
có thể xem xét một ví dụ đơn giản về bảng cân đối của ngân hàng. Giả sử rằng, khi bắt đầu
hoạt động, Ngân hàng X có vốn tự có là 10 tỷ, huy động thêm được 90 tỷ từ khách hàng gửi
tiền thì tổng số bên Nguồn vốn của X là 100 tỷ. Cũng giả sử rằng NHNN không yêu cầu
mức dự trữ bắt buộc nên X cho vay hết 100 tỷ. Lúc này, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu = VTC/
Tổng TS có rủi ro = 10/100 = 10% > 9 % đảm bảo tuân thủ theo yêu cầu của NHNN ( Điều
9 Thơng tư 36)
Song, vì một lý do nào đó mà một khoản cho vay trị giá 1 tỷ trở thành nợ xấu ( không
nhất thiết bị mất hoàn toàn mà chỉ cần khả năng thu hồi nợ là khó) thì NH X phải cơng bố số
nợ xấu đó và trích lập dự phịng ghi âm bên cột Tài sản. Nghĩa là Tài sản lúc này chỉ còn 99
tỷ, do đó Nguồn vốn giảm tương ứng 1 tỷ và giảm vào phần Vốn tự có ( tức chỉ cịn 9 tỷ).
Khi đó tỷ lệ an tồn vốn tối thiểu = 9/99 = 9.09% vẫn lớn hơn tỷ lệ an tồn vốn tối thiểu
theo quy định. Do đó, NH vẫn được phép hoạt động nhưng tất nhiên giá trị cổ phiếu của
ngân hàng nếu được giao dịch trên thị trường sẽ giảm. Tất cả các cổ đông đều phải chịu
chung số lỗ 1 tỷ đó.
Nhưng, bây giờ khoản nợ xấu lên tới 5 tỷ, tính giống như trên ta sẽ có tỷ lệ an tồn
vốn = 5/95 = 5% không đáp ứng theo quy định. Trường hợp này, NHNN sẽ yêu cầu ngân
hàng X nâng tỷ lệ an toàn vốn lên tối thiểu bằng 9% tức là (i) huy động thêm 3,55 tỷ vốn
điều lệ, (2) giảm bớt tài sản có rủi ro xuống 62,5 tỷ. Với cách (i) thì sẽ làm giảm cổ phần
của các cổ đơng hiện hữu trừ khi họ bỏ thêm tiền của họ, do vậy có thể giảm/mất quyền
kiểm sốt ngân hàng và phải chia sẻ lợi nhuận trong tương lai còn cách (ii) khó thực hiện
trên thực tế.

Ở trường hợp của VNCB có thể thấy rằng VNCB có nợ xấu tệ hơn rất nhiều và cách
bán hết tài sản cũng không đủ để trả lại 90 tỷ tiền gửi của khách hàng ( như trong ví dụ) và
cách (i) cũng khơng khả thi bởi các nhà đầu tư chẳng dại gì bỏ ra một số tiền hơn 10 tỷ để
mua một ngân hàng có giá trị thấp hơn con số đó, mà đó là tính theo giá trị sổ sách, giá thị
trường cịn thấp hơn nữa. Có thể hiểu tại sao các cổ đông hiện hữu của VNCB không chịu
bỏ thêm tiền vào ngân hàng để tăng vốn tự có lên đủ yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và
dẫn tới phương án phá sản, đồng thời NHNN phải can thiệp.
9


