TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA SỬ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NIÊN KHĨA 2011 - 2015
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ HÌNH THỨC SỞ
HỮU
RUỘNG ĐẤT Ở THỦ DẦU MỘT - BÌNH
DƯƠNG
(1897 - 1929)
Chuyên ngành: Sư phạm Lịch sử
Giảng viên hướng dẫn
: TS Bùi Thị
Sinh viên
Huệ : Vũ Thị Yến
MSSV: 1156020034
Lớp: D11LS01
ầu
Bình Dương, tháng 4 năm 2015
LỜI CẢM ƠN
Thơng qua khóa luận tốt nghiệp, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới trường Đại học
Thủ Dầu Một, quý thầy cô khoa Sử đã giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập cũng như thời
gian tơi thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Đặc biệt bày tỏ lịng kính trọng biết ơn tới TS.Bùi Thị Huệ, cơ đã ln tận tình hướng
dẫn và chỉ bảo tơi mỗi khi tơi gặp khó khăn trong q trình thực hiện khóa luận. Thật lịng
em cảm ơn cơ rất nhiều!!!
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn tới thư viện tỉnh Bình Dương và thư viện Tổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong công tác sưu tầm tài liệu để thực hiện
khóa luận.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình đã ln giúp đỡ, động viên và tạo mọi điều
kiện thuận lợi để tơi hồn thiện khóa luận.
1
MỤC LỤC
••
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................................1
MỤC LỤC ......................................................................................................................2
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU..................................................................................4
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................5
1.......................................................................................................................................Lí
do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu .......................................................................5
1.1...............................................................................................................................................Lí
do chọn đề tài ....................................................................................................................5
1.2...............................................................................................................................................M
ục đích nghiên cứu ........................................................................................................6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề....................................................................................7
2.1.
Giai đoạn trước 1945 ....................................................................................7
2.2.
Giai đoạn sau 1945 đến nay..........................................................................7
3. Nguồn tài liệu .....................................................................................................11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................12
4.1.
Đối tượng nghiên cứu .................................................................................12
4.2.
Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................12
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................12
6. Đóng góp của đề tài................................................................................................13
7. Bố cục nội dung khóa luận ................................................................................13
CHƯƠNG 1: ......................................................................................................................14
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI ................................................15
THỦ DẦU MỘT - BÌNH DƯƠNG TRONG TIẾN TRÌNH KHAI PHÁ
VÙNG ĐẤT NAM KỲ (THẾKỈ XVII - XIX)................................................................15
1.1.
Bối cảnh lịch sử...............................................................................................15
1.2.
Quá trình định cư của người Việt ở vùng đất Đông Nam Kỳ đầu thế kỉ
XVII đến nửa đầu thế kỉ XIX..........................................................................................18
1.3.
Chính sách quản lý của các chúa Nguyễn, vua Nguyễn đối với vùng đất
Đông Nam Kỳ.....................................................................................................................23
Tiểu kết chương 1..............................................................................................................29
CHƯƠNG 2: .....................................................................................................................30
HÌNH THỨC SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT ......................................................................30
Ở THỦ DẦU MỘT - BÌNH DƯƠNG (1897 - 1929).....................................................31
2.1.
Q trình xâm chiếm, cướp đoạt ruộng đất của thực dân Pháp ở miền
Đông Nam Kỳ (1897 - 1929) ............................................................................................31
2.1.1. Giai đoạn 1862 - 1897 ...........................................................................32
2.1.2. Giai đoạn 1897 - 1918 ...........................................................................33
2.1.3....................................................................................................................... Gi
ai đoạn 1919 - 1929 ..........................................................................................................35
2.2.
Chính sách của thực dân Pháp đối với ruộng đất Nam Kỳ ...................37
2.3.
Các hình thức sở hữu ruộng đất tồn tại trên địa bàn tỉnh Thủ Dầu Một Bình Dương (1897 - 1929)................................................................................................40
2.3.1. Sở hữu của khối cá nhân hay điền chủ độc lập ...............................43
2.3.2. Sở hữu của những liên doanh điền chủ. ..........................................47
2.3.3. Sở hữu của những công ty điền chủ..................................................48
Tiểu kết chương 2 .........................................................................................................56
CHƯƠNG 3: .....................................................................................................................58
ĐẶC ĐIỂM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ VÀ
SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT (1897 - 1929)..........................................................................58
3.1.
Đặc điểm sở hữu ruộng đất ở phía Nam tỉnh Thủ Dầu Một - Bình
Dương (1897 - 1929).........................................................................................................58
3.2.
Bài học về quản lý và sử dụng đất đai. ....................................................63
Tiểu kết chương 3 .........................................................................................................71
KẾT LUẬN ...................................................................................................................72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................77
PHỤ LỤC ......................................................................................................................82
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1.Thống kê diện tích đất nhượng (1899 - 1918).................................35
Bảng 2.2.Thống kê tình hình ruộng đất của người Việt và người Pháp ở Việt
Nam (1900 - 1930)......................................................................................................36
Bảng 2.3.Phân loại đồn điền của các hình thức sở hữu ruộng đất ở tỉnh Thủ Dầu
Một năm 1926.............................................................................................................50
Biểu đồ 2.4.Các hình thức sở hữu đất ở tỉnh Thủ Dầu Một qua tỷ lệ đồn điền
trồng cao su năm 1926.................................................................................................... 5 1
Biểu đồ 2.5.Các hình thức sở hữuđất
ở tỉnh Thủ Dầu Một qua tỷ lệ diện tích đồn điền trồng cao su năm 1926. ..... 5 1
Bảng 2.6.Sản lượng lúa ở tỉnh Thủ Dầu Một (1921 - 1 945).......................... 52
MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
1.1.
Lí do chọn đề tài
Tỉnh Bình Dương một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam, là một trong những tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, phát triển
công nghiệp năng động của cả nước. Địa giới phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía Nam
giáp thành phố Hồ Chí Minh, phía Đơng giáp tỉnh Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh
và thành phố Hồ Chí Minh. Diện tích tự nhiên 2.695,22km2. Dân số 1.482.636 người
(1/4/2009), mật độ dân số khoảng 550 người/km2. Tồn tỉnh có 15 dân tộc nhưng đơng
nhất là người Kinh sau đó là người Hoa, người Khome...[71].
Bình dương là vùng đất được khai phá cùng với công cuộc Nam tiến của các chúa
Nguyễn. Trải qua quá trình phát triển từ thời các chúa Nguyễn và sau này là vua Nguyễn,
vùng đất Bình Dưong ngày càng được hồn thiện về mặt hành chính song song với q
trình quản lý về các mặt của đời sống kinh tế dưới các triều đại phong kiến.
Dưới thời Pháp thuộc, để thuận lợi cho việc thống trị, ngay khi chiếm được toàn bộ
vùng đất Nam Kì, thực dân Pháp liền tiến hành chia tách địa phận, lập lại các đon vị hành
chính trên tồn cõi Nam Kỳ nói chung, Biên Hịa nói riêng. Năm 1863 Pháp chia Biên Hòa
thành hai phủ Phước Long và Phước Tuy. Địa bàn tỉnh Bình Dưong ngày nay nằm trong
hai huyện Bình An và Phước Chánh thuộc phủ Phước Long. Đến năm 1867 Pháp chia
Nam Kỳ thành nhiều hạt tham biện.Trong đó chia Biên Hịa thành 5 hạt tham biện. Bình
Dưong thuộc hạt tham biện Bình An, hạt lỵ đặt tại Thủ Dầu Một. Đến năm 1869 hạt Bình
An khơng được dùng nữa mà đổi thành địa hạt Thủ Dầu Một. Vào năm 1876 Pháp chia
Biên Hòa thành 3 hạt tham biện gồm: Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa. Địa bàn tỉnh Bình
Dưong nằm trong hạt tham biện Thủ Dầu Một, lỵ sở đặt tại Thủ Dầu Một (thuộc thôn Phú
Cường).
Như vậy sau nhiều lần thay đổi đon vị hành chính cho phù hợp với chính sách cai
trị của Pháp. Đến 20/12/1889 tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập với địa phận thuộc huyện
Bình An (phủ Phước Long) cộng thêm tổng Dưong Hịa Hạ thuộc huyện Bình Dương (phủ
Tân Bình).Ranh giới hành chính này được giữ ngun đến trước cách mạng tháng Tám.
Chịu sự tác động bởi những chính sách về ruộng đất mà thực dân Pháp thi hành,
các hình thức sở hữu ruộng đất của tỉnh Thủ Dầu Một bị thay đổi. Vậy dưới thời Pháp
thuộc, đặc biệt trong thời gian Pháp tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa từ 1897 đến
1929 ở tỉnh Thủ Dầu Một có những hình thức sở hữu ruộng đất nào, đặc điểm của các hình
thức sở hữu ruộng đất ra sao vẫn còn là một vấn đề chưa được nghiên cứu một cách hệ
thống. Chính vì vậy việc tìm hiểu các hình thức sở hữu ruộng đất ở tỉnh Thủ Dầu Một Bình Dương (1897-1929) là một việc làm thiết thực của công tác nghiên cứu lịch sử nói
chung, nghiên cứu lịch sử địa phương nói riêng. Hiện nay, vấn đề sở hữu ruộng đất ở Việt
Nam nói chung, Nam Bộ nói riêng đã được nghiên cứu một cách đầy đủ với rất nhiều cơng
trình được cơng bố, song vấn đề sở hữu ruộng đất ở tỉnh Bình Dương lại ít được đề cập.
