Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Những trụ cột về chính trị xã hội của chính quyền đệ nhất việt nam cộng hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 69 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA LỊCH SỬ

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA
CUỘC THI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2015 -2016

NHỮNG QUYỀN
CHÍNH
TRỤ CỘT
ĐỆCHÍNH
NHẤT VIỆT
TRỊ -NAM
XÃ CỘNG
HỘI CỦA
HỊA

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA LỊCH SỬ

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA
CUỘC THI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2015 -2016
•••

NHỮNG TRỤ CỘT CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA
CHÍNH QUYỀN ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HÒA


Sinh viên thực hiện: Chế Thị Kim Hằng Nam, Nữ: Nữ Dân tộc: Kinh
Lớp, khoa: D13LSVN, Lịch Sử
Năm thứ: 3
Số năm đào tạo: 4
Ngành học: Sư phạm Lịch Sử Người hướng dẫn: Th.s Phạm Thúc Sơn


3

UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

1. Thơng tin chung:
-Tên đề tài: NHỮNG TRỤ CỘT CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA CHÍNH QUYỀN
ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HỊA
- Sinh viên/ nhóm sinh viên thực hiện:
STT

Họ và tên

MSSV

Lớp

Khoa


Năm thứ/ Số
năm đào tạo

1

Chế Thị Kim Hằng

1321402180002

D13LSVN

Lịch Sử

3/4

2

Trượng Thị Dung

121402180032

D13LSVN

Lịch Sử

3/4

3

Huỳnh Toàn


1321402180077

D13LSVN

Lịch Sử

3/4

4
5

- Người hướng dẫn: Th.s Phạm Thúc Sơn
2. Mục tiêu đề tài:
Đề tài hướng đến các mục tiêu:
- Làm rõ những trụ cột chính trị - xã hội của chính quyền đệ nhất Việt Nam cộng
hịa, bao gồm những trụ cột cụ thể như: Phong trào Cách mạng quốc gia; Cần Lao Nhân
vị Cách mạng Đảng: Phong trào giáo dân Cơng giáo di cư. Từ đó, khái quát những tác
động của những trụ cột này đối với chính quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hịa.
- Nguồn tài liệu học tập và nghiên cứu dành cho các độc giả quan tâm đến chính
quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hịa.
3. Tính mới và sáng tạo:
- Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống về các trụ cột chính trị - xã hội của chính
quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa, trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ về những trụ cột về
chính trị xã hội của của Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa chính là nghiên cứu, tìm hiểu những
thành tố cấu tạo và là chỗ dựa để một thể chế tồn tại phát triển. Phục dựng lại một cách hệ
thống và toàn diện bức tranh lịch sử về những trụ cột chính trị và xã hội của chính quyền
Việt Nam Cộng hịa từ năm 1955 đến 1963.
- Nghiên cứu về những trụ cột về chính trị - xã hội của chính quyền đệ nhất Việt
Nam Cộng hịa trên tất cả các phương diện khơng chỉ góp phần vào công tác nghiên cứu

lịch sử miền Nam nước ta mà cịn cùng với cơng trình sử học khác làm sinh động thêm
bức tranh kinh tế - xã hội miền Nam Việt Nam thời đế quốc Mỹ và tay sai thống trị, góp
phần lý giải một số vấn đề của lịch sử dân tộc thời kỳ này, bổ sung và làm phong phú
thêm nguồn tài liệu, phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và những cá nhân quan tâm đến đề
tài.


4

- Đồng thời, rút ra được những ưu điểm cũng như những hạn chế trong việc xây
dựng lực lượng chính trị và xã hội của chính quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hòa. Qua việc
nghiên cứu về những trụ cột về chính trị và xã hội của chính quyền Đệ nhất Việt Nam
Cộng hòa, rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng và hoàn thiện việc xây
dựng lực lượng chính trị, xã hội và những nên tảng chính trị - xã hội của nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
4. Kết quả nghiên cứu:
Thông qua việc nghiên cứu, đề tài làm rõ các vấn đề:
- Khái quát chính quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hòa: Khái quát về q trình xác lập
của chính quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hòa; phong trào đấu tranh của nhân miền Nam
chống Mỹ- Diệm; sự sụp đổ của chính quyền vào năm 1963.
- Làm rõ những trụ cột chính trị- xã hội của chính quyền Ngơ Đình Diệm.
- Trình bày những tác động của các trụ cột chính trị- xã hội đối với chính quyền Đệ
nhất Việt Nam cộng hịa.
- Nguồn tài liệu học tập và nghiên cứu dành cho các độc giả quan tâm đến chính
quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa.
5. Đóng góp về mặt kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, an ninh, quốc phòng và khả
năng áp dụng của đề tài:
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề
xây dựng Đảng vững mạnh là cấp thiết. Bên canh đó vấn đề đồn kết dân tộc là một vấn
đề quan trọng và có ý nghĩa to lớn. Thủ đoạn lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng

đang trở nên tinh vi của các thế lực phản động. Từ đề tài “Những trụ cột chính trị- xã hội
của chính quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hịa” chúng ta rút ra nhiều bài học kinh nghiệm
đối với vấn đề xây dựng Đảng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ đây, có
những chính sách phù hợp đối với các dân tộc, tôn giáo, đặc biệt là các đồng bào có tơn
giáo và tín ngưỡng cần được quan tâm nhiều hơn để giữ vững tình hình ổn định của đất
nước, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ thành quả cách mạng mà ông
cha ta đã xây dựng lên.
6. Công bố khoa học của sinh viên từ kết quả nghiên cứu của đề tài (ghi rõ họ tên tác
giả, nhan đề và các yếu tố về xuất bản nếu có) hoặc nhận xét, đánh giá của cơ sở đã áp
dụng các kết quả nghiên cứu (nếu có):
Ngày 24 tháng 3 năm 2016 Sinh viên
chịu trách nhiệm chính thực hiện đề tài
(ký, họ và tên)


phạm
Lịch
Sử Khoa:Lịch Sử
TRƯỜNG: ĐẠI HỌCSư
THỦ
DẦU
MỘT
Kết quả
xếp
loại
học
tập:
Trung
bình
- Khá

Đơn vị: KHOA SỬ
Sơ lược thành tích:
* Năm thứ 2:

THƠNG TIN VỀ SINH VIÊN
Ngành học:
Sư phạm NHIỆM
Lịch sử CHÍNH THỰC
Khoa: Lịch
Sử ĐỀ TÀI
CHỊU TRÁCH
HIỆN