3.3 Lý do NHNN thực hiện mua lại
a) Cơ sở
Việc NHNN mua cổ phần của VNCB bắt buộc với giá 0 đồng có thể ngầm rằng Ngân
hàng xây dựng khơng cịn vốn điều lệ, thậm chí vốn điều lệ âm mặc dù chưa có báo cáo
chính xác nào được cơng bố. Ngun nhân vốn điều lệ khơng cịn do kinh doanh kém nợ
xấu lớn hơn vốn điều lệ, nếu đúng quy luật thị trường ngân hàng phải giải thể, phá sản, tuy
nhiên nếu như vậy quyền lợi của khách hàng những người ký gửi tiền tại VNCB sẽ ảnh
hưởng nghiêm trọng. Do vậy, Ngân hàng nhà nước quyết định mua lại cổ phần VNCB để
tránh tình huống xấu nhất đó là sự tác động dây chuyền của ngành và khủng hoảng từ phía
người gửi tiền.
“Thà mất tiền (Nhà nước chi trả) để có sự bình ổn trong xã hội sẽ tốt hơn nếu tuyên
bố ngân hàng phá sản, người dân mất tiền sẽ dẫn đến mất niềm tin mất, rồi gây bất ổn xã hội
và nhiều hệ lụy khác. Do đó, NHNN đang và sẽ tiếp tục chọn phương án trên đối với ngân
hàng thương mại”- Phó thống đốc khẳng định. Cũng theo một số suy đoán của các chuyên
gia kinh tế việc NHNN dự tính đến phương án mua lại các ngân hàng yếu kém nói trên với
mức giá 0 đồng là do các cơ quan chủ quản sợ rằng nếu để cho 2 ngân hàng này phá sản thì
sẽ châm ngịi nổ cho một làn sóng hoảng loạn rút tiền của khách hàng và gây ra sự đổ vỡ
cho các ngân hàng lành mạnh khác. Cũng có cùng quan điểm trên, chun gia kinh tế
Nguyễn Trí Hiếu nhìn nhận việc Ngân hàng Nhà nước đứng ra mua cổ phần ngân hàng với
giá 0 đồng sẽ giúp lòng tin của người dân đối với hệ thống ngân hàng được củng cố khi mà

những ngân hàng yếu kém bị xử lý quyết liệt.
Khơng chỉ có T.S Hiếu, nhiều chun gia ngân hàng cho biết, trên thực tế, với tình
trạng mất hết vốn chủ sở hữu như VNCB, có thể nói ngân hàng này đã ở trong trạng thái phá
sản về mặt kỹ thật. Do đó quyết định “quốc hữu hóa” VNCB của NHNN là hoàn toàn sáng
suốt nhằm đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền, không gây bất ổn tới hệ thống.
Bên cạnh đó, tại sao giá mua bắt buộc cổ phần của VNCB lại là 0 đồng mà
không phải là một con số nào khác? Tuy Quyết định 48 khơng có điều khoản nào đề cập
đến chuyện xác định giá mua bắt buộc cổ phần mà NHNN phải trả cho các cổ đông hiện
10


hữu của ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt, nhưng Điều 5 của Quyết định này trao quyền cho
Thống đốc NHNN quyết định giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ của ngân hàng
đó. Trường hợp sau khi có kết quả kiểm tốn độc lập và Thống đốc NHNN quyết định rằng
giá trị thực của vốn điều lệ của VNCB đã tụt giảm xuống 0 (không cịn giá trị), kết hợp với
tính chất mua bắt buộc thì việc NHNN mua cổ phần của VNCB với giá 0 đồng/cổ phần là
hồn tồn đúng luật và khơng có gì là bất cơng cho cổ đơng hiện hữu của VNCB. Cịn nếu
có ai đó sẵn sàng mua cổ phần VNCB với giá cao hơn thì, với quyết định mua bắt buộc của
NHNN căn cứ Quyết định 48, các cổ đông VNCB cũng không được quyền bán cho họ, và
chỉ có NHNN được mua với giá mà NHNN xác định là hợp lý. Đồng thời, trước khi chính
thức bị mua lại cũng như tổ chức ĐHĐCĐ, VNCB đã bị đặt vào diện kiểm soát đặc biệt nên
nhất cử nhất động của ngân hàng đều phải được sự giám sát và đồng ý của NHNN.
b) Thực tiễn các nước khác
Việc quốc hữu hóa một ngân hàng cũng khơng cịn xa lạ trên bản đồ tài chính thế
giới. Indonesia và Trung Quốc, nền kinh tế khá tương đồng với Việt Nam, cũng gặp phải
vấn đề nợ xấu thập kỷ 1990s, và đã khá thành cơng bằng việc mạnh tay đóng cửa các tổ
chức tài chính vừa và nhỏ mất khả năng thanh toán; tái cấp vốn trực tiếp cho các NHTM
Nhà nước bên cạnh việc thành lập các công ty quản lý tài sản, phát hành trái phiếu Chính
phủ đặc biệt. Việc NHTM bị mất khả năng thanh tốn đã bị đóng cửa, đây là yếu tố thay đổi
quan điểm “tổ chức tài chính sẽ khơng bao giờ đổ vỡ” ở Trung Quốc.