Đồng thời việc nghiên cứu vần đề này khơng chỉ giúp có cách nhìn tồn diện, hệ
thống về các các hình thức sở hữu ruộng đất ở tỉnh Bình Dương (1897-1929) mà cịn tạo
cơ sở lịch sử để hiểu, lí giải những vấn đề hiện tại và rút ra những kinh nghiệm trong công
tác quản lí đất đai hiện nay.
Nghiên cứu những vấn đề về lịch sử địa phương cịn có vai trị hết sức quan trọng
góp phần bổ sung sử liệu cho việc xây dựng lịch sử địa phương tỉnh Bình Dương trong vấn
đề sở hữu ruộng đất của tỉnh Thủ Dầu Một giai đoạn 1897-1929.
Đồng thời bản thân là một người con của vùng đất Bình Dương với mong muốn
góp một phần nhỏ trong công tác nghiên cứu lịch sự địa phương.
Với những lí do khoa học và thực tiễn nêu trên, tơi đã mạnh dạn chọn đề tài “Bước
đầu tìm hiểu các hình thức sở hữu ruộng đất ở tỉnh Thủ Dầu Một - Bình Dương (1897 1929)” để làm đề tài khóa luận tốt của mình sau bốn năm học tập tại trường đại học Thủ
Dầu Một.
1.2.
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài tập trung ở một số vấn đề sau:
- Khái quát quá trình Nam tiến khẩn hoang của cư dân Việt ở vùng đất Nam Kỳ nói
chung và trên vùng đất Bình Dương xưa. Nêu những nét chính của chính sách quản lý của
triều Nguyễn đối với vùng đất mới khai hoang ở Nam Kỳ về mặt hành chính. Để tư đó rút
ra những bài học kinh nghiệm cho công tác quản lý đất đai hiện nay.
- Phục dựng lại các hình thức sở hữu ruộng đất đã từng tồn tại trên đất Thủ Dầu
Một giai đoạn 1897 - 1929.
- Nêu lên được đặc điểm về tình hình sở hữu ruộng đất chung của tỉnh và đặc điểm
riêng của các hình thức sở hữu ruộng đất ở Thủ Dầu Một giai đoạn Pháp tiến hành hai
cuộc khai thác thuộc địa 1897 - 1929.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chế độ sở hữu ruộng ở Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng từ lâu đã được
nhiều tác giả quan tâm, chú ý nghiên cứu.
2.1.
Giai đoạn trước 1945
Trong giai đoạn này thư mục nghiên cứu vấn đề khá phong phú. Nhưng do khả
năng có hạn tơi chỉ có thể tiếp cận được một tác phẩm “Economie agricole de
I'Indochine” (Kinh tế nông nghiệp Đông Dương) của Yves Henry xuất bản năm 1930.
Trong tác phẩm này tác giả có cuộc điều tra thực tế được tiến hành từ 1928 đến 1930 để
đưa những tỷ lệ về sở hữu ruộng đất ở miền Bắc, Trung và Nam nước ta. Cơng trình này
chứa đựng những tư liệu đặc biệt là số liệu thống kê có liên quan đến vấn đề ruộng đất.
Tuy nhiên học giả chỉ dừng lại ở việc khái quát chung về chế độ sở hữu ruộng đất của Việt
Nam, phần nghiên cứu về chế độ ruộng đất của Nam Kỳ còn rất sơ lược, song cũng có một
vài thơng tin đề cập đến Thủ Dầu Một trong cơ cấu cây trồng.
Sau đó là luận án tiến sĩ của Vũ Văn Hiền năm 1939 “Sở hữu xã thôn ở Bắc Kỳ”
(La propriété communale au Tonkin) với nội dung khảo sát công điền công thổ trong lịch
sử Việt Nam và của Nam Kỳ.
Những cơng trình trên chứa đựng những tư liệu rất đáng quý, nhưng chỉ khái quát
chung về chế độ sở hữu ruộng đất của Việt Nam, vì thế phần đề cập đến chế độ sở hữu
ruộng đất của Nam Kỳ còn sơ lược.
2.2.
Giai đoạn sau 1945 đến nay
Có thể nói giai đoạn sau 1945 vấn đề sở hữu ruộng đất của Việt Nam nói chung và
Nam Bộ nói riêng đã được quan tâm nhiều hơn, với hàng loạt các cơng trình của các nhà
nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam đã cho ra đời nhiều tác phẩm liên quan đến vấn đề sở
hữu ruộng đất:
Tác phẩm “Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống nông dân trước cách mạng
tháng Tám” củaNguyễn Kiến Giang, 1953, NXB Sự thật. Trong tác phẩm tác giả đã trình
bày các hình thức sở hữu ruộng đất ở nước ta trong hai chương II và III tương ứng với
mốc thời gian trước và sau khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược. Đồng thời nói lên tình
cảnh đời sống người nông dân trước Cách mạng tháng Tám.Qua đó tác giả cho người đọc
một cái nhìn rõ nét về mối quan hệ giữa người nông dân với ruộng đất.
Tác phẩm '“Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX” củaVũ Huy
Phúc, 1979, NXB Khoa học Xã hội. Tác giả không chỉ cung cấp đầy đủ thơng tin ba hình
thức sở hữu ruộng dưới triều Nguyễn: ruộng đất nhà nước, ruộng đất công làng xã, ruộng
đất tư hữu, mà cịn trình bày một cách chi tiết về tơ thuế đối với từng loại ruộng đất.
Tác phẩm
“Chế
độ
XI-XVIII”của
ruộng
đất
Việt Nam
thế
kỉ
Trương Hữu
Quýnh, NXB Chính trị Quốc gia.Tác phẩm đã được tác giả giới thiệu đến bạn đọc năm
1982.Đây là cơng trình nghiên cứu tâm huyết trong nhiều năm của tác giả.Trong tác phẩm
tác giả đã trình bày tình hình ruộng đất cũng như chế độ sở hữu ruộng đất ở nước ta từ thế
kỉ XI-XVIII.Tác phẩm cung cấp nguồn thông tin mà những người nghiên cứu về sau có
thể kế thừa và phát huy.
Tác phẩm “Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ” của Huỳnh Lứa (Cb), Nxb Tp. Hồ
Chí Minh, năm 1987. Tác giả đã trình bày rõ nét quá trình khẩn hoang vùng đất Nam Bộ
trong các thế kỉ từ XVII đến XIX, trong đó đề cập đến chính sách ruộng đất của các chúa
Nguyễn, vua Nguyễn và thực dân Pháp đối với vấn đề ruộng đất. Tuy không trực tiếp đề
cập đến quá trình khẩn hoang, vấn đề ruộng đất của Tỉnh, song bước đầu tạo cơ sở nghiên
cứu hình thức sở hữu ruộng đất ở tỉnh Thủ Dầu Một lúc bấy giờ.
Tác phẩm “Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang, lập ấp ở Nam Kỳ
lục tỉnh” của Nguyễn Đình Đầu, 1992, NXB Hà Nội. Trong cơng trình này tác giả đã phân
định tiến trình lịch sử của chế độ sở hữu ruộng đất ở Nam Kỳ, mốc ra đời, nguồn gốc, bản
chất của chế độ công điền công thổ ở Nam Kỳ cùng với số liệu thống kê rất đáng tin cậy từ
địa bạ triều Nguyễn. Qua tác phẩm tác giả đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về chế độ
cơng điền ở Nam Kỳ trước khi Pháp xâm lược nước ta.
Tác phẩm “Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Biên Hịa: Sơng Bé - Đồng Nai, Bà
Rịa Vũng Tàu”, 1994, NXB Tp.Hồ Chí Minh. Một trong những tác phẩm nằm trong cơng
trình Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - cơng trình nghiên cứu lớn nhất về khoa học lịch sử
ở cuối thế kỉ XX (Trần Văn Giàu). Trong tác phẩm này tác giả đã dành nhiều cơng sức để
mơ tả và phân tích cơ cấu các hình thức sở hữu bao gồm: Quan điền quan thổ, công điền
công thổ và tư điền tư thổ thông qua các bảng thống kê chi tiết. Giúp người đọc hiểu rõ
hơn các hình thức sở hữu ruộng đất dưới triều Nguyễn.