Kết quả xếp loại học tập: Khá Sơ
I. SƠ
VỀ SINH VIÊN: Họ và tên: Chế Thị Kim Hằng Sinh ngày:
lượcLƯỢC
thành tích:

Ảnh 4x6

23
thángthứ
103:năm 1995 Nơi sinh: Ninh Thuận Lớp: D13LSVN Khóa: 2013 * Năm
2017
SửLịch
Địasửchỉ liên hệ: Điện thoại:
Email:
Khoa:0973054440
Lịch Sử

NgànhKhoa:
học: SưLịch
phạm

Kết quả xếp loại học tập HK1: Khá
Sơ lược thành tích:

II. Q TRÌNH HỌC TẬP (kê khai thành tích của sinh viên từ năm thứ 1 đến năm
đang học):
* Năm thứ 1:


Xác nhận của lãnh đạo khoa (ký,
họ và tên)
Ngày 24 tháng 3 năm 2016

Sinh viên chịu trách nhiệm chính
thực hiện đề tài
(ký, họ và tên)


MỤC LỤC

3.2. Tác động của phong trào Cách mạng Quốc gia đối với chính quyền đệ nhất


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đã trải qua 21 năm dưới chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ, đây
là thời kỳ lịch sử đầy biến động chính trị và những đổi thay to lớn của xã hội Việt

Nam trên nhiều phương diện. Thời kỳ lịch sử đó đặt ra các vấn đề nghiên cứu cho giới
khoa học ở nhiều lĩnh vực, nhất là khoa học lịch sử. Trong những năm qua, các nhà sử
học trong và ngồi nước đã dầy cơng nghiên cứu và làm sáng tỏ nhiều nội dung khoa
học với không ít vấn đề phức tạp về thời kỳ lịch sử này. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn
còn tồn tại những khoảng trống chưa được nghiên cứu và cả những vấn đề cần được
nghiên cứu, đánh giá lại.
Chế độ Việt Nam Cộng hịa cùng với hệ thống các chính sách của Mỹ và chính
quyền tay sai đã gây ra những tác động đa chiều với kinh tế - xã hội Việt Nam trên
khắp các vùng ở miền Nam nước ta. Chế độ Việt Nam Cộng hòa đã từng bước thực
hiện những chính sách của mình, chính sách đó theo chính quyền Việt Nam Cộng hịa
là xuất phát từ những lợi ích thiết thân đồng bào ở miền Nam Việt Nam mang giá trị
nhân văn cao cả. Nhưng thực chất của hệ thống các chính sách của chính quyền Đệ
nhất Việt Nam Cộng hịa xuất phát từ những mưu đồ chính trị, chính sách thực dân
mới của Mỹ, do chế độ Việt Nam Cộng hòa là bộ máy tay sai thực hiện chức năng
thống trị trực tiếp dân tộc ta ở miền Nam Việt Nam.
Trong q trình tồn tại ngồi sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, để trụ vững ở miền
Nam nước ta chính quyền đệ nhất Việt Nam Cộng hịa đã tạo ra cho mình những trụ
cột của chế độ. Quá trình chính thể Việt Nam Cộng hịa hoạt động là q trình những
trụ cột của chính thể này phát huy vai trị của mình. Vậy những trụ cột của chính
quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa là gì? Được tổ chức và vận hành trên những
nguyên tắc nào? Chịu ảnh hưởng của những nhân tố gì? Kết quả và xu hướng phát
triển ra sao?...Đó là những vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu.
Nghiên cứu về những trụ cột về chính trị - xã hội của của Đệ nhất Việt Nam
Cộng hịa chính là nghiên cứu, tìm hiểu những thành tố cấu tạo và là chỗ dựa để một
thể chế tồn tại phát triển. Trong suốt thời tồn tại của chế độ Việt Nam Cộng hịa, Giáo
dân Cơng giáo di cư có vai trị là một lực lượng để thể chế này dựa vào trên cơ sở là
một lực chính trị hậu thuẫn cho chế độ và chế độ Việt Nam Cộng hòa đã sử dụng các
cá nhân của lực lượng Giáo dân trong bộ máy chính quyền như cơng cụ phục vụ cho
những mục đích khác nhau trong việc xây dựng củng cố, bảo vệ chế độ. Bên cạnh đó
để thống nhất các lực lượng, tạo ra “một thế” lực thực sự có thể kiểm sốt các lĩnh vực

và các hội đồn để củng cố chế độ mình trước các lực lượng khác nhau, thực thi nhiệm
vụ của chính thể, chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa đã tổ chức và thành lập
Phong trào Cách mạng Quốc gia. Song song với lực lượng Giáo dân Công giáo di cư
và Phong trào Cách mạng quốc gia, để thống nhất về lãnh đạo, thuần nhất về ý thức hệ
và để đối trọng các giáo phái chính trị, các tổ chức xã hội đang có tầm ảnh hưởng khác
nhau trên mọi lĩnh vực ở miền Nam Việt Nam, Ngơ Đình Nhu đã thành lập Cần lao
Nhận vị Cách mạng Đảng. Ba tổ chức được thành lập, tổ chức và hoạt động với các
mức độ, ảnh hưởng khác nhau và trở thành chỗ dựa chính ở trong nước của chế độ Đệ


Nhất Việt Nam Cộng hịa.
Chính vì vậy, nghiên cứu về những trụ cột về chính trị - xã hội của chính quyền
đệ nhất Việt Nam Cộng hịa trên tất cả các phương diện khơng chỉ góp phần vào cơng
tác nghiên cứu lịch sử miền Nam nước ta mà còn cùng với cơng trình sử học khác làm
sinh động thêm bức tranh kinh tế - xã hội miền Nam Việt Nam thời đế quốc Mỹ và tay
sai thống trị, góp phần lý giải một số vấn đề của lịch sử dân tộc thời kỳ này, bổ sung
và làm phong phú thêm nguồn tài liệu, phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và những cá
nhân quan tâm đến đề tài. Đồng thời, rút ra được những ưu điểm cũng như những hạn
chế trong việc xây dựng lực lượng chính trị và xã hội của chính quyền Đệ nhất Việt
Nam cộng hịa. Qua việc nghiên cứu về những trụ cột về chính trị và xã hội của chính
quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa, rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc xây
dựng và hồn thiện việc xây dựng lực lượng chính trị, xã hội và những nên tảng chính
trị - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục tiêu đề tài
Phục dựng lại một cách hệ thống và toàn diện bức tranh lịch sử về những trụ
cột chính trị và xã hội của chính quyền Việt Nam Cộng hịa từ năm 1955 đến 1963.
Sau đó, tác giả sẽ rút ra những bài học kinh nghiệm cho công tác xây dựng lực lượng
chính trị và xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Thơng qua khắc họa những trụ cột về chính trị và xã hội của Việt Nam Cộng
hòa từ 1955 đến 1963, tác giả xác định vị trí, vai trị hệ thống những trụ cột với chính