Nhật Bản, một nền tài chính phát triển cao, cũng phải thực hiện quốc hữu hóa và
buộc sáp nhập một loạt các ngân hàng cho tới tận năm 1998. Cuối năm 1998, Nhật đã tiến
hành quốc hữu hóa 2 ngân hàng lớn là Long-Term Credit và Nippon Credit. Trong khoảng
từ 2001 tới 2003, một số ngân hàng đã được hợp nhất với nhau thành 5 ngân hàng lớn hơn
gồm: Mizuho Financial Group, Sumitomo Mitsui Financial Group, Mitsubishi Tokyo
Financial Group, UFJ Holdings, Resona Holdings. Ngồi ra chi phí cho cả q trình tái cơ
cấu và xử lý nợ xấu của Nhật lên tới 101,96 nghìn tỷ yên, chiếm 19,87% GDP năm 2007
của Nhật. Tuy nhiên, tỷ lệ này thấp nếu so với các quá trình tái cơ cấu ở các nước châu Âu
(khoảng 40%).
11


Trường hợp mua lại một tổ chức tài chính nổi tiếng nhất có lẽ là vụ Chính phủ Mỹ
mua lại Fannie Mae và Freddie Mac, những định chế nắm giữ gần một nửa các khoản tín
dụng thế chấp bằng bất động sản của nước này. Ngày 7/9/2008, Chính phủ chấp thuận bỏ ra
200 tỷ đô la để cứu nợ bằng cách mua lại cổ phần của Fannie Mae và Freddie Mac. Mặc dù
đó mới chỉ là bước khởi đầu của cuộc khủng hoảng tài chính tồn diện, dẫn tới sự sụp đổ
của ngân hàng đầu tư Lehmans Brother một tuần sau đó. Quyết định đặt Fannie Mae và
Freddie Mac dưới quyền quản trị của Chính phủ đảm bảo thu chi cân bằng và an tồn cho
hoạt động tín dụng. Nhờ đó mà thị trường địa ốc của Mỹ, nơi Fannie Mae và Freddie Mac là
hai người khổng lồ, không bị sụp đổ với hậu quả không ai lường trước.
4. Tác động từ thương vụ mua ngân hàng VNCB với giá 0 đồng
4.1 Đối với VNCB
-

Đối với các cổ đông của VNCB:
Thống đốc NHNN quyết định mua bắt buộc toàn bộ cổ phần của Ngân hàng TMCP

Xây dựng Việt Nam với giá 0 đồng/1 cổ phần.Đồng thời, trong quyết định này nêu rõ tồn
bộ quyền, lợi ích và tư cách cổ đông của các cổ đông hiện hữu của VNCB bị chấm dứt từ

ngày 5/3/2015. Theo đó, trước khi NHNN mua lại toàn bộ cổ phần, ngân hàng Xây dựng
hiện đang có 551 cổ đơng, trong đó 6 cổ đơng pháp nhân và 545 cổ đông thể nhân. Các cổ
đông pháp nhân gồm 3 cổ đơng thuộc Khối văn phịng Nhà nước; 1 cổ đơng là TCTD đó là
12


Ngân hàng Agribank và 1 cổ đông là doanh nghiệp nhà nước là Cơng ty lương thực Long
An thì nay chủ sở hữu duy nhất của VNCB là NHNN.
Có những ý kiến trái chiều cho rằng việc làm này không giữ được quyền lợi cho các
cổ đông. Tuy nhiên thực tế rõ ràng các cổ đông không phải ở thế bị động cho đến lúc áp
dụng biện pháp hành chính. Đại hội cổ đông cũng đã chủ động quyết định việc khơng tiếp
tục duy trì quyền và nghĩa vụ của cổ đông ở ngân hàng này bằng nghị quyết không góp vốn
bổ sung. Ngồi ra, cổ đơng của VNCB bỗng chốc trắng tay cũng là một câu hỏi tại sao. Giải
thích điều này có một số ý kiến cho rằng thực tế thì số tiền đầu tư của cổ đơng vào VNCB
đã mất tồn bộ, thậm chí cịn phải gánh chịu một khoản nợ; việc NHNN bắt buộc chấm dứt
tư cách cổ đông với 551 cổ đông này là chịu thay nợ và cổ đơng vẫn cịn được hưởng lợi do
khơng phải gánh chịu khoản nợ cịn lại nữa.
Mặt khác, thực tế một số nguyên tắc xử lý tổ chức tài chính trên thế giới cịn cho rằng,
những trái chủ cũng buộc phải chia sẻ thiệt hại chứ không riêng cổ đơng vì chính họ đã lựa
chọn đầu tư vào tổ chức yếu kém. Chính cơ chế và tổ chức quản trị yếu kém tại VNCB đã
dẫn đến tình trạng hiện tại của Ngân hàng và các cổ đông là những người chịu trách nhiệm
cuối cùng.
-