Tác phẩm “Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam Kì nửa đầu thế kỉ XIX” của
Trần Thị Thu Lương, 1994, NXB Tp.Hồ Chí Minh.Có thể nói đây là tác phẩm đầu tiên
nghiên cứu chuyên sâu về các hình thức sở hữu ruộng đất ở Nam Kỳ trong giai đoạn nửa
đầu thế kỉ XIX. Tác giả đã trình bày lịch sử chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất thông qua
các địa bạ triều Nguyễn, thư tịch. Có thể nói đây là cơng trình đã phần nào lấp đi khoảng
trống trong vấn đề sở hữu ruộng đất của Nam Kỳ thế kỉ XIX.
Tác phẩm “Tình hình ruộng đất nơng nghiệp và đời sống nhân dân dưới triều
Nguyễn” của Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang, 1997, NXB Thuận Hóa.Qua tác phẩm tác giả
đã đề cập đến vần đề ruộng đất ở Nam Bộ và qua đó cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa
ruộng đất với người nông dân.
Tác phẩm “Vấn đề sở hữu ruộng đất trong nền kinh tế nông nghiệp nhiều thành
phần ở Việt Nam” của Hoàng Việt, 1999, NXB Chính trị Quốc gia. Tác giả đã nêu rõ q
trình chuyển biến kinh tế của Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, trong các lĩnh vực
nông - lâm - ngư nghiệp và chăn nuôi. Do nghiên cứu dàn trải cho nhiều lĩnh vực, nên
phần nghiên cứu biến đổi cho lĩnh vực kinh tế nơng nghiệp, điển hình là biến đổi về mơ
hình sở hữu và tổ chức sản xuất được đề cập đến rất ít. Song qua đó giúp cho người đọc có
cái nhìn khái qt về các hình thức sở hữu tồn tại ở Việt Nam dưới triều Nguyễn và Pháp
thuộc vớinhững số liệu rất đáng tin cậy.
Tác phẩm “Vấn đề ruộng đất ở Việt Nam” của Lâm Quang Huyên, 2007, NXB
Khoa học Xã hội.Trong tác phẩm tác giả đã giành 14 trang để nói về quan hệ ruộng đất ở
nước ta trước cách mạng tháng Tám 1945. Dưới thời Pháp thuộc tác giả chỉ nêu lên khái
quát những hình thức sở hữu ruộng đất ở Việt Nam lúc bấy giờ, chính sách bóc lột của địa
chủ Việt Nam và địa chủ thực dân Pháp với người nơng dân.
Bên cạnh những cơng trình nghiên cứu chun sâu về ruộng đất Việt Nam nói
chung và Nam Bộ nói riêng. Vấn đề này cịn được đề cập rải rác trong các tác phẩm nói
của một số tác giả viết về kinh tế, xã hội chung Đông Dương, Việt Nam thời thuộc địa
như: Nguyễn Khắc Đạm (1958), Những thủ đoạn bóc lột của tư bản Pháp ở Việt Nam,
NXB Văn - Sử - Địa. Phạm Cao Dương (1967), Thực trạng của giới nơng dân Việt Nam,
NXB Khai Trí. Nguyễn Thế Anh (1971), Kinh tế Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn,
NXB Lửa Thiêng. Sơn Nam (1997), Lịch sử khẩn hoang Nam Bộcủa, NXB Tp.Hồ Chí
Minh.Nguyễn Cơng Bình (2008), Đời sống xã hội ở vùng Nam Bộ, NXB Đại học Quốc gia
Tp. Hồ Chí Minh.
Ngồi những tác phẩm trên, trong các tạp chí như Nghiên cứu Lịch sử, Xưa và
Nay, Khoa Học Đại Học Quốc Gia Hà Nội, thông tin Khoa học Lịch sử cũng đề cập đến
vấn đề ruộng đất ở Nam Bộ như:
-Chế độ sở hữu ruộng đất lớn ở Nam Bộ trong thời đế quốc Pháp thống trị của
Trần Ngọc Định đăng trong tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 132 tháng 5 - 6, trang 81 - 90
và 113 năm 1970.
-Mấy nhận xét về cơ cấu chế độ sở hữu ruộng đất ở Đồng Nai Gia Định (cũ) vào
nửa đầu thế kỉ XIX của Huỳnh Lứa, đăng trong tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 215 năm
1984.
-Về quyền sở hữu ruộng đất khẩn hoang dưới thời phong kiến của Nguyễn Đức
Nghinh, đăng trong tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 5 và 6 năm 1987.
-Nghiên cứu về quyền sở hữu đất đai ở Việt Nam của Nguyễn Văn Khánh, đăng
trong tạp chí Khoa Học Đại học Quốc gia Hà Nội tập 29, số 1 năm 2013.
Với những cơng trình và bài viết trên có thể thấy rằng vấn đề nghiên cứu về ruộng
đất Việt Nam nói chung, ruộng đất Nam Bộ nói riêng từ lâu đã được đề và nghiên cứu sâu.
Nhìn chung các tác phẩm của các tác giả mới chỉ đề cập chung đến tình hình sở hữu chung
của Nam Kỳ lúc bấy giờ. Nhưng là nguồn tài liệu tham khảo tốt, cơ sở cho nghiên cứu vấn
đề sở hữu ruộng đất của tỉnh Thủ Dầu Một.
Bên cạnh những tác phẩm trên, tỉnh Bình Dương cũng tiến hành biên soạn những
tập địa chí với những giai đoạn khác nhau như:
- Tác phẩm Địa chí tỉnh Bình Dương tập 3 - kinh tế, do Phan Xuân Biên chủ biên,
xuất bản năm 2010. Tập địa chí đề cập khái qt tình hình phát triển nơng nghiệp Bình
Dương qua các giai đoạn, trong đó có đề cập đến vấn đề ruộng đất dưới thời Pháp thuộc.
Song trong các tập địa chí hầu hết chỉ đề cập một cách ngắn gọn về tình hình ruộng
đất của tỉnh trong các giai đoạn và chưa đề cập một cách cụ thể các hình thức sở hữu
ruộng đất tồn tại ở Bình Dương trong các giai đoạn nói chung và giai đoạn Pháp tiến hành
hai lần khai thác thuộc địa (1897-1929) ở Bình Dương nói riêng.
Như vậy thơng qua những tác phẩm nghiên cứu về vấn đề ruộng đất và các hình
thức sở hữu ruộng của Việt Nam nói chung, Nam Bộ từ lâu đã được các nhà nghiên cứu đi
sâu tìm hiểu và xuất bản những cơng trình với những kết quả rất đáng trân trọng. Tuy
nhiên phần nghiên cứu về các hình thức ruộng đất ở tỉnh Bình Dương giai đoạn Pháp tiến
hành hai cuộc khai thác thuộc địa (1897-1929) vẫn chưa được tập trung tìm hiểu thích
đáng, tồn diện và có hệ thống. Vì vậy chúng tơi chọn đề tài “Bước đầu tìm hiểu các hình
thức sở hữu ruộng đất ở Thủ Dầu Một-Bình Dương (1897-1929), để nghiên cứu, sẽ góp
phần lấp đi khoảng trống trong cơng tác nghiên cứu vấn đề các hình thức sở hữu ruộng đất
của tỉnh trong giai đoạn này. Đồng thời đáp ứng nhu cầu tìm hiểu lịch sử chế độ sở hữu
ruộng đất của Tỉnh trong quá khứ để có thể vận dụng xử lý tốt hơn những vấn đề về quản
lý đất đai trong hiện tại.
3. Nguồn tài liệu
Như trên đã trình bày, lịch sử nghiên cứu về các hình thức sở hữu ruộng đất ở tỉnh
Thủ Dầu Một - Bình Dương rất ít ỏi chủ yếu được đề cập tản mạn ở một vài tác phẩm.
Chính vì vậy để thực hiện được mục đích nghiên cứu đề ra, luận án đã tham khảo và sử
dụng nhiều nguồn tài liệu khác nhau:
- Tài liệu viết về địa lý lịch sử, lịch sử hình thành phát triển, lịch sử kinh tế tỉnh
Biên Hịa, trong đó chủ yếu là tỉnh Thủ Dầu Một thời Pháp thuộc.
-Tài liệu bằng tiếng Hán đươc dịch ra tiếng Việt điển hình một số tác phẩm sau:
+ Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Biên Hịa: Sơng BéĐồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, NXB TP Hồ Chí Minh.
+ Ngơ Sĩ Liên (2011), Đại Việt sử kí tồn thư, NXB Thời Đại.
+ Trịnh Hồi Đức (1998), Gia Định thành thơng chí, NXB Giáo Dục.
+ Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục tập 1, NXB Giáo Dục Hà
Nội.
- Luận văn, luận án chuyên ngành trong các thư viện tại các thư viện.
- Các tham luận trong các kỷ yếu hội thảo khoa học về Nam Bộ nói chung và tỉnh
Bình Dương nói riêng.
- Các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành: Nghiên cứu Lịch sử, thông tin Khoa
học Lịch sir...
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của khóa luận là ruộng đất và các hình thức sở hữu
ruộng đất từng tồn tại ở địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn (1897-1929).
Để làm rõ được các hình thức sở hữu ruộng đất ở tỉnh Thủ Dầu Một - Bình Dương
(1897 - 1929) thì đối tượng cần thiết phải đề cập đến chính là những chính sách về ruộng
đất do thực dân Pháp tiến hành ở Bình Dương giai đoạn này. Vì những chính sách đó là
yếu tố tác động làm thay đổi các những hình thức sở hữu ruộng đất tồn tại ở tỉnh Thủ Dầu
Một lúc bấy giờ.
4.2.
Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu giới hạn của đề tài là phía Nam của tỉnh Thủ Dầu Một giai
đoạn Pháp thuộc, tương ứng với địa bàn tỉnh Bình Dương ngày nay bao gồm: thị xã Thủ
Dầu Một, thị xã Thuận An, thị xã Dĩ An, thị xã Bến Cát, huyện Bàu Bàng, thị xã Tân
Uyên, huyện Bắc Tân Uyên, huyện Dầu Tiếng, huyện Phú Giáo.
Thời gian nghiên cứu được xác định từ năm 1897 đến năm 1929, đánh dấu quá
trình thực dân Pháp bắt đầu tiến hành những chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất
năm 1897 đến hết cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai 1929 ở Việt Nam nói chung và tỉnh
Thủ Dầu Một - Bình Dương nói riêng.
Với phạm vi và thời gian nghiên cứu như trên, đề tài tập trung giải quyết các vấn
đề: 1. Khái quát về vùng đất, con người Thủ Dầu Một - Bình Dương trong tiến trình khai
phá. 2. Các hình thức sở hữu ruộng đất ở Thủ Dầu Một. 3. Từ vấn đề 1 và 2 dẫn đến đúc
rút thành đặc điểm của hình thức sở hữu ruộng đất cũng như bài học kinh nghiệm về quản
lí và sử dụng ruộng đất trong giai đoạn đề cập.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá về những
hình thức sở hữu ruộng đất tồn tại ở Thủ Dầu Một - Bình Dương từ 1897 đến 1929.
Phương pháp chuyên ngành được sử dụng trong q trình thực hiện khóa luận là
phương pháp lịch sử và phương pháp logic, chủ yếu là phương pháp lịch sử được thể hiện
ở những mặt sau:
Thu thập, sưu tầm, phân tích các nguồn tài liệu thành vănđể rút ra các sự kiện, số
liệu cần thiết cho đề tài.Trên cơ sở đó phục dựng lại các hình thức sở hữu ruộng đất một
cách tương đối ở Thủ Dầu Một - Bình Dương từ 1897 đến1929.Từ đó làm cơ sở đề rút ra
bài học kinh nghiệm về quản lí và sử dụng ruộng đất ở giai đoạn đề cập.
Ngồi ra khóa luận cịn sử dụng một số phương pháp khác: phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp định lượng trong nghiên cứu
sử học.nhằm đối chiếu, chắt lọc những sự kiện, số liệu phản ánh sát những chính sách của
thực dân Pháp đối với vấn đề ruộng đất ở Thủ Dầu Một - Bình Dương từ 1897 đến 1929,
cũng như đưa ra tỷ lệ phần trăm của các loại hình sở hữu ruộng đất nhằm giúp nhìn rõ
tương quan về tỷ lệ sở hữu ruộng đất ở Bình Dương đương thời so với các địa bàn lân cận,
nội vùng Đông Nam Kỳ cùng thời.
6. Đóng góp của đề tài.
Kết quả nghiên cứu của khóa luận, góp phần:
-Khái qt lại q trình khẩn hoang của cư dân người Việt trên vùng đất Bình
Dương xưa và chính sách quản lý của triều Nguyễn đối với vùng đất mới khai mới khai
hoang về mặt hành chính.
-Phục dựng lại cơ cấu hình thức sở hữu ruộng đất ở tỉnh Thủ Dầu Một - Bình
Dương giai đoạn (1897 - 1929), đồng thời so sánh tỷ lệ các loại hình sở hữu ruộng đất của
tỉnh với các vùng lân cận để từ đó làm nổi bật những đặc điểm trong hình thức sở hữu
ruộng đất của Tỉnh lúc bấy giờ. Đồng thời bước đầu rút ra những bài học kinh nghiệm
trong công tác quản lý và sử dụng ruộng đất ở giai đoạn đề cập.
-Bổ sung thêm nguồn tài liệu cho công tác nghiên cứu về lịch sử địa phương.
7. Bố cục nội dung khóa luận
Khóa luận được kết cấu ngoài các phần dẫn luận, tài liệu tham khảo và kết luận, nội
dung chính gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát những nét cơ bản quá trình khẩn hoang của cư dân Việt,
cũng như chính sách quản lý của các chúa Nguyễn, vua Nguyễn đối với vùng đất Nam Bộ
nói chung, vùng đất Thủ Dầu Một - Bình Dương nói riêng.
Chương 2:Khái quát quá trình xâm chiếm cướp đoạt và những chính sách của thực
dân Pháp đối với ruộng đất ở Nam Kỳ nói chung, tỉnh Thủ Dầu Một nói riêng. Qua đó làm
rõđược sự tác động của những chính sách đãlàm thay đổi cơ cấu ruộng đất ở Thủ Dầu Một.
Trình bày các hình thức sở hữu ruộng đất, cũng như đặc điểm nổi bật trong sở hữu ruộng
đấtở tỉnh Thủ Dầu Một trong giai đoạn Pháp tiến hành hai cuộc khai thác thuộc (1897 1929). Phân tích, so sánh tỷ lệ các hình thức sở hữu của tỉnh Thủ Dầu Một với những tỉnh
lân cận thuộc vùng Đông Nam Kỳ để thấy được những nét tương đồng, khác biệt trong các
hình thức sở hữu ruộng đất.
Chương 3: Rút ra đặc điểm của các hình thức sở hữu ruộng đất của Tỉnh lúc bấy
giờ. Nêu những bài học kinh nghiệm từ việc quản lý đất của chính quyền phong kiến và
của thực dân Pháp đối với công cuộc quản lý đất đai trong giai đoạn hiện nay.
CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI
THỦ DẦU MỘT - BÌNH DƯƠNG TRONG TIẾN TRÌNH KHAI PHÁ
VÙNG ĐẤT NAM KỲ (THẾKỈ XVII - XIX)
1.1.
Bối cảnh lịch sử
Bước sang thế kỉ XVI, ở nước ta xảy ra cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều, ngay khi
cuộc chiến đang diễn ra thì trong nội bộ chính quyền Nam triều đã xuất hiện những mâu
thuẫn và mầm mống chia rẽ. Vào năm 1545 Trịnh Kiểm lên nắm quyền thay họ Lê và đã
âm mưu giết hại tả tướng Nguyễn Uông con của Nguyễn Kim. Nguyễn Hồng lo sợ tìm
cách thốt khỏi mối đe dọa.Cho nên vào cuối năm 1558, Nguyễn Hoàng cùng với thân tín
ở Tống Sơn (Thanh Hóa - q ơng) vào trấn thủ Thuận Hóa.Ơng thực hiện chính sách
khoan hịa, khuyến khích nhân dân sản xuất. Điều này trong Đại Nam thực lục có ghi lại
“Chúa vỗ về quân dân, thu dòng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được nhân dân mến phục,
thường gọi là chúa Tiên” [61, tr 28].Để từng bước thiết lập chính quyền đủ sức đối trọng
với chính quyền họ Trịnh.
Đến năm 1627, chiến tranh Trịnh - Nguyễn nổ ra kéo dài tới 45 năm (16271672)
không phân thắng bại, nhưng chính quyền chúa Nguyễn đã giành được thắng lợi với việc
biến vùng đất Đàng Trong thành nơi cát cứ của chính quyền họ Nguyễn.Sự kiện khởi đầu,
tạo tiền đề cho công cuộc Nam tiến sau này.
Cũng vào thế kỉ XVI, khi đang từng bước thiết lập vùng Thuận Quảng thành nơi
độc lập về mọi mặt, thì việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam là nhu cầu tất yếu để gây dựng
cơ đồ vững chắc đủ sức đối trọng với chính quyền chúa Trịnh. Bản thân chúa Nguyễn
không muốn cùng một lúc vừa phải lo đối phó với chính quyền chúa Trịnh ở Đàng Trong,
vừa phải lo đối phó với Chăm-pa có tham vọng chiếm lại vùng đất cũ đã mất mà tiểu quốc
Hoa Anh đang cai quản (Phú n ngày nay). Chính vì thế Phú n vùng tiếp giáp với
Thuận Quảng khơng nằm ngồi tầm ngắm của Nguyễn Hoàng và trở thành điểm đến đầu
tiên trong cơng cuộc Nam Tiến của mình.