quyền Việt Nam Cộng hòa (1955-1963).
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
❖ Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài “Những trụ cột về chính trị - xã hội của chính quyền Đệ nhất Việt
Nam Cộng hòa”, đối tượng nghiên cứu chủ yếu là hệ thống những trụ cột về chính trị
- xã hội của chính thể Việt Nam Cộng hòa giai đoạn 1955 đến 1963 cụ thể là:
Quá trình xác lập, hình thành, tổ chức và hoạt động của Cần lao Nhân vị Cách
mạng đảng, Phong trào Cách mạng Quốc gia và Giáo dân Công giáo di cư.
❖ Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: đề tài sẽ nghiên cứu những trụ cột về chính trị - xã hội của
Chính quyền Việt Nam Cộng hịa trên khơng gian “lãnh thổ” Việt Nam Cộng hịa lúc
bấy giờ.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian của đề tài: Ngày 23 tháng 10 năm 1955,
Ngơ Đình Diệm phế truất Bảo Đại và thiết lập chế độ Việt Nam Cộng hòa. Chính vì
vậy, mốc thời gian nghiên cứu của đề tài là từ khi chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa
thành lập 1955 và đến khi chế độ này bị đảo chính lật đổ vào năm 1963.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tổng thể là dựa vào phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Việt Nam về vấn đề chiến tranh và cách mạng, về vấn đề dân tộc và giai
cấp.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể là kết hợp hai phương pháp cơ bản của sử học


mácxit là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Hai phương pháp này không chỉ
giúp cho việc tái hiện lịch sử, phân tích và đánh giá những vấn đề lịch sử mà còn cho
phép xem xét lại mối quan hệ bản chất của các vấn đề lịch sử.
Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng những phương pháp cụ thể khác trong khoa học
xã hội nhân văn hiện nay, nhất là thống kê, so sánh, đối chiếu, để xác định các cứ liệu
lịch sử và các vấn đề kinh tế, quân sự, chính trị, xã hội, giáo dục, pháp lý và các

phương pháp liên ngành của chính trị học, xã hội học,.. để có thể đưa ra cái nhìn tồn
diện.
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quá trình thành lập, tồn tại và sụp đổ của Chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng
hòa là đề tài thu hút được nhiều sự quan tâm của các học giả trong suốt thời gian qua.
Ngay sau khi nhà họ Ngơ bị lật đổ Đồn Thêm có điều kiện được chứng kiến những
sự kiện lịch sử của chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa. Những sự kiện đó được ghi lại
thuần túy theo lối biên niên sử, cung cấp nhiều dữ liệu gốc khá hiếm hoi trong tác
phẩm Những ngày chưa quên (1954 - 1963) xuất bản năm 1969.
Nông Huyền Sơn, Cái chết của anh em nhà họ Ngô, Nxb CAND, 2009. Đặt
vấn đề từ cái chết của anh em Ngơ Đình Diệm, tác giả đi vào miêu tả những nhân vật
của gia đình họ Ngơ và đặt họ trong chính sách của Mỹ. Từ đó nêu lên bản chất tay sai
phục vụ cho chủ nghĩa thực dân mới Hoa Kỳ của chế độ Đệ nhất Cộng hòa.
Nguyễn Khắc Viện (2008), Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ (Diệu
Bình dịch), Nxb Trí Thức. Qua góc nhìn của một nhà báo, tác giả đã dành 452 trang
viết về miền Nam Việt Nam từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954 - 1963). Tác
phẩm đã miêu tả chân dung chế độ Đệ nhất Cộng hịa qua hoạt động kinh tế, văn hóa
và xã hội, hoạt động đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam, nhằm cung
cấp cho người đọc “ý niệm một lối thốt khả dĩ cho một tình hình nguy hiểm ở miền
Nam Việt Nam” như tác giả viết trong lời mở đầu tác phẩm. Nhiều vấn đề được tác giả
trình bày mang tính thời sự, với nguồn tư liệu chủ yếu từ các báo, tạp chí xuất bản ở
Pháp và một số nước.
Ngồi ra, cịn một số cơng trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của nhân dân miền Nam trong thời kỳ 1954 - 1975, có đề cập đến các vấn đề
liên quan trực tiếp đến chố độ Việt Nam Cộng hòa như: Cách mạng ruộng đất ở miền
Nam Việt Nam của Lâm Quang Huyên, Nxb Khoa học Xã hội, 1985; Cuộc xâm lăng
về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam, Nxb Văn hóa,
năm 1985 của Lữ Phương; Một cuộc chiến tranh sáu đời tổng thống của Trần Trọng
Trung, Nxb Văn nghệ TP HCM, 1986; Lịch sử Việt Nam 1954-1965 của Viện sử học,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1995; Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước:

thắng lợi và bài học của Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh, Nxb CTQG, 1995; Phong
trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 của Lê Cung, Nxb ĐHQG, Hà Nội,
1999; Phong trào đô thị Huế trong kháng chiến chống Hoa Kỳ (1954 - 1975) của Lê
Cung, Nxb Thuận Hóa, 2001; Kinh tế miền Nam Việt Nam thời kỳ 1955 - 1975 của
Đặng Phong, Nxb Khoa học Xã hội, 2004; Cuộc Đồng Khởi kỳ diệu ở miền Nam Việt
Nam của Lê Hồng Lĩnh, Nxb Đà Nẵng, 2005; Giải mã những bí ẩn của CIA, Nxb