Đối với khách hàng gửi tiền tại VNCB:
Thay vì để phá sản, các khách hàng gửi tiền tại VNCB sẽ được hưởng bảo hiểm tiền

gửi tối đa là 50 triệu thì việc NHNN mua lại VNCB giá 0 đồng giúp cho các khoản tiền gửi
của khách hàng tại VNCB vẫn được đảm bảo số lượng, ổn định tâm lý người gửi tiền và
lòng tin vào hệ thống ngân hàng.

-

Tổ chức, hoạt động của VNCB sau khi NHNN mua lại
VNCB được chuyển đổi từ hình thức CTCP thành công ty TNHH MTV do Nhà nước

làm chủ sở hữu với vốn điều lệ của Ngân hàng này là 3.000 tỷ đồng. Do chỉ đổi chủ nên các
hoạt động của VNCB vẫn diễn ra bình thường, người lao động vẫn được tiếp tục làm việc,
các điểm, chi nhánh vẫn tiếp tục hoạt động. NHNN cũng đã có những bước đi đầu tiên trong
quá trình vực dậy ngân hàng này khi đưa Vietcombank tham gia quản trị, điều hành VNCB
13


nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai phương án tái cơ cấu ngân hàng này. Ngoài
ra, chắc chắn điều lệ hoạt động của ngân hàng cũng sẽ được sửa đổi, bổ sung phù hợp với
quy định của pháp luật.
4.2 Đối với NHNN
Kể từ khi tuyên bố mua lại ngân hàng này với giá 0 đồng, NHNN chịu toàn bộ trách
nhiệm với người gửi tiền, đồng thời phải khắc phục các tồn tại, lấp đầy các khoản lỗ cũng
như bổ sung đầy đủ số vốn điều lệ theo quy định. Để thực hiện mua lại VNCB, mặc dù gọi
là mua với giá “0 đồng”, nhưng NHNN phải bỏ ra khoản tiền rất lớn 40 000 tỷ đồng để hỗ
trợ, đưa ngân hàng này hoạt động trở lại bình thường.
Khi tiếp nhận VNCB nói riêng và các NH yếu kém khác đồng nghĩa với việc NHNN
phải ôm một khoản nợ xấu lớn, rất khó xử lý và nguy cơ mất vốn là cực cao. Theo các
chuyên gia, không hề dễ dàng để phục hồi một ngân hàng mà vốn chủ sở hữu âm, tức đã phá
sản về mặt kỹ thuật, phát triển đến một giai đoạn hưng thịnh, bắt đầu có lãi nhằm trả lại
những chi phí cũng như vốn điều lệ cho Nhà nước. Do đó việc tái cấu trúc VNCB sẽ mất
một thời gian khá dài
Đây chỉ là biện pháp tạm thời, do tính hiệu quả của nó chưa thực sự rõ ràng nên Ngân
hàng Nhà nước cần cân nhắc. Vấn đề của ngân hàng yếu kém là họ cho vay quá nhiều, nợ
xấu quá cao. Một khi Ngân hàng Nhà nước đứng ra mua lại cũng không giải quyết tận gốc

được những vấn đề này trừ khi Chính phủ gom tất cả tài sản xấu về và xóa khỏi sổ sách
Trách nhiệm của NHNN: Sau khi tiếp quản Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam,
NHNN sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai phương án tái cơ cấu xử lý những
tồn tại, yếu kém đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đồng thời triển khai các giải pháp
phát triển Ngân hàng TM TNHH MTV Xây dựng Việt Nam hoạt động an toàn, đúng pháp
luật.
Việc ngân hàng nhà nước mua lại ngân hàng xây dựng cho thấy NHNN bắt đầu có ý
thức vận hành theo quy luật kinh tế thị trường. Việt Nam chưa có tiền lệ nhưng một số nền
kinh tế cũng từng xảy ra chuyện mua lại một ngân hàng cổ phần.Điều này cũng cho thấy sự
14


hội nhập, tiến gần hơn đến cách làm của thế giới. Sau khi mua lại VNCB, NHNN đã chỉ đạo
Ngân hàng TMCP Ngoại thương tham gia quản trị, điều hành giúp ngân hàng này hoạt động
an toàn, hiệu quả hơn.
4.3 Đối với hệ thống Ngân hàng
Giải pháp NHNN mua lại VNCB với giá 0 đồng/cổ phiếu đem lại lợi ích to lớn nhất
đó là sự ổn định cho hệ thống ngân hàng và đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền ở
VNCB. Thương vụ là một bước ngoặt lớn phù hợp và cần thiết trong công cuộc tái cấu trúc
hệ thống ngân hàng.Trong giai đoạn 2012- 2014, NHNN đã để cho các ngân hàng tự tái cấu
trúc, tự tìm đối tác cho mua bán sáp nhập. Tuy nhiên năm 2015 là năm đầu tiên NHNN mua
lại toàn bộ ngân hàng VNCB đang trong tình trạng dẫn tới phá sản và giao cho Ngân hàng
TMCP ngoại thương tham gia quản trị.
NHNN sẽ có thể mua lại các ngân hàng như đã mua lại VNCB với giá cổ phiếu là 0
đồng. Không chỉ VNCB mà còn một số ngân hàng khác được xử lý như vậy thời gian tới. Sẽ
có nhiều ngân hàng hợp nhất, sáp nhập. Các ngân hàng đang “khỏe mạnh” cũng có thể sáp
nhập để tạo ra ngân hàng có quy mơ hơn, hoạt động tốt hơn.

KẾT LUẬN
Đối chiếu tiền lệ xử lý khủng hoảng và tái cơ cấu hệ thống tài chính trên thế giới với

hồn cảnh thực tiễn tại Việt Nam, việc mua lại VNCB của NHNN được coi là một bước đi
đúng đắn và tự tin. Tuy nhiên cũng cần phải nói thêm rằng, theo Quyết định 48 của Thủ
tướng, NHNN khơng chỉ có quyền lợi mà cịn phải có trách nhiệm khi xử lý các TCTD kiểm
soát đặc biệt. Điều 9 quyết định này chỉ rằng: “Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm:
a) Thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước;
b) Chỉ đạo việc xây dựng, phê duyệt và giám sát việc triển khai Phương án cơ cấu lại tổ
chức tín dụng được tham gia góp vốn, mua cổ phần”.
Như vậy cơng việc sắp tới của NHNN vẫn cịn nhiều, trong đó có việc khả năng chỉ
định một Ngân hàng tiếp quản VNCB, thực hiện đúng quyền của NHNN là chỉ định tổ chức
tín dụng khác góp vốn, mua cổ phần bắt buộc tổ chức tín dụng được kiểm sốt đặc biệt.
15


Thương vụ NHNN mua lại ngân hàng VNCB với giá 0 đồng thực sự là bước đầu tiên
báo hiệu một cuộc tái cấu trức hệ thống ngân hàng đồng bộ hơn, toàn diện, quyết liệt và
mạnh mẽ hơn. Mặc dù NHNN phải kế thừa trách nhiệm đối với người gửi tiền đồng nghĩa
với việc ôm một khoản nợ xấu, rất khó xử lý và nguy cơ mất vốn là cực cao và cần một
khoản chi phí rất lớn và thời gian rất dài cho việc tái cấu trúc nhà băng, nhưng bù lại thì có
thể đem lại sự ổn định cho hệ thống ngân hàng, tạo thêm lòng tin đối với người dân, khách
hàng gửi tiền, hạn chế gây ảnh hưởng đến chính trị và xã hội.
Và có thể thấy rằng xung quanh thương vụ này vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều nênhay không nên mua lại, song không thể phủ nhận rằng bước đi của NHNN đã giúp thị
trường tránh một cú sốc lớn có thể dẫn tới những hệ quả khó có thể kiểm sốt.
Một số tài liệu tham khảo:
/> /> /> />
16



×