Mở đầu
Đối với các quốc gia cổ đại ở các phơng đông và phơng tây ngành kinh tế
nông nghiệp là ngành kinh tế vô cùng quan trọng, trong nông nghiệp vấn đề ruộng
đất bao giờ cũng có ý nghĩa hàng đầu. Từ thời xa xa khi con ngời phát minh ra
nghề nông họ cũng tìm ra nguồn lơng thực chính để nuôi sống họ và làm cơ sở cho
sự phát triển xã hội. Nói đến nông nghiệp tức là nói đến ruộng đất. Vì vậy, quản lý
và không ngừng mở rộng ruộng đất là những vấn đề sống còn của con ngời. Nhng
quản lý nh thế nào, mở rọng nh thế nào, tùy thuộc vào những quan hệ xã hội,
những đặc điểm riêng của từng khu vực, từng nớc chi phối.
Hiểu đợc chế độ ruộng đất trong lịch sử tức là hiểu đợc cách quản lý, phân
phối, sử dụng và bảo vệ ruộng đất của từng thời kì từng bớc, đều thực sự cần thiết
vì hiểu đợc chế độ sở hữu ruộng đất trong lịch sử chúng ta có thể rút ra bài học bổ
ích cho ngày hôm nay.
Nói đến chế độ ruộng đất tức là nói đến các hình thức sở hữu, chiếm hữu và
sử dụng ruộng đất khác nhau và biểu hiện cụ thể của nó ở các nớc khác qua các
thời kì cũng khác nhau. Đặc biệt có sự khác biệt rất rõ rệt về hình thức sở hữu
ruộng đất giữa các nớc phơng Đông và các quốc gia cổ đại Địa Trung Hải.
1
Nội dung
****
i - chế độ sở hữu ruộng đất ở các quốc gia địa Trung Hải.
* ở các quốc gia Địa Trung Hải đặc biệt là ở Rôma nét nổi bật của kih tế
nông nghiệp là việc tập trung cao độ ruộng đất vào tay giai cấp chủ nô.
Những chiến thắng liên tiếp và sự mở rộng cơng vực đã giúp cho nhà nớc có
trong tay những vùng đất đai rộng lớn. Thông thờng Rôma đã biến một bộ phận
đất chiếm đợc thành ruộng công rồi đem phân cấp cho những ngời bình dân Rôma
di c tới làm ăn, đại bộ phận đất chiếm đợc đều bán cho t nhân, quý tộc và thơng
nhân Rôma đã tung tiền, vàng ra mua ruộng của Nhà nớc; biến thành tài sản sở
hữu của mình để lấn chiếm ruộng công, đất t hữu của dân nghèo, dân lu tán, binh
sĩ tử trận. Cuối cùng họ có trong tay không phải là những vờn, ruộng nhỏ mà là
mênh mông. Cuối cùng họ có cao độ ruộng đất vào tay giai cấp chủ nô đã diễn ra.
Trên cơ sở đó, các điền lớn hay đại trại - Latiphunđia đã xuất hiện.
Latiphunđia là hình thái sản xuất cơ bản của nền kinh tế Rôma, vận mệnh
của Nhà nớc Rôma gắn liền với vận mệnh những đại trại (Latiphunđia). Khi các
Latiphunđia phát triển cực thịnh thì cũng là lúc Nhà nớc Rôma, văn minh Rôma
phát triển đến đỉnh cao của nó, ngợc lại có Latiphunđia suy yếu và tan rã, đế quốc
Rôma cũng đi vào giai đoạn khủng hoảng suy vong.
Latiphunđia là sở hữu đất trồng của chủ nô, sử dụng sức lao động tập thể
của nô lệ với phơng thức sản xuất độc canh. Do vậy, muốn thiết lập Latiphunđia
phải có 2 điều kiện: Có chế độ sở hữu ruộng đất lớn của t nhân và có đầy đủ nô lệ
thực thụ.
Trong tiến trình lịch sử, không phải bất cứ quốc gia cổ đại nào (dù đó là nền
văn minh nông nghiệp tới tiêu) cũng đủ đảm bảo 2 điều kiện cần thiết để lập các
Latiphunđia, do vậy, trong lịch sử cổ đại, các Latiphunđia dờng nh trở thành đặc
trng của hoạt động kinh tế nông nghiệp của ngời Rôma.
Mỗi Latiphunđia thuộc quyền sở hữu 1 chủ nô, chủ nô thông qua những
viên quản lý thân tín của mình để điều hành, cai quản. Các Latiphunđia đều lấy
nông nghiệp làm hoạt động kinh tế chủ chốt, bởi thế sản xuất nông nghiệp ở
Rôma lúc đó đợc chú trọng đề cao. Tuy nhiên do điều kiện tự nhiên từng vùng,
việc kinh doanh nông nghiệp ở các Latiphunđia đều trồng nho, ôliu, các
2
Latiphunđia này đều có những đồng cỏ trù phú lại chủ yếu kinh doanh nghề chăn
nuôi, còn ở đảo xinxin và Bắc phi, các Latiphunđia lại chuyển trồng ngũ cốc kinh
tế Latiphunđia mang tính chất 2 mặt rõ rệt. Một mặt nó là nền kinh tế nông nghiệp
trong khuôn khổ nền kinh tế tự nhiên, đảm bảo việc cung cấp thỏa mãn cho những
điền trang, mặt khác sản phẩm của nó lại còn gắn bó chặt chẽ với hoạt động thủ
công nghiệp, thơng mại trong khuôn khổ của nền kinh tế hàng hóa.
* Từ giữa thế kỉ I trở đi, chế độ đại điền bàng (Latiphunđia) bắt đầu những
dấu hiệu khủng hoảng. Việc sử dụng sức lao động tập thể nô lệ trở nên không
thích hợp, năng suất lao động ở các Latiphunđia thành nhiều mảnh, giao trực tiếp
cho nô lệ hoặc những ngời không có ruộng đất canh tác ngày càng trở nên phổ
biến, các Latiphunđia rộng lớn xa kia ngày càng dần tan vỡ, nhờng chỗ cho các
điền ấp san tút - (Saltus). Việc tan rã của cá Latiphunđia, không những thể hiện sự
khủng hoảng suy vong của chế độ chiếme nô Rôma mà còn kéo theo hàng lọat
những thay đổi trong phơng thức canh tác
Nếu trớc đây, đa số các Latiphunđia chuyên doanh trồng cây công nghiệp
phục vụ cho kinh tế thủ công nghiệp và thơng mại. Thì bây giờ trong các San tút,
ngời ta đã chuyển dần sang trồng cây lơng thực. Chủ nô không sử dụng sức lao
động tập thể của nô lệ mà giao trực tiếp cho nô lệ những mảnh ruộng nhỏ cùng
với công cụ sản xuất để nô lệ tự tiến hành nền tiểu sản xuất của họ, nộp sản phẩm
cho chủ.
II - Sở hữu ruộng đất trong các quốc gia phơng đông.
* Chế độ sở hữu ruộng đất nói chung trong các quốc gia Phơng Đông.
- Trong bức th Mác gửi ăng - ghen ngày 2/6/1853, Mác nói đến đặc điểm
của châu á và Phơng Đông Mác muốn nhấn mạnh một đặc điểm của xã hội ấn
Độ là: Nhà vua là ngời sở hữu duy nhất toàn bộ ruộng đất trong nớc và ở
phần cuối th, Mác có đoạn, khen Phơ - răng - xoa Béc - ni - ê một giáo sĩ Pháp tác
giả cuốn Du lịch ấn Độ nh sau:
Béc - ni - ê đã nhận xét chính ác rằng hình thức cơ bản của mọi hiện t-
ợng ở Phơng Đông - ông ta nói Thổ Nhĩ Kỳ, Ba T, ấn Độ - là vấn đề không có
chế độ t hữu về ruộng, đất. Nó chính là vấn đề then chốt ở đấy, mà cả ở thiên đ-
ờng Phơng Đông cũng là nh thế.
Qua bức th này, chúng ta thấy một đặc điểm của Phơng Đông đợc Mác chú
ý đầu tiên là tình hình không có chế độ t hữu ruộng, đất ở Phơng Đông. Nh thế có
3
nghĩa là ở Phơng Đông chế độ sở hữu tồn tại phổ biến là chế độ sở hữu công cộng
hoặc sở hữu Nhà nớc về ruộng đất.
Mấy hôm sau trong th trả lời Mác ngày 66/1853. Ang-ghen cũng nhấn
mạnh vào đặc điểm này và sơ bộ nêu lên những nguyên nhân của tình hình đó nh
sau: Không có chế độ sở hữu ruộng đất, thật là vấn đề then chốt của toàn Ph-
ơng Đông. Lịch sử chính trị và tôn giáo cũng đều bắt nguồn từ đấy. Nhng, Ph-
ơng Đông đã không tiến tới chế độ sở hữu ruộng đất, cả chế độ sở hữu ruộng
đất phong kiến cũng không tiến tới, nguyên nhân vì đâu? Tôi cho nguyên nhân
chủ yếu là ở khí hậu, địa thế, đặc biệt là có liên quan đến cả một giải đất chạy
dài từ Xa - ha - na, qua A - rập, Ba T, Tác - ta - ni, tới những sa mạc rộng lớn
nhất ở Châu á. Tại đây, điều kiện thứ nhất của nông nghiệp là tới nớc vào
ruộng. Đó là công việc của làng xã, hàng tỉnh hoặc chính phủ Trung ơng,
chính phủ, Phơng Đông từ xa vẫn chỉ có 3 bộ: Tài chính (bóc lột trong nớc),
chiến tranh (cớp đoạt trong nớc và ngoài nớc) và lao động công cộng (để tái
sản xuất)
Mác và Ăng - ghen đã xuất phát từ phân công lao động và các hình thức sở
hữu để tìm tới phát triển sản xuất Châu á, chế độ sở hữu công cộng về ruộng đất
có thể coi là đặc trng cơ bản thứ nhất của phơng thức sản xuất Châu á. Đặc trng
này bao hàm trong nó các yếu tố:
+ Kẻ sở hữu tối cao hay sở hữu duy nhất là nhà vua.
+ Kẻ chiếm dụng đất đai theo kiểu cha truyền con nối là công xã.
+ Kẻ sử dụng đất đai là các thành viên công xã và phải thực hiện nghĩa vụ
nộp cống (tức bị bóc lột lao động thặng d dới dạng cống vật) cho kẻ sở hữu.
+ Mâu thuẫn nội tại của chế độ sở hữu này nảy sinh từ khi t hữu hóa về
ruộng đất xuất hiện tạo nên tính nhị nguyên của công xã và dẫn đến sự giải thể của
phơng thức sản xuất Châu á.
Khi nghiên cứu sở hữu ruộng đất Mác đã nhận thấy trớc hết là sở hữu chung
của Nhà nớc do vua nắm toàn quyền, năm 1872 khi viết tác phẩm những hình
thức có trớc nền kinh tế T Bản chủ nghĩa. Mác chỉ rõ mối quan hệ về quyền chiếm
hữu, sở hữu của công xã nông thôn về ruộng đất Hình thức ấy (chiếm hữu, sử
dụng) hoàn toàn không mâu thuẫn với tình hình sau đây là giống nh trong đại
đa số những hình thức cơ bản của Châu á cá thể thống nhất có tính chất kết
hợp đứng trên tất cả các tập đoàn nhỏ đó, xuất hiện ra là ngời sở hữu tối cao
4
hay ngời sở hữu duy nhất, vì thế những công xã thực tế lại chỉ xuất hiện là
những kẻ chiếm hữu cha truyền con nối mà thôi.
Sở hữu Nhà nớc càng về thời xa xa quyền sở hữu hữu càng lớn trong thực tế
số ruộng công của Nhà nớc càng ít đi, bên cạnh quyền sở hữu tối cao bao trùm
toàn bộ ruộng đất có một số sở hữu thực tế do Nhà nớc quản lí.
Những sở hữu ruộng đất của bọn quan lại, quý tộc, bao gồm 2 loại.
+ Sở hữu tối cao trên danh nghĩa là đất phong (do vua dùng ruộng đất công
của Nhà nớc phong cấp, đây là ruộng đất tạm thời.
+ Loại ruộng đất sở hữu mang tính chất thừa kế rất ít chủ yếu dựa trên vấn
đề khai hoang.
Trong cuộc tranh luận về chế độ sở hữu Nhà nớc trong phơng thức sản xuất
Châu á Nguyễn Hồng Phong cũng nêu ra: Đặc trng của một phơng thức sản xuất
đợc quy định bởi tính chất của quan hệ sản xuất. Tính chất quan hệ sản xuất đợc
quy định bởi quan hệ giữa con ngời với t liệu sản xuất. Trong xã hội tiền t bản -
Những xã hội nông nghiệp - t liệu sản xuất quan trọng nhất là ruộng đất. Xã hội
Nguyên Thuỷ, đất đai thuộc sở hữu của cộng đồng, thị tộc bộ lạc phân phối bình
đẳng. Trong xã hội theo phơng thức sản xuất Châu á ruộng đất thuộc sở hữu Nhà
nớc thiết lập chồng lên sở hữu công xã nông thôn. Chế độ sở hữu Châu á không
phải là chế độ bóc lột thiết lập trên sở hữu thị tộc, bộ lạc nh có ngời chủ trơng
Ngày nay ở trình độ hiểu biết về lịch sử các hội Châu á tiền t bản, chúng ta có thể
khẳng định quyền sở hữu Nhà nớc về ruộng đất là phổ biến ở các xã hội Phơng
Đông (Châu á và Châu Phi) cổ trung đại nhà vua đại biểu cho Nhà nớc cũng là kẻ
nắm nhà nớc có toàn quyền phong cấp đất đai trong lãnh thổ của mình cho bất cứ
ai. Điều đó chứng tỏ sở hữu ruộng đất Nhà nớc là một thực quyền, chứ không phải
là danh nghĩa.
iii - Chế độ sở hữu ruộng đất ở một số quốc gia tiêu biểu.
1. ở Trung Quốc.
* Ngay từ thời Tây Chu, việc phân phong đất cho quý tộc và việc chia đất
cho nông dân đã trở thành chế độ rất hoàn chỉnh. Sau khi chinh phục đợc nớc th-
ơng và các bộ lạc nhỏ khác, tất cả đất đai trong nớc đều thuộc quyền sở hữu của
vua Chu. Vì vậy trong kinh thi có câu:
5
ở dới gầm trời
Đâu cũng đất vua
Khắp trên mặt đất
Ai cũng dân vua
Do quyền sở hữu thuộc về Nhà nớc, nên ruộng đất không đợc mua bán.
Ngoài vùng xung quanh kinh đô mà vua Chu gửi lại cho mình gọi là Vơng kì, đất
đai trong cả nớc đợc phân phong cho anh em bà con và các công thần của nhà vua,
khi phong đất còn kèm theo phong tớc. Tuỳ theo bà con thân hay sơ, công lao lớn
hay nhỏ mà đợc phong đất rộng hay hẹp, gần hay xa và tớc cao hay thấp. Những
ngời đợc phong đất và tớc trở thành các vua ch hầu của nhà Chu. Vua ch hầu tuy
không có quyền sở hữu hoàn toàn về đất đợc phong nhng đợc truyền lại cho con
cháu. Đối với vua Chu, Vua các nớc ch hầu có nghĩa vụ hàng năm phải đến chầu,
nộp cống, ngoài ra còn phải đem quân đội đến giúp mỗi khi có chiến sự xảy ra.
Nếu không thi hành đúng những nghĩa vụ đó, thì tuỳ theo mức độ mà bị giáng
chức tớc, bị thu hồi đất phong hoặc bị đem quân đến để tiêu diệt.
Ruộng đất trong vơng kì và trong các nớc ch hầu bị đem phong cho các qúy
tộc quan lại của triều đình nhà Chu và triều đình các nớc ch hầu gọi là khanh, đại
phu, khanh, đại phu lại chia thái ấp cho những ngời giúp việc của mình goi là sĩ
khanh, đại phu và sĩ đợc hởng số thuế của phần ruộng đất đợc chia nhng khi thôi
việc, phải trả lại số ruộng đất ấy. Cuối cùng trong các làng xã, ruộng đất đợc chia
cho nông dân để cày cấu. Mỗi hộ nông dân đợc chia một mảnh ruộng rộng 100
mẫu (bằng khoảng 2ha) gọi là một điền. Để chia ruộng đất thành từng phần nh vậy
và để dẫn nớc vào ruộng, ngời ta đắp những bờ vùng bờ thửa vào đào những con
mơng, ngang dọc, do đó tạo thành những hình nhchữ Tỉnh (#) ở trênh cánh
đồng nên gọi là Tỉnh điền.
Nh vậy, tỉnh điền là chế độ phân phối ruộng công ở Trung Quốc cổ đại chế
độ ấy tồn tại đến thời chiến Quốc. Khi ruộng t xuất hiện thì dần dần tan rã.
* Thời xuân thu: Chế độ ruộng đất của Nhà nớc dần dần tan rã, ruộng t
xuất hiện ngày một nhiều. Song thời Xuân Thu, cái quan hệ họ hàng đó đã trở nên
xa xôi và quan trọng hơn, nhà Chu với t cách là tôn chủ không còn đủ thế lực để
bắt những ngời đợc kế thừa đất phong phải thực hiện nghĩa vụ của họ. Vì vậy trên
thực tế, các nớc ch hầu đều coi lãnh địa đợc phong là thuộc quyền sở hữu của họ.
6