Thơng Tấn, Hà Nội của tập thể nhiều tác giả.
Ngồi các tác phẩm kể trên, cịn có các phẩm được xuất bản dưới chế độ Việt
Nam Cộng hòa: hai bộ sách Thành tích (các năm) hoạt động của chánh phủ VNCH và
Kỷ niệm đệ (nhất, nhị, tam,..chu niên Ngô Tổng thống chấp chánh được xuất bản theo
từng năm từ 1954 đến 1967; Tổ chức hành chính và các cơ quan chánh quyền do
Tổng nha Ngân sách và Ngoại viện Phủ Tổng thống VNCH xuất bản năm 1962; Vấn
đề địa phương phân quyền trong tổ chức hành chánh các đô thị tại Việt Nam của
Quách Tòng Đức (1960) và một số sách về Đảng Cần lao Nhân vị: Nhân vị chủ nghĩa
của Phạm Xuân Cầu (1958); Xây dựng nhân vị của Bùi Tuân(1956);.. Lịch sử Việt
Nam hiện kim (1945 - 1956) của Phạm Xuân Hòa, xuất bản tại sài gòn năm 1957.
Một số tác phẩm hồi ký của các cựu nhân viên, tướng tá chế độ Sài Gòn viết
trước và sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng năm 1975 ít nhiều có giá trị:
Đỗ Thọ (1970), Nhật ký Đỗ Thọ, Nxb Đồng Nai Sài Gịn; Hồi ký Hồng Linh
Đỗ Mậu (2001), Tâm sự tướng lưu vong (Việt Nam máu lửa quên hương tôi), Nxb
CAND, Hà Nội. Tuy tác phẩm được viết xuất phát từ lập trường chống Cộng, nhưng
do đã từng làm Giám đốc An ninh Quân đội của chế độ Diệm nên Đỗ Mậu có đủ điều
kiện để hiểu rộng, biết sâu về chế độ này, có điều kiện suy ngẫm kỹ hơn, nhìn nhận
moi sự việc tương đối sát thực tiễn để lý giải nguyên nhân thất bại của chế độ Diệm.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu về đệ nhất Việt Nam Cơng hịa rất
phong phú và đa dạng, đề cập nhiều cấp độ khác nhau nhưng chưa có cơng trình nào
đề cập trực tiếp đến những trụ cột chính trị và xã hội của chính quyền đệ nhất Việt
Nam Cộng hịa. Các cơng trình của các học giả là nguồn tư liệu quý, trên cơ sở đó

nhóm tác giả kế thừa và thực hiện đề tài của mình.
6. Nguồn tài liệu
- Tài liệu đã xuất bản: bao gồm các cơng trình nghiên cứu đã được xuất bản
trong nước và địa phương.
- Tài liệu lưu trữ: hồ sơ lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia II.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài được chia thành
3 chương:
-

Chương 1: Khái quát về chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa

-

Chương 2: Những trụ cột về chính trị - xã hội của chính quyền Đệ nhất Việt
Nam Cộng hịa

-

Chương 3: Đánh giá về những trụ cột chính trị - xã hội của chính quyền Đệ
nhất Việt Nam Cộng hòa


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHẾ ĐỘ ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HỊA
1.1 Q trình xác lập của Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa
1.1.1 Hoa Kỳ thế chân Pháp ở miền Nam Việt Nam
Ngày 8-5-1954, một ngày sau khi quân Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ, Hội nghị
Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh Đơng Dương khai mạc. Phái đồn Hoa Kỳ có mặt

tại Giơnevơ, nhưng chỉ tập trung giải quyết vấn đề Triều Tiên. Đối với vấn đề Đông
Dương, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Dulles tuyên bố: “Tốt nhất là để người Pháp rút
ra, sau đó chúng ta sẽ lập một nền tảng mới”[3; 103].
Việc đầu tiên của Hoa Kỳ là trong tháng 6-1954, dùng viện trợ gây sức ép với
Pháp và Bảo Đại để đưa Ngơ Đình Diệm (đang sống lưu vong) về nước làm Thủ
tướng Quốc gia Việt Nam.
Ngơ Đình Diệm sinh năm 1901 ở Quảng Bình trong một gia đình nhiều đời theo
Cơng giáo. Cha là Ngơ Đình Khả và anh là Ngơ Đình Khơi đều làm quan cho triều
đình Huế dưới sự bảo hộ của thực dân Pháp. Bản thân Ngơ Đình Diệm cũng đã từng
làm quan, tích cực đàn áp các cuộc đấu tranh yêu nước và cách mạng. Do đó, năm
1933 khi 32 tuổi, Ngơ Đình Diệm được bổ nhiệm là Thượng thư Bộ lại và sùng Cơ
mật Viện đại thần. Nhưng khơng được bao lâu giữa Ngơ Đình Diệm và Phạm Quỳnh
có sự mâu thuẫn. Tồn quyền Pháp Pierre Pasquier ủng hộ Phạm Quỳnh nên Ngơ Đình
Diệm bất mãn, từ chức. Khi qn Nhật tràn vào Việt Nam (1940), Ngơ Đình Diệm ngả
sang theo Nhật, tôn Cường Để lúc này đang sống lưu vong ở Nhật Bản làm minh chủ.
Pháp định bắt Ngơ Đình Diệm nhưng Nhật ra tay che chở, đưa Ngơ Đình Diệm vào
Sài Gịn rồi sang lánh nạn ở Singapore và Bangkok.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, Hoa Kỳ tập trung phản kích vào chủ nghĩa Cộng
sản và Phong trào Giải phóng dân tộc trên thế giới. Hoa Kỳ giúp Pháp tái chiếm Đông
Dương, ủng hộ lá bài Bảo Đại nhưng vẫn tìm một con cờ dự bị cho tương lai. Qua
Hồng y Francis Joseph Spellman (một người bạn của Giám mục Ngơ Đình Thục, anh
trai Ngơ Đình Diệm), CIA đã chọn Ngơ Đình Diệm. Mượn cớ sang Roma dự Năm
Thánh, năm 1950 Ngơ Đình Diệm sang Mỹ. Trên đường đi, Ngơ Đình Diệm ghé lại
Tokyo để gặp tiến sĩ Wesley R.Fishel, một nhân viên cao cấp của cơ quan tình báo
Hoa Kỳ CIA nhưng núp dưới bề ngoài là một giảng viên trường Đại học Chicago và
sau đó chuyển sang trường Đại học Michigan. Tại Mỹ, Spellman đỡ đầu cho Ngơ
Đình Diệm về nơi ăn chốn ở, cịn Fishel đào tạo Ngơ Đình Diệm thành một chính
khách tương lai.
Tháng 6-1954, trước viễn cảnh Việt Nam sẽ tạm thời chia thành hai vùng tập kết
quân, Hoa Kỳ lợi dụng lúc Pháp đang rơi vào tình trạng khủng hoảng nội các (chính