Cơng cuộc khai phá vùng đất mới này được bắt đầu từ năm 1578 đến 1693, với
hàng loạt các sự kiện được diễn ra. Đầu tiên việc hạ thành An Nghiệp (nay thuộc xã An
Nghiệp, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên ngày nay) đẩy quân Chăm - pa vào địa giới cũ ở
phía nam đèo Cả. Sau đó thiết lập bộ máy hành chính đổi thành phủ Phú Yên với hai
huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa vào năm 1611 sau khi đánh bại sự quấy phá của quân
Chăm-pa. Tiếp theo năm 1653, vua Chăm-pa là Bà Tấm xâm lấn vùng đất Phú Yên và thất
bại, vua Bà Tấm phải xin hàng và dâng đất đến tận sông Phan Lang (Phan Rang). Vùng
đất từ Phan Rang trở ra đến Phú Yên thuộc về chúa Nguyễn và được gọi là dinh Thái
Khang (Khánh Hòa ngày nay).
Cuối cùng vào năm 1693, vua Chăm-pa là Bà Tranh tuyên bố bỏ tiến cống đem
quân đắp lũy, cướp giết nhân dân phủ Diên Ninh, Nguyễn Hữu Cảnh đã thừa lệnh chúa chỉ
huy quân, phản công thắng lợi. Kết quả vùng lãnh thổ của Chăm-pa (từ sông Phan Rang
đến Bình Thuận ngày nay) đã trở thành một đơn vị hành chính của Đàng Trong với tên gọi
trấn Thuận Thành. Năm 1697 chúa Nguyễn Phúc Chu đặt phủ Bình Thuận.[49, tr 45]. Như
vậy với tình hình trong nước do chịu sức ép của cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn đã buộc
các chúa Nguyễn phải tiến hành mở đất ở vùng Nam Trung Bộ, để tạo nên sức mạnh đủ
sức đối trọng với Đàng Ngoài cũng như chấm dứt sự quấy phá biên giới lãnh thổ với
Chăm-pa. Tạo tiền đề quan trọng, vững chắc cho công cuộc Nam tiến sau này.
Bên cạnh đó cơng cuộc khẩn hoang Nam Bộ cịn được tiến hành trong hồn cảnh
khu vực có những thay đổi thuận lợi. Đầu tiên là sự suy yếu của Chân Lạp bắt đầu từ giữa
thế kỉ XIII, xuất phát từ việc nội bộ triều đình rối ren do các cuộc chiến tranh giành quyền
lực xảy ra liên tục, tiếp đó là hàng loạt các cuộc chiến tranh được tiến hành với Chân Lạp
bởi Ayutthaya - vương quốc của một bộ phận người Thái sống ở thượng nguồn sông Mê
Kơng đã dần di chuyển xuống phía nam, định cư ở sông Mê Nam. Đến năm 1767
Ayutthaya đổi thành vương quốc Xiêm.
Sự rối ren và ngày càng suy yếu của Chân Lạp đã từng bước giúp cho những lực
lượng bên ngồi như chính quyền Đàng Trong, nhà nước phong kiến Xiêm có cơ hội can
thiệp ngày càng sâu vào nội bộ Chân Lạp.
Và để đủ sức đối trọng với Ayutthaya, Chân Lạp đã dựa vào Đàng Trong với chính
sách “hướng đông”. Mối quan hệ giữa hai bên được thiết lập đầu tiên bằng cuộc hơn nhân
mang tính chất ngoại giao đã được tiến hành giữa Chey Chettha II (vua Chân Lạp) và công
nương Ngọc Vạn là con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Với cuộc hôn nhân này, kể từ đây
trong mối quan hệ giữa Chân Lạp và Xiêm có thêm một yếu tố mới là Đàng Trong của Đại
Việt.
Tuy nhiên quá trình Đàng Trong thiết lập ảnh hưởng với Chân Lạp cũng luôn gặp
phải những cản trở từ Xiêm.Bởi Xiêm khơng chỉ có tham vọng với Chân Lạp mà cả Đàng
Trong cũng nằm trong tầm ngắm của Xiêm.Với mục đích bành trướng và mở rộng thương
mại, làm chủ luồng mậu dịch thương mại khu vực Biển Đông. Mà Đàng Trong nằm trên
trục chính của tuyến đường thương mại đường biển Đơng Nam Á. Vì vậy Xiêm nhận thức
rõ được tầm quan trọng của vịnh Xiêm và các hàng hải vùng duyên hải Đông Nam của Đại
Việt.
Nhưng vào thế kỉ XVII nửa đầu thế kỉ XVIII có thể do vấn đề tương quan lực
lượng giữa hai bên là tương đối ngang nhau, nên Đàng Trong chưa thực sự phải hứng chịu
một trận quyết chiến thực sự nào từ phía Xiêm. Ngồi một vài trận đánh mang tính phối
hợp, yểm trợ cho Chân Lạp. Chính sự cân bằng về lực lượng với Xiêm đã giúp cho Đàng
Trong từng bước đánh bật Xiêm ra khỏi mối quan hệ giữa Đàng Trong và Chân Lạp. [49,
tr 62- 63]
Cũng trong thế kỉ XVI - XVII luồng thương mại quốc tế trên biển Đông phát triển
với hàng loạt các tuyến đường thương mại của các nước châu Âu, Á, Phi được hình
thành.Tạo điều kiện cho phương Đông hội nhập vào hoạt động thương mại thế giới. Nắm
bắt được thời cơ ngàn vàng đó chúa Nguyễn Hồng và sau này là các chúa Nguyễn đã thực
hiện chính sách “mở cửa” với chiến lược coi trọng ngoại thương, dùng thương nghiệp như
đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế. Việc mở cửa buôn bán với các thương nhân nước
ngồi của các chúa Nguyễn cịn nhằm mục đích bn bán vũ khí và cả kĩ thuật sản xuất vũ
khí nhất là với các nước Phương Tây.Vì yếu tố vũ khí giúp tạo ra sức mạnh quân sự đủ sức
đối trọng, cân bằng lực lượng với chính quyền Đàng Ngoài. Điều này được thể hiện rõ nét
trong một nhận xét của người phương Tây về tâm trạng của các chúa Nguyễn: “họ rất lo
lắng làm sao để có được súng đúc từ xưởng đúc sung nổi tiếng của Bocaaro ở Macao”
[6,tr 64].Qua đó cho thấy nhu cầu về vũ khí của chúa Nguyễn về khí giới đã trực tiếp kích
thích nền ngoại thương của Đàng Trong.
Tóm lại với bối cảnh trong nước là chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài suốt 45 năm
(1627 - 1672) đã làm cho Đàng Trong luôn phải trong tư thế sẵn sàng chiến đấu chống lại
những đợt tấn cơng của chính quyền Đàng Ngồi, để đủ nhân lực, vật lực phục vụ chiến
tranh buộc các chúa Nguyễn phải tiến hành mở rộng lãnh thổ về phía Nam mà trước hết là
vùng Nam Trung Bộ ngày nay. Bước đầu tạo nên bước đệm cũng như cơ sở vững chắc về
kinh tế, lực lượng cho công cuộc Nam tiến sau này. Đồng thời với bối cảnh trong khu vực
là tình hình Chân Lạp suy yếu giúp chúa Nguyễn từng bước gây dựng được sự ảnh hưởng
của mình với Chân Lạp, do tạo dựng được thế cân bằng về lực lượng đã giúp chúa Nguyễn
từng bước biến Chân Lạp thành một quốc gia tách khỏi phụ thuộc vào Xiêm, hồn tồn
phụ thuộc vào mình. Cùng với đó là sự ảnh hưởng của luồng thương mại quốc tế cũng có
ảnh hưởng nhất định trong cơng cuộc Nam tiến sau này nhất là vấn đề gây dựng tiềm lực
kinh tế cùng với yếu tố lực lượng, trong đó đặc biệt là thành phần người Hoa.
1.2.
Q trình định cư của người Việt ở vùng đất Đông Nam Kỳ đầu thế kỉ
XVII đến nửa đầu thế kỉ XIX
Trong tiến trình mở đất về phương Nam, Đơng Nam Kỳ là nơi dừng chân đầu tiên
của người Việt - vùng đất trước đây thuộc về vương quốc Phù Nam (từ đầu thế kỉ I cho
đến cuối thế kỉ VI), với vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm cả vùng Trung, Nam Lào, Nam
Bộ va một phần Trung bộ của nước ta ngày nay. “Phía nam Phù Nam giáp vịnh Thái Lan,
phía Bắc giáp sơng Mun, phía đơng giáp biển Đơng, phía tây là lưu vực sơng Mê Nam và
một phần bán đảo Mã Lai” [50, tr 3]
Sau đó là Chân Lạp - một thuộc quốc của Phù Nam nhưng đã nhanh chóng phát
triển thành một vương quốc độc lập vào thế kỉ thứ VI.Nhân sự suy yếu của của Phù Nam
đã nhanh chóng tấn cơng chiếm lấy phần lãnh thổ của nước này vào thế kỉ thứ VII. Tuy
nhiên do xảy ra tình trạng phân quyền nội chiến Chân Lạp bị chia thành hai phần là Lục
Chân Lạp (vùng đất ban đầu của Chân Lạp) và Thủy Chân Lạp (phần lãnh thổ Phù Nam
trước đây). Như vậy Bình Dương ngày nay, thời điểm này thuộc khu vực Thủy Chân Lạp.
Do tình trạng tranh giành quyền lực, cùng với đó là chủ chương tập trung phát triển
vùng trung tâm Biển Hồ. Chính vì vậy q trình khẩn hoang vùng đất Nam Kỳ khơng
được chính quyền Chân Lạp quan tâm. Đồng thời việc cai quản vùng đất này đối với Chân
Lạp rất khó khăn. Vì đây là vùng đồng bằng mới bồi đắp cịn ngập nước và sình lầy, người
Khơ-me tương đối ít ỏi, lại có truyền thống quen khai thác các vùng đất cao, kĩ thuật thấp
kém. Chính vì thế họ chưa thể tổ chức khai hoang trên quy mô lớn, đó cũng là lí do khiến
vùng đất Đơng Nam Kỳ vẫn còn là vùng đất hoang dã, chưa được khai phá bao nhiêu.
Tình hình đó vào cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII vùng đất Đơng Nam Kỳ nói
chung, Bình Dương nói riêng, cũng như hầu hết các địa phương khác thuộc khu vực sông
Phước Long (sông Đồng Nai), sơng Tân Bình (sơng Sài Gịn) vẫn cịn là vùng đất hoang
hóa, rừng rậm tràn lan với những cư dân bản địa là người Stiêng, Châu Ro, Mạ, Mnông,
Khơme. Các dân tộc này vừa có số dân ít ỏi, vừa có kỹ thuật sản xuất thấp kém. Họ chủ
yếu sống nhờ vào đốn chặt cây rừng thành lập nương rẫy tỉa lúa, theo phương thức du canh
du cư, kết hợp săn bắn thú rừng và hái lượm, sống rải rác theo bn sóc cách xa nhau. Do
đó ngoại trừ một vài vùng đất cao ở bìa rừng và một số gò đồi được vỡ hoang trồng trọt,
đại bộ phận đất đai còn lại đều là rừng rậm chưa được khai phá. Chính vì lẽ đó cho đến
giữa thế kỉ XVII Lê Quý Đôn vẫn ghi lại nhận xét trong Phủ Biên Tạp Lục rằng: “Ở phủ
Gia Định đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Lơi Lạp (Sồi Rạp), cửa Tiểu, cửa Đại
trở vào tồn là rừng rậm hàng ngàn dặm” [14, tr 255 - 256]
Tuy nhiên vào đầu thế kỉ XVII vùng đất này xuất hiện thêm một lớp cư dân mới là
lưu dân người Việt ở vùng đất Thuận - Quảng của chúa Nguyễn xiêu tán về vùng đất Đơng
Nam Kỳ, trong đó có địa bàn tỉnh Bình Dương tìm vùng đất mới để lập nghiệp. Vậy
nguyên nhân vì sao người Việt ở vùng Thuận - Quảng lại bỏ quê hương nơi “chôn rau cắt
rốn” của mình vào một nơi xa lạ như vậy?
Nguyên nhân trực tiếp do cuộc chiến tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh Nguyễn ở Đàng Ngoài và Đàng Trong. Vì khơng thể chịu đựng trước sự bóc lột hết sức
nặng nề cả nhân lực, vật lực, cảnh đói khổ, chết chóc do chiến tranh gây ra.Buộc họ phải
rời bỏ quê hương tìm đến một vùng đất mới với hy vọng có một cuộc sống ấm no.Vùng
đất của những hy vọng, những ước mơ đổi đời cho người dân chính là vùng Đồng Nai Gia Định là vùng đất gần như hoang hóa chưa được khai phá nhưng lại rất màu mỡ phí
nhiêu.Chính vì thế đầu thế kỉ XVII đã có một làn sóng di cư ồ ạt vào vùng Đồng Nai - Gia
Định.
Các lưu dân khi vào vùng Đồng Nai - Gia Định với địa điểm dừng chân đầu tiên
theo Gia Định thành thơng chí là vùng Mơ Xồi - Bà Rịa, vì đây là vùng đất địa đầu nằm
ngay trên trục đường bộ từ Bình Thuận vào Nam, lại giáp biển rất thuận tiện cho các ghe
thuyền chở người di cư cập bến. Từ Mơ Xồi - Bà Rịa, các lưu dân dần tiến lên Biên Hòa
(Đồng Nai) với những điểm tụ cư sớm nhất là Bàn Lân, Bến Gỗ, Bến Cá, An Hòa, Long
Thành, Cù Lao Rùa, Cù Lao Ngơ. Ngồi ra cũng có một bộ phận lưu dân khác vào cửa
Cần Giờ, ngược sông Bình Phước (tức sơng Long Tàu) lên vùng Sài Gịn, Bến Ghé và
vùng ngày nay là huyện Thuận An và huyện Bến Cát thuộc tỉnh Bình Dương ngày nay.
Trên vùng đất Bình Dương ngày nay, có lẽ điểm đầu tiên dân xiêu tán “người Việt
đến định cư ở vùng Lái Thiêu, trung tâm là Bình Nhâm.Sau đó người Việt đã đi một bước
tiến khá xa. Dùng thuyền các loại, theo sơng Sài Gịn, người Việt đã đổ vào sơng Thị Tính,
Bến Thế, Tân An. Những đồn người Việt tiếp tục đến, làm cho các vùng đất cũ và tốt ven
sông trở nên chật hẹp. Từ Lái Thiêu tiến lên từ Thị Tính đổ xuống dần dần vùng Phú
Cường, Chánh Nghĩa, Phú Thọ trở thành vùng định cư”[44,tr 11]
Phó giáo sư Huỳnh Lứa cịn cho rằng các vùng Thủ Dầu Một, Phú Cường, Lái
Thiêu, Phú Lợi, Tân Khánh, Tân Uyên, Cù Lao Rùa có lẽ là những điểm đến định cư và
khai khẩn vào loại sớm nhất của người Việt trên đất Bình Dương. Những người mới đến
thường chọn trước tiên những địa điểm thuận lợi cho việc sinh sống và trồng trọt. Đó là
các giồng đất cao vùng ruộng ven sông, các cù lao màu mỡ, những nơi có thể nhanh chóng
khẩn hoang thành vườn để trồng cây lương thực, cây ăn quả...
Ngoài lớp cư dân người Việt đến đây khai hoang, đến cuối thế kỉ XVII cịn có lớp
cư dân người Hoa. Họ là những người sống dưới triều Minh, do không chịu khuất phục với
những chính sách cai trị của nhà Thanh đặc biệt là chính sách kỳ thị người Hán, đã di cư
sang các nước lân cận trong đó có Đại Việt. Sự kiện này được sử nhà Nguyễn ghi lại “Kỷ
Mùi, năm thứ 31 (1679), mùa xuân, tháng giêng, tướng cũ nhà Minh là Long Mơn tổng
binh Dương Ngạn Địch và phó tướng Hồng Tiến, Cao Lơi Liêm, tổng binh Trần Thượng
Xun và phó tướng Trần An Bình đem hơn 3000 qn và hơn 50 chiến thuyền đến các
cửa biển Tư Dung và Đà Nẵng, tự trần là bộ binh nhà Minh, nghĩa không chịu làm tôi
thần nhà Thanh, nên xin đến làm tôi tớ” [61, tr 91]. Sau khi được chúa Nguyễn Phúc Tần
đồng ý, họ chia thành hai nhóm: một nhóm do Trần Thượng Xuyên hướng dẫn qua cửa
Cần Giờ đến cùng Bàn Lân (Biên Hòa ngày nay) để khai phá. Nhóm thứ hai do tổng binh
Dương Ngạn Địch chỉ huy đi xa hơn vào vùng Mỹ Tho làm đất định cư.
Đối với nhóm của Trần Thượng Xuyên sau khi đến Biên Hòa họ chủ yếu là người
Hoa xuất phát từ miền đông nam Trung Quốc - khu vực phát triển kinh tế hàng hóa sớm
nhất của Trung Quốc. Với tư duy của người thương nhân họ sớm khai phá và phát triển
vùng đất Cù Lao Phố. Chính vì thế phần lớn số họ chuyển hết từ Bàn Lâm về Cù Lao Phố
phát hoang, mở đường xây phố chợ, một số người đã đến những vùng đất thuộc địa bàn
tỉnh Bình Dương ngày nay để lập nghiệp. Tuy nhiên, mãi đến nay các nhà nghiên cứu vẫn
chưa tìm thấy một tài liệu nào nói về số người Hoa trong nhóm Trần Thượng Xuyên đến
lập nghiệp tại Bình Dương. Theo TS.Huỳnh Ngọc Đáng, người Hoa đến Bình Dương “thời
điểm đầu tiên có thể là khi hình thành chợ Phú Cường, tức là vào những năm cuối đời
Minh Mạng, đầu thời Thiệu Trị”. “Điểm tập trung định cư đầu tiên là chợ Phú Cường và
các khu vực chung quanh”. “Trước khi chợ Phú Cường ra đời tức trước 1838, chắc chắn có
rất ít người Hoa đến sinh sống ở vùng đất ngày nay là Bình Dương” [12,tr 31- 34]
Cùng với quá trình định cư của lưu dân trong suốt thế kỉ XVII là quá trình hình
thành thiết chế xã hội dân cư. Trước năm 1698, chưa có hệ thống tổ chức hành chính, nên
dân xiêu tán sống thành với sau theo từng trang, trại, man, nậu..là tên gọi các đơn vị hành
chính làng xã chỉ xuất hiện từ khoảng thế kỉ X. Vậy tại sao đến thế kỉ XVIII những tên gọi
này lại xuất hiện ?
Các trang, trại, man, nậu thường có một người đứng đầu để điều hành các sinh hoạt
chung và hòa giải tranh chấp. Quan hệ của họ chủ yếu là quan họ chịm xóm, “tối lửa tắt
đèn có nhau” để cùng nhau làm ăn, cùng vượt qua khó khăn ở vùng đất mới. Các trang,
trại, man, nậu dần dần trở thành những đơn vị hành chính nhằm liên kết, ràng buộc các
thành viên dân cư lại với nhau theo mối quan hệ tự nguyện, cùng nhau chung sức khai
hoang, lập làng tạo ra những giá trị vật chất, giá trị tinh thần đáp ứng lợi ích cá nhân, gia
đình, dịng họ cũng như cộng đồng.
Như vậy tiến trình nhập cư của lưu dân người Việt vào Đồng Nai - Gia Định nói
chung, Bình Dương nói riêng đã diễn ra liên tục trong suốt thế kỉ XVII và đến cuối thế kỉ
XVIII. Họ đã có mặt và khai phá trên một vùng lãnh thổ rộng lớn từ Mơ Xồi cho đến Sài
Gòn (Bến Nghé). Họ lập ra những làng mạc của người Việt đầu tiên trên đất Chân Lạp (tuy
chưa phải đơn vị hành chính chính thức của Đàng Trong), song đó như là bước thăm dị,
cũng như tạo cơ sở cho chúa Nguyễn thực hiện ý đồ mở đất của mình sau này. Và khơng
thể phủ nhận rằng q trình khẩn hoang của người dân trong thế kỉ XVII - XVIII là đóng
vai trị chủ yếu trong thời gian này.
Vào nửa đầu thế kỉ XIX dưới triều Nguyễn ruộng đất bị kiêm tính vào tay địa chủ
phong kiến, cơng điền, công thổ bị cường hào lũng loạn. Cùng với đó là tình trạng đói
quan lại bóc lột nhân dân, dẫn đến hiện tượng dân đi lưu tán ngày càng trầm trọng. Trước
tình hình kinh tế và xã hội đó nhà Nguyễn không dám áp dụng những biện pháp mạnh tay
như hạn chế kiêm tính đất đai mà chỉ có thể đưa ra biện pháp chính là khẩn hoang và một
số biện pháp tạm thời để giải quyết khó khăn về kinh tế và xã hội.
Chính vì vậy trong thế kỉ XIX, nhà Nguyễn tiếp tục đẩy mạnh công cuộc khẩn
hoang ở Đơng Nam Kỳ với tốc độ nhanh hơn.Vì đây là vùng đất còn nhiều đất hoang.
Điều này được thể hiện trong việc ban hành nhiều sắc lệnh khẩn hoang, đặc biệt là ở Nam
Kỳ“Trong số 25 quyết định về tổ chức khai hoang từ 1802 đến 1855, thì có 16 quyết định
về miền Nam, 2 ở miền Bắc, 1 ở kinh kỳ và 6 có ý nghĩa tồn quốc”[56, tr 128]. Như vậy
công cuộc khẩn hoang vùng đất Nam Kỳ thời kì này chủ yếu được diễn ra dưới sự chỉ đạo,
định hướng của triều đình, cùng với quá trình tự khẩn hoang của người dân.
Để thúc đẩy quá trình khẩn hoang vùng đất này, triều đình Nguyễn đã khuyến khích
di dân tự do khai phá đất hoang bằng nhiều thủ tục dễ dãi và tự do lựa chọn nơi khai phá,
thậm chí cịn trợ cấp thêm tiền thóc, nơng cụ, khen thưởng bằng tiền và phẩm hàm chức
sắc cho những ai tham gia khai hoang.
Nhìn chung, trong nửa đầu thế kỉ XIX, hoạt động khẩn hoang do người dân tự tiến
hành ở vùng Đông Nam Bộ diễn ra mạng mẽ ở ven sơng Phước Long (Đồng Nai), sơng
Tân Bình (Sài Gịn) với diện tích được khai hoang ở các tỉnh như sau: “Biên Hòa: 14.932
mẫu, Gia Định: 175.063 mẫu, Định Tường: 148.878 mẫu” [38, tr 130]
Trong đó, riêng với tỉnh Bình Dương thời kì này có tốc độ khai phá tương đối
nhanh so với các vùng khác. Điều này được thể hiện trong 4 huyện của tỉnh Biên Hịa,
Bình An (Bình Dương ngày nay) là vùng có diện tích thực canh lớn nhất: “Bình An:
6723.1.5.6, Phước Chánh: 3435.7.3.7, Long Thành: 2425.0.2.7, Phước An: 1729.4.3.3”
[9, tr 126] với đơn vị đo tương ứng: mẫu, sào, thước, tấc. Về diện tích làm ruộng tồn tỉnh
Biên Hịa có 11109.2.6.7, riêng Bình An đã có tới 5494.4.2.7 chiếm 49.45%, với diện tích
thổ hoa màu tồn tỉnh có 2317.2.6.8 thì Bình An đã có tới 589.5.4.8, chiếm 26,10% [9, tr
129]. Qua những số liệu thống kê cho thấy tốc độ khai phá của huyện Bình An là rất nhanh
với diện tích thực canh lớn nhất trong tỉnh và đó là thành quả lao động với cơng lao chính
thuộc về những người nơng dân bên cạnh đó là q trình giúp sức của triều đình với những
chính sách hỗ trợ khẩn hoang.
Tóm lại cơng cuộc khẩn hoang và Nam tiến của người Việt trong nửa đầu thế kỉ
XIX là q trình tiếp nối cơng cuộc khẩn hoang thế XVII - XVIII với thành quả chính
khơng chỉ là mở rộng thêm diện tích canh tác mà cịn đánh dấu sự thành cơng của triều
đình trong những chính sách hỗ trợ người dân khẩn hoang.
Như vậy cơng cuộc khẩn hoang vùng đất Đơng Nam Kỳ, trong đó có tỉnh Bình
Dương của người Việt được tiến hành suốt từ đầu thế kỉ XVII đến nửa đầu thế kỉ XIX là
một quá trình lao động lâu dài, bền bỉ. Sau khi vào vùng đất này với điểm dừng chân đầu
tiên là Mơ Xồi - Bà Rịa rồi di chuyển lên những vùng đất lân cận như Sài Gòn, Biên Hòa.
Qua hơn một thế kỷ khẩn hoang với sự chịu thương, chịu khó, họ đã khẩn hoang được một
vùng đất rộng lớn gồm Gia Định, Định Tường, Biên Hòa dưới thời vua Nguyễn. Trong đó
tỉnh Bình Dương cũng là một vùng đất được tiến hành khẩn hoang với một tốc độ nhanh
chóng, điều này đã được thể hiện trong số liệu đo đạc địa tỉnh Biên Hòa dưới triều Nguyễn
như đã trình bày ở trên.
1.3.
Chính sách quản lý của các chúa Nguyễn, vua Nguyễn đối với vùng đất
Đơng Nam Kỳ
Song song với q trình Nam tiến, khẩn hoang của lưu dân người Việt từ thế kỉ
XVII đến nửa đầu thế kỉ XIX, các chúa Nguyễn, vua Nguyễn cũng từng bước xác lập chủ
quyền hợp pháp của mình đối ở vùng đất Đơng Nam Kỳ. Q trình xác lập chủ quyền đó
được thể hiện ở hai khía cạnh: thiết lập quản lí vùng đất mới khai phá và thiết lập quản lí
về mặt hành chính đối với ruộng đất.
Sau hàng loạt các cuộc di cư ngày càng đông đảo của cư dân người Việt vào để
khai phá, sinh sống khơng chỉ vùng đất Mơ Xồi, Đồng Nai (vùng Biên Hòa - Bà Rịa) mà
còn cả Prey Nokor - Kas Krobei (vùng Sài Gòn, Bến Ghé sau này). Sự kiện đầu tiên thể
hiện chính sách quản lý của chúa Nguyễn với vùng đất mới khai phá là vào năm 1623 chúa
Nguyễn Phúc Nguyên cử một sứ bộ đem theo thư cùng nhiều tặng phẩm tới kinh đô
Oudong để ngỏ ý mượn sứ Prey Kor (tức Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Ghé sau này) của
Chân Lạp để lập đồn thu thuế lưu dân người Việt đang làm ăn sinh sống quanh vùng trong
vòng 5 năm. Sự kiện này, một tác giả người Pháp là Maspéro trong sách Đế quốc Khmer
đã trích dịch từ Biên niên sử chép tay của Chân Lạp ghi rõ: “Nhà vua mới lên ngôi Chey
Chettha II liền xây dựng cung điện ở Oudong, nơi đây long trọng cử hành lễ cưới một
công chúa con vua An Nam. Bà này rất đẹp, chẳng bao lâu ảnh hưởng đến vua. Nhờ Bà,
một sứ đoàn An Nam đã xin phép Chey Chettha IIlập thương điếm trong miền”. [18,tr
146]. Nhờ sự vận động của công chúa Ngọc Vạn mà hai yêu cầu này đều được vua Chân
Lạp chấp thuận.
Với sự kiện lập hai đồn quan thuế tại Sài Gịn - Bến Ghé, sự kiện này ngồi tạo chỗ
đứng vững chắc cho người Việt ở đất Chân Lạp, cịn có ý nghĩa là bước đầu tiên thể hiện
chủ quyền, chính sách quản lý của chúa Nguyễn đối với vùng đất mới khai phá - vùng đất
Sài Gòn - Bến Ghé.
Sự kiện thứ hai, việc lập đồn binh vào năm 1679 ở dinh Tân Mỹ. Theo Đại Nam
Nhất Thống Chí: “Đầu năm Kỷ Mùi (1679), Thái Tơng Hiếu Triết Hoàng đế triều ta sai
tướng mở biên cảnh, lập đồn dinh Tân Mĩ” [60,tr 79]. Việc lập đồn binh mang hình thức
căn cứ quân sự để hỗ trợ kịp thời cho phó vương Nặc Nộn - người được chúa Nguyễn
Phúc Tần phong cho làm phó vương đóng ở Sài Gịn khi gặp khó khăn trước sự tấn cơng
từ lực lượng bên ngồi. Đồng thời giúp bảo vệ tính mạng và tài sản, quyền lợi cho số lưu
dân người Việt đang sống rải rác khắp miền Đông Nam Kỳ. Như vậy động thái thứ hai của
chúa Nguyễn - thiết lập đồn binh ở Tân Mỹ được coi là một trong những chính sách từng
nước thiết lập chế độ quản lý đất đai ở Đông Nam Kỳ.
Sau năm 1689 Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất Nam Kỳ, về cơ bản vùng
đất này còn khá hoang vu, dân số cịn ít. Chính vì thế để biến nơi đây thành vùng sản xuất
nông nghiệp phát triển, đáp ứng nhu cầu phát triển xứ Đàng Trong. Các chúa Nguyễn đã
có chính sách chiêu dân khẩn hoang lập ấp bằng những biện pháp cụ thể: khuyến khích
người có vật lực, người nghéo khổ, xiêu tán ở xứ Quảng Nam các phủ Điện Bàn, Quảng
Ngãi, Quy Nhơn di dân vào Sài Gòn, Đồng Nai, Giai Định lập nghiệp, khai khẩn đất
hoang. Điều này đã giúp vùng đất Đông Nam Kỳnhanh chóng trở thành một vùng đất phát
triển nhất Đại Việt hồi bấy giờ.Bên cạnh đó nhằm khuyến khích người khai hoang, các
chúa Nguyễn đã có những chính sách khá cởi mở “cho dân tự chiếm” là một hình thức
cơng nhận đất đai mà dân khai phá được cho phép là ruộng tư hữu. Chính vì thế đất Đồng
Nai, Gia Định đã nhanh chóng thu hút được đơng đảo dân khai hoang đến lập nghiệp,
trong đó có địa bản tỉnh Bình Dương ngày nay.
Có thể nói với hai sự kiện trên và sau đó là những chính sách khuyến khích dân lưu
tán khẩn hoang ở giai đoạn sau cuộc kinh lược 1698 là bước đệm từng bước cụ thể hóa
chính sách quản lý của chúa Nguyễn đối với ruộng đất Nam Kỳ. Đồng thời vừa từng bước
tạo tiền đề cho cơng cuộc quản lý ruộng đất về mặt hành chính sau này.
Năm 1802 triều Nguyễn thành lập vào lúc đất nước vừa trải qua thời kì chiến tranh
loạn lạc, ruộng đất bị bỏ hoang nhiều, nông dân phiêu tán, hàng vạn binh lính trở về q
hương nhưng khơng có ruộng đất để cày cấy. Đặt ra yêu cầu tổ chức chiêu dân khai khẩn,
mở rộng diện tích canh tác ổn định xã hội. Để đáp ứng yêu cầu trên, nhằm củng cố vững
chắc vương triều của mình, vua Gia Long đã ban hành nhiều chỉ dụ nhằm đẩy mạnh công
cuộc khai hoang, lập ấp ở vùng đất Nam Kỳ.
Ngay đầu năm 1802 Nguyễn Ánh đã có lệnh: “Sai các dinh ở Gia Định chia cấp
ruộng đất hoang cho dân nghèo. Gia Định đất đai màu mỡ, thóc gạo chan chứa mà nhân
dân phần nhiều hay làm mạt nghề, nên ruộng đất có chỗ bỏ hoang. Vua bèn dụ các đình
thần phải chăm lo đi khun bảo.Người nào khơng có điền sản thì đem ruộng hoang cấp
cho và cho vay thóc giống, đợi thu hoạch xong sẽ y trả lại nhà nước”.Và còn ra lệnh cho
lưu trấn thành Gia Định phải “chiêu tập cùng dân, cấp cho họ thóc của nhà nước để họ đi
khẩn trị.Lại sai các đình chia nhau đi đôn đốc, xem xét chất đất nên trồng thức gì thì
trồng thức ấy. Để ruộng bỏ hoang khơng cày thì có tội” [43, tr 76]
Đối với Đơng Nam Kỳ nói riêng hình thức khẩn hoang lập đồn điền phát triển nhất
với hai hình thức: Loại đồn điền do binh lính khẩn hoang, trong đó tù phạm cũng được huy
động và loại đồn điền mộ dân khai khẩn. Đối với đồn điền do binh lính lập, nơi khai hoang
thường của họ nằm gần nơi đóng quân, nhất là ở vùng biên giới. Hình thức lập đồn điền do
dân thường tổ chức sản xuất là hình thức kết hợp giữa nhà nước và nhân dân trong công
cuộc khai hoang. Dân làm đồn điền được nhà nước đứng ra chiêu mộ hoặc nhà nước cho
phép tư nhân “người có vật lực” nào có khả năng, tình nguyện đứng ra chiêu mộ.
Về cơ bản chính sách quản lý ruộng đất mới khai hoang ở vùng đất Nam Kỳ nói
chung, Bình Dương nói riêng của triều Nguyễn được thực hiện bởi chính sách lập đồn
điền. Lập đồn điền để khai khẩn đất hoang vừa là biện pháp giúp mở rộng diện tích canh
tác, giải quyết được cuộc sống cho dân nghèo, vừa góp phần tích cực trong bảo vệ biên
cương.Đồng thời quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất trên những vùng đất đó được khẳng
định.
Tóm lại dưới triều các chúa Nguyễn và sau này là vương triều Nguyễn thì việc thúc
đẩy quá trình khẩn hoang và quản lý vùng đất mới khai hoang là hai q trình ln diễn ra
song song.Điều này thể hiện vai trò quan trọng của vùng đất Đơng Nam Kỳ trong chính
sách phát triển kinh tế của đất nước.Việc xác định chủ quyền với những ruộng đất mới
khai phá là những điều kiện thuận lợi giúp chúa Nguyễn, triều Nguyễn xác định quyền sở
hữu của mình về mặt hành chính sau này. Điều này hoàn toàn phù hợp với phương thức
“dân đi trước, nhà nước theo sau”.
Đến cuối thế kỉ XVII tuy đã khai phá trên một vùng đất khá rộng lớn và có ảnh
hưởng rất lớn đến triều chính Chân Lạp ở vùng Đông Nam Kỳ. Song các chúa Nguyễn
ngoại trừ chức quan thu thuế ở Sài Gòn nhưng vẫn chưa thiết lập những tổ chức hành
chính trên vùng đất này. Chính vì vậy đến năm 1698, khi hội đủ điều kiện thuận lợi: vùng
Đơng Nam Kỳ thuộc kiểm sốt trong tay chúa Nguyễn, dân cư người Việt chiếm tỷ lệ cao
nhất trong vùng. Chúa Nguyễn Phúc Chu cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam lập
chính quyền cai trị. Kết quả Nguyễn Hữu Cảnh đã: “chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai
làm huyện Phúc Long (nay thăng làm phủ) dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay),
lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên Trấn (tức Gia
Định ngày nay)”[61, tr 111].Vậy lúc này phủ Gia Định bao trùm lên khắp miền Đông Nam
Kỳ. Sơng Sài Gịn làm ranh giới giữa hai huyện: tả ngạn tới biển Đông là huyện Phước
Long, hữu ngạn tới sơng Tiền là huyện Tân Bình.Riêng với Bình Dương sau cuộc kinh