phủ của thủ tướng Laniel bị đổ ngày 12-6, trong lúc Pierre Mèndes France mãi tới 196 mới lập xong chính phủ mới), gây sức ép với Pháp, buộc Bảo Đại phải bổ nhiệm
Ngơ Đình Diệm làm Thủ tướng thay Bửu Lộc. Ngày 16-6, Bảo Đại lấy tư cách là
Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam, ký sắc lệnh số 38-QT bổ nhiệm Ngơ Đình Diệm làm
Thủ tướng [14]. Ba ngày sau, Bảo Đại ký tiếp Dụ số 15 trao cho Ngơ Đình Diệm tồn


quyền cả về dân sự lẫn qn sự [14].
Ngơ Đình Diệm về Sài Gịn vào ngày 25-6 và lập chính phủ vào ngày 6-7. Đây
là một thắng lợi cơ bản của Hoa Kỳ trên con đường loại bỏ Pháp và tay chân của Pháp
ở miền Nam, nhưng chưa phải thắng lợi hồn tồn, vì hai lực lượng vũ trang ở miền
Nam Việt Nam là quân đội và cảnh sát- công an đang nằm trong tay các thế lực thân
Pháp.
Pháp tiến hành “Kế hoạch Navarre” để nhận thêm đô-la của Hoa Kỳ nhưng vẫn
phải ngồi vào Hội nghị Giơnevơ từ 8-5-1954 để bàn chuyện kết thúc chiến tranh. Bất
chấp thái độ tiêu cực của Hoa Kỳ, ngày 21-7-1954, trải qua 8 phiên họp tồn thể và 23
phiên họp kín, Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết.
Tuyên bố cuối cùng của Hội Giơnevơ năm 1954 về vấn đề lập lại hịa bình ở Đơng
Dương ngày 21-7-1954 ghi: “...mục đích căn bản của Hiệp định về Việt Nam là giải
quyết các vấn đề quân sự để đỉnh chỉ chiến sự và giới tuyến quân sự có tính chất tạm
thời, hồn tồn khơng thể coi là một ranh giới về chính trị hay về lãnh thổ.Trong quan
hệ với Cao Miên, Lào và Việt Nam, mỗi nước tham gia Hội nghị Giơnevơ cam kết tôn
trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của những nước nói trên và
tuyệt đối khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của những nước đó”[18; 172].
Hiệp định Giơnevơ cũng quy định một cuộc tổng tuyển cử sẽ được tiến hành hai
năm sau đó để thống nhất Việt Nam - cuộc tổng tuyển cử chắc chắn sẽ mang lại thắng
lợi cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.
Tuy nhiên, Hiệp định còn quy định hai bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lấy
vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời. Lực lượng cách mạng thực hiện chuyển
quân, tập kết ra miền Bắc, giao miền Nam Việt Nam cho chính quyền do Pháp dựng
lên. Cùng ngày, trưởng đoàn đại biểu các nước tham dự Hội nghị Giơnevơ thông qua

tuyên bố cuối cùng. Riêng W.B Smith, thi hành chỉ thị của chính phủ Mỹ, phát biểu:
“chính phủ (Mỹ) không sẵn sang tham gia vào bản Tuyên bố của hội nghị” và đưa ra
một bản tuyên bố đơn phương.
Mỹ cho rằng, với Hiệp định Giơnevơ, Pháp không những không thực hiện được
“chính sách ngăn chặn cộng sản” của Hoa Kỳ mà cịn giao miền Bắc cho chính phủ
Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa (1954) và sẽ giao nốt miền Nam hai năm sau đó (1956).
Vì vậy, Hoa Kỳ quyết định loại bỏ Pháp khỏi miền Nam đồng thời can thiệp trực tiếp
hơn để ngăn chặn việc thi hành Hiệp định Giơnevơ (đặc biệt là không để cho tổng
tuyển cử diễn ra), thiết lập ở miền Nam Việt Nam một chế độ thân Mỹ. Để hợp pháp
hóa cho sự hiện diện của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm u cầu
Hoa Kỳ giúp đỡ trực tiếp khơng thông qua Pháp. Bằng thủ đoạn này, Hoa Kỳ đã
“nhảy” vào miền Nam Việt Nam mà vẫn đảm bảo được các yếu tố “hợp pháp”, với
danh nghĩa vào giúp đỡ đồng minh, hòng che đậy âm mưu xâm lược miền Nam Việt
Nam. Trong thời gian hai năm chờ đợi tổng tuyển cử, Hoa Kỳ gấp rút đầu tư cho Ngơ
Đình Diệm xây dựng một chính quyền khả dĩ thành cơng cụ hữu hiệu thực hiện mục
tiêu của Mỹ. Việc đầu tiên Hoa Kỳ giúp Ngơ Đình Diệm tiến hành loại dần các phần
tử và các thế lực thân Pháp ở miền Nam Việt Nam như Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham
mưu quân đội Quốc gia Việt Nam, cắt chức Tổng giám đốc Công an - Cảnh sát của


Lại Văn Sang, đánh bật Bình Xuyên ra khỏi Sài Gòn - Chợ Lớn và giải quyết sự đối
đầu với hai giáo phái vũ trang thân Pháp là Cao Đài Tây Ninh và Hịa Hảo liên kết với
nhóm Bình Xun, Đảng Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đảng tự do dân chủ
dưới tên gọi là Mặt trận thống nhất tồn lực quốc gia.
1.1.2
Ngơ Đình Diệm phế truất Bảo Đại
Sau khi thanh toán thế lực thân Pháp chống đối ở miền Nam Việt Nam, vật cản
cuối cùng đại diện cho thế lực của Pháp ở miền Nam Việt Nam là Quốc trưởng Bảo
Đại được Hoa Kỳ đặt ra trong kế hoạch Ngơ Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam. Năm
1955, giải quyết xong những “rào cản” là các phe phái đối lập. Ngơ Đình Diệm bắt tay

vào việc phế truất Bảo Đại - sách lược đã được Hoa Kỳ tính toán từ 1954 bằng việc tổ
chức một cuộc “trưng cầu dân ý” gian lận.
Ngày 15-2-1955, Ngơ Đình Diệm ban hành Dụ số 11 “Thiết lập Quốc hội lâm
thời cho nước Việt Nam”, chính thức xác lập ở miền Nam Việt Nam “một quốc gia
riêng biệt” - hành động vi phạm trắng trợn và ngang nhiên Hiệp định Giơnevơ. Ngay
sau khi thành lập, Quốc hội lâm thời thống nhất phế truất Bảo Đại và suy tơn “Ngơ
Chí sĩ”. Ngày 29-4-1955, từ Pháp, Bảo Đại gửi điện văn triệu tập Ngơ Đình Diệm
sang Pháp nhằm truất ngơi của Ngơ Đình Diệm. Đáp lại, Ngơ Đình Diệm triệu tập Hội
đồng nội các để lấy ý kiến bác bỏ điện văn triệu tập của Bảo Đại. Tiếp đó, triệu tập
phiên họp bất thường, dùng danh nghĩa “Đại hội các lực lượng quốc gia” lập kiến nghị
phế truất Bảo Đại. Cho lập ra “Hội đồng Nhân dân Cách mạng” để đề xướng “Phong
trào” nhân dân phế truất Bảo Đại.
Dưới sự chỉ đạo của Ngơ Đình Nhu, Trần Chánh Thành - Chủ tịch Phong trào
Cách mạng Quốc gia yêu cầu toàn bộ các cơ quan, đoàn thể từ trung ương đến địa
phương ký đơn theo mẫu sẵn bơi nhọ Bảo Đại và suy tơn Ngơ Đình Diệm.
Ngày 10-5-1955, Ngơ Đình Diệm tun bố giải tán chính phủ do Bảo Đại lập
ra trước đây và dựng lên chính phủ mới. Ngày 8-8-1955, các đại diện “dân cử” họp
“đồng thanh” quyết định phế truất Bảo Đại. Ngày 23-10-1955, cuộc “trưng cầu dân ý”
được tổ chức rầm rộ, dưới sự kiểm sốt tối đa bộ máy cảnh sát, cơng an, mật vụ và
thông tin. Nhân dân miền Nam bị ép buộc đi bỏ phiếu dưới sự áp đặt của chính quyền.
Kết quả của cuộc “trưng cầu dân ý”, Ngơ Đình Diệm giành 5.721.735 phiếu (đạt
98.2% số phiếu), Bảo Đại 63.018 (đạt1.1%) trong tổng số 5.828.907 người đi bầu
[33].
Bằng cuộc trưng cầu dân ý gian lận, Hoa Kỳ - Ngô Đình Diệm đã gạt được Bảo
Đại phần tử thân cận nhất của Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Như vậy, với lá bài Ngơ Đình Diệm, Hoa Kỳ từng bước loại Pháp và các phần
tử thân Pháp ở miền Nam Việt Nam. Hoa Kỳ đưa Ngơ Đình Diệm về miền Nam làm
Thủ tướng thay cho Bửu Lộc để nắm chính quyền, cách chức Nguyễn Văn Hinh để
nắm quân đội, loại bỏ Lại Văn Sang để nắm công an, cảnh sát, đánh dẹp lực lượng vũ
trang các giáo phái Cao Đài Tây Ninh và Hòa Hảo, cuối cùng đến phế truất Bảo Đại,

Ngơ Đình Diệm lên làm tổng thống. Như vậy, Hoa Kỳ thơng qua chiêu bài Ngơ Đình
Diệm thay chân Pháp xâm lược Việt Nam, nhằm thực hiện những ý đồ thâm độc, tiêu
diệt bằng được phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam, biến miền Nam Việt


Nam thành thuộc địa kiểu mới, làm căn cứ quân sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn
chặn chủ nghĩa xã hội tràn xuống Đông Nam Á. Đồng thời lấy miền Nam Việt Nam
làm căn cứ để tiến công miền Bắc, hịng đè bẹp phong trào giải phóng dân tộc ở Đông
Nam Á, bao vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác.
1.2 Khủng hoảng chính trị và sự sụp đổ của chính quyền Đệ Nhất Việt Nam
Cộng hịa 1955-1963
1.2.1
Nhân dân miền Nam đấu tranh chống Mỹ - Diệm
Trước hành động phá hoại Hiệp định Giơnevơ của Mỹ - Diệm, nhân dân miền
Nam quyết giữ vững thành quả cách mạng, khắp nơi đã đứng lên đấu tranh bảo vệ hịa
bình, địi chính quyền Ngơ Đình Diệm nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Giơnevơ,
thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Ngay tại Sài Gòn - Chợ Lớn, 10 ngày
sau Hiệp định Giơnevơ được ký kết, 50000 người xuống đường mittin, mở đầu cho
phong trào đấu tranh chính trị khắp đô thị miền Nam. Tiếp đến 25000 người dân Đà
Nẵng và 15000 người dân ở Huế biểu tình địi Ngơ Đình Diệm địi thi hành hiệp định
Giơnevơ, chống bắt lính, địi thả tù chính trị. Hưởng ứng phong trào đấu tranh của
nhân dân các đô thị, ở nông thôn khắp các làng mạc, khẩu hiệu biểu tình mừng hịa
bình, đòi thực thi các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ. Trong các đồn điền, cơng
nhân tổ chức bãi cơng, đình cơng phản đối chính quyền Ngơ Đình Diệm phá hoại Hiệp
định Giơnevơ.
Từ tháng 7-1955, phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam phát
triển rầm rộ. Phong trào càng trở nên mạnh mẽ khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa liên tục gửi cơng hàm u cầu nhà đương cục miền Nam thực hiện nghiêm túc
Hiệp định Giơnevơ và tuyên bố sẵn sang hiệp thương đi đến thống nhất đất nước.
Ở miền Trung, nhân dân các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú

n, Khánh Hịa... .tổ chức các cuộc biểu tình, đưa các kiến nghị lên Ủy ban quốc tế
kiểm sốt đình chiến, u cầu chính quyền Ngơ Đình Diệm thi hành Hiệp định
Giơnevơ.
Chính quyền Ngơ Đình Diệm vẫn ngoan cố khơng chịu thực hiện, ngay giữa
năm 1955, khi cơ bản loại lực lượng thân Pháp, được sự hậu thuẫn của Mỹ, chính
quyền Ngơ Đình Diệm tập trung đàn áp lực lượng cách mạng và quần chúng yêu
nước, thực hiện “Tố Cộng”, và coi đây là “Quốc sách”, giết hại, bắt bớ, cầm tù hàng
vạn người, song không ngăn được phong trào đấu tranh khắp nơi. Chiến dịch tố cộng
đã vấp phải sự chống đối mạnh mẽ trong các tầng lớp nhân dân, ngay cả trong giới
công chức cũng chống đối quyết liệt, tại các cuộc họp tay chân của chính quyền bị
chất vấn gay gắt. Tình hình đó làm cho chính quyền Ngơ Đình Diệm hết sức lúng túng
và thốt lên rằng “Giới công chức ăn cơm quốc gia nhưng thờ ma Cộng sản”.
Ngay cả lực lượng Cao Đài mặc dù Phạm Công Tắc đã phải chạy trốn sang
Campuchia, nhiều chức sắc Cao Đài và Hịa Hảo bị bắt nhưng chính quyền Ngơ Đình
Diệm cũng không dập tắt được sự chống đối của giáo phái này.
Trong giới Cơng giáo, sự chống đối chính quyền cũng đã trở nên gay gắt, đến
mức cha sứ Sài Gòn là linh mục Hồ Văn Vui, ngày 10-2-1957 đã nói: “Người Công
giáo Việt Nam đang bị đàn áp như ở những thời kỳ đầu của kỷ nguyên Thiên Chúa


giáo, dù họ có tội hay khơng có tội. Các trường Tư thục Công giáo đều bị áp đặt và
kiểm soát. Cầu xin Đức Chúa trời hãy nhổ sạch những giống cỏ dại đang tràn ngập
chúng ra này”[32; 202]. Nghiêm trọng hơn vì bất bình với chính quyền, nhiều cuộc
biểu tình của người di cư, những nơng dân nghèo trong các Dinh điền, Khu trù mật nổ
ra với quy mô ngày càng lớn. Họ tố cáo chính quyền bỏ mặc trong cảnh khốn cùng,
những lời hứa hẹn về một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc mà chính quyền đem đến cho
họ chỉ là lời “hứa hão”.
Chính quyền Ngơ Đình Diệm cũng vấp phải sự chống đối của Hoa kiều, nhằm
mục đích chính trị và kinh tế, chính quyền Ngơ Đình Diệm ban hành Sắc lệnh bắt Hoa
kiều phải từ bỏ quốc tịch của mình để nhập quốc tịch Việt Nam Cộng hịa và Sắc lệnh

cấm người nước ngồi (trực tiếp là Hoa kiều) không được làm nhiều nghề liên quan
đến kinh tế. Trước quyết định bất cơng đó, Hoa kiều lên tiếng phản đối, không thể đấu
tranh trực tiếp, họ nhờ chính quyền Đài Loan can thiệp, cảnh báo chính quyền Sài Gịn
về: “Những hậu quả khơng đáng mong muốn có thể xảy ra từ sự thi hành sắc lệnh này
mà chính phủ Việt Nam Cộng hịa sẽ phải chịu trách nhiệm” [32;205]. Đồng thời họ
rút tài khoản ở các ngân hàng, tẩy chay hàng hóa của Việt Nam Cộng hòa ở Hương
Cảng, Singapore...
Từ cuối năm 1956, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam có
bước phát triển mới. Không chỉ dừng lại ở những cuộc đấu tranh chính trị đơn thuần,
mà cịn xuất hiện hình thức đấu tranh vũ trang tuyên truyền, vũ trang tự vệ với sự ra
đời của các đơn vị vũ trang quy mô từ tiểu đội đến đại đội.
Các phong trào đấu tranh chống đàn áp, khủng bố, đòi tự do dân chủ, địi hịa
bình thống nhất đất nước nổ ra quyết liệt và rộng khắp từ nông thôn đến thành thị với
sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân như cơng nhân, nơng dân, tiểu tư sản,
trí thức và các thành phần tôn giáo,..
Từ cuối năm 1957, sự câm phẫn của nhân dân miền Nam không dừng lại ở
những cuộc đấu tranh chính trị đơn thuần. Các báo cáo, phúc trình của chính quyền
Việt Nam Cộng hịa ghi nhận trong năm 1957 có sự hình thành của các vùng căn cứ,
các làng chiến đấu và các đơn vị vũ trang tập trung. “Đầu năm 1957, trên toàn miền
Nam, lực lượng cách mạng đã xây dựng được trên 30 đại đội vũ trang”[40; 200]. Các
căn cứ địa, chiến khu D, U Minh, Đồng Tháp Mười, Tây Nguyên và Khu V được xây
dựng trở lại. Từ đây các hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác, trừ gian của lực
lượng cách mạng diễn ra sôi nổi trên khắp miền Nam. Sự gia tăng các hoạt động vũ
trang của lực lượng cách mạng trong thời gian 1956-1958 thời kỳ được coi là ổn định
nhất của chế độ Ngơ Đình Diệm, giáng một địn mạnh mẽ vào chính quyền tay sai
thực dân mới Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam.
Đặc biệt, từ năm 1959, phong trào cách mạng xuất hiện hình thức nổi dậy cơng
khai chống chính quyền Ngơ Đình Diệm của nhân dân một số tỉnh miền Trung. Ngày
6-2-1959, dân chúng 11 làng đồng bào Bana ở huyện Vĩnh hạnh (Bình Định) nổi dậy,
dời làng vào rừng lập làng chiến đấu, cơng khai chống lại chính quyền Ngơ Đình

Diệm. Ngày 7-2-1959, nhân dân huyện Bắc Ái (Ninh Thuận), nổi dậy phá khu trù mật,
trở về làng cũ, tổ chức vũ trang, xây dựng làng chiến đấu chống lại các cuộc càn quét


của Ngụy quân.
Đối phó với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh của nhân dân miền
Nam, ngày 5-6-1959, Ngơ Đình Diệm ban hành Luật 10/59, thực hiện khẩu hiệu “thà
giết nhầm cịn hơn bỏ sót” - áp dụng chính sách phát xít nhất để tiêu diệt cách mạng
miền Nam Việt Nam.
Về phía cách mạng, trên cơ sở thực tiễn đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt
Nam, ngày 3-1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp Hội
nghị lần thứ 15 dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh đề ra nghị quyết về cách mạng miền
Nam, nêu rõ nhiệm vụ của cách mạng miền Nam: “Giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng,
hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ và nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước
Việt Nam hịa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” [7;81]. Xác định: “Con
đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành
chính quyền về tay nhân dân. Dựa vào lực lượng chính trị quần chúng là chủ yếu, kết
hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ chính quyền đế quốc và phong kiến dựng lên
chính quyền cách mạng của nhân dân”[9;82].
Nghị quyết 15 ra đời đáp ứng nhu cầu bức thiết của cách mạng và nguyện vọng
của cán bộ và đồng bào miền Nam. Với đường lối và mục tiêu đúng đắn đã tạo bước
chuyển mạnh mẽ đối với phong trào cách mạng miền Nam, từ thế giữ gìn lực lượng,
phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam phát triển thành thế tiến công, tiến lên
“khởi nghĩa” từng phần giành chính quyền.
Mở đầu là các cuộc tiến cơng tiêu diệt các cơ sở của chính quyền Sài Gòn ở
nhiều nơi như Trà Bồng (Quảng Ngãi) ngày 28-8-1959, cùng với Trà Bông các huyện
Ba Tơ, Sơn Hà cũng đứng lên khởi nghĩa. Trong khi chính quyền Ngơ Đình Diệm
đang phải đối phó với tình hình miền Trung thì tháng 1-1960 đồng khởi nổ ra ở Bến
Tre nhanh chóng lan ra cả Đơng Nam bộ tạo thành một phong trào rộng khắp ở miền

Nam. Qua phong trào Đồng Khởi lực lượng cách mạng ngày càng lớn mạnh cả về thế
và lực. Ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời
lãnh dạo nhân dân miền Nam chống Mỹ - Diệm. Sau sự ra đời của Mặt trận, ngày 152-1961 Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được tái thành lập.
Đối với Hoa kỳ sau 5 năm, vào chính thời điểm chính quyền Việt Nam Cộng
hịa có sự ổn định nhất, cuộc Đồng Khởi của nhân dân miền Nam đã làm đảo lộn toàn
bộ thế chiến lược. Chính sách thực dân mới của Mỹ có nguy cơ thất bại. Trong khi đó,
thực hiện chủ trương của Trung ương Cục miền Nam, quân dân miền Nam tiến công
trên cả ba mũi giáp công trên cả ba mặt trận.
Lúng túng trước diễn biến của miền Nam Việt Nam, tháng 2-1962, Tổng thống
Kennedy cử em trai đang làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hoa kỳ sang Sài Gịn thị sát tình
hình. Sau chuyến đi của Robert Kennedy chính quyền Hoa Kỳ quyết tâm “tăng tốc”
cho kế hoạch Stayley - Taylor bằng việc tăng nhịp độ hoạt động quân sự để năm 1962
xứng đáng là năm bản lề của kế hoạch Stayley - Taylor, năm đại phản công giành lại
quyền chủ động chiến lược trên chiến trường, năm hồn thành kế hoạch bình định.
Trong nửa đầu 1962, sự gia tăng về hoạt động của Hoa Kỳ - Ngô Đình Diệm đã gây


những khó khăn nhất định cho cách mạng.
Trên cơ sở thực tiễn cách mạng, ngày 27-2-1962, Bộ Chính trị Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam ra nghị quyết về nhiệm vụ của cách mạng miền Nam ,
khẳng định: “Sự can thiệp ngày càng sâu của Hoa Kỳ vào miền Nam Việt Nam sẽ gây
nhiều khó khăn cho cách mạng miền Nam, sẽ làm cho cuộc đấu tranh ngày càng ác
liệt, nhưng thực tế, với đà can thiệp hiện nay của Mỹ, căn bản tương quan lực lượng
giữa ta và địch và đối tượng của cách mạng vẫn chưa có gì thay đổi”[37; 304]. Từ đó
đi đến kết luận về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam Việt Nam là: “Kiên
quyết đẩy mạnh đấu tranh chính trị, quân sự, giành và giữ vững thế chủ động, đẩy địch
vào thế bị động hơn nữa, tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt, ra sức ngăn chặn kế
hoạch Stayley - Taylor”[40; 307]. Tháng 4-1962, Nghị quyết của Đảng Lao động Việt
Nam được Trung ương Cục cụ thể hóa với ba nhiệm vụ: “tích cực phá ấp chiến lược,
ra sức xây dựng và mở rộng căn cứ địa, khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang gồm

ba thứ quân; đẩy mạnh tác chiến tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch”[40; 308]. Cách mạng
miền Nam với hình thức tiến cơng sáng tạo: “hai chân, ba mũi, ba vùng”; kết đấu
tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh
vận trên cả ba vùng chiến lược “rừng núi, đồng bằng, thành thị”. Nhưng trong thời
gian đầu cách mạng miền Nam gặp khơng ít khó khăn trang bị, quân số.. .Hơn 36 200
chiến sĩ cách mạng bị bắt, bị thương hoặc hy sinh. Cơ sở cách mạng trong các ấp
chiến lược bị bóc gỡ, vùng giải phóng bị thu hẹp. Song từ nửa cuối năm 1962, với
phương châm nâng cao khả năng du kích, đánh trả chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết
xạ vận” của loa Kỳ - Ngơ Đình Diệm, Trung ương Cục miền Nam phân công cán bộ
về tận cơ sở hướng dẫn kinh nghiệm chống càn, phá ấp chiến lược. Đặc biệt, những
kinh nghiệm đúc kết trong lội nghị dân qn, du kích tồn miền tháng 11-1962 do
Trung ương Cục miền Nam tổ chức được phổ biến với các cấp cơ sở. lội nghị này có ý
nghĩa quan trọng, làm chuyển biến phong trào chiến tranh du kích, chống càn, phá ấp
chiến lược của nhân dân miền Nam. “Kết quả tính chung trong năm 1962, trên toàn
miền Nam, lực lượng cách mạng đã phá 2665 ấp chiến lược, giải phóng hồn tồn
4441 thơn với 6,5 triệu dân trên tổng số 17 162 thôn” [40;312].
Đối với Mỹ, kế hoạch Stayley - Taylor trong năm 1962 diễn ra khơng như dự
tính, khiến chính giới loa Kỳ không khỏi lo âu. Dù đưa vào miền Nam Việt Nam lực
lượng đông gấp 10 lần năm trước, thực hiện được 90% kế hoạch quân đội Việt Nam
Cộng hòa, về quân số tăng lên gấp 20 lần quân giải phóng. Với ưu thế tuyệt đối về
trang bị kĩ thuật, thực hiện được 600 trận oanh kích, pháo kích, lập được 3700 ấp
chiến lược nhưng vẫn không thay đổi được cục diện. Trong khi quân giải phóng ngày
càng trưởng thành về mọi mặt.
1.2.2
Chính quyền Việt Nam Cộng hịa đối phó với mâu thuẫn nội bộ
Chính quyền Việt Nam Cộng hịa ở miền Nam Việt Nam do Ngơ Đình Diệm
cầm đầu được sự giúp đỡ của Mỹ, cơ bản được xây dựng hồn bị. Cộng thêm các
thành tích do chương trình Cải cách Điền địa và các cuộc càn quét, triệt phá các cơ sở
cách mạng, tiêu diệt lực lượng yêu nước.. .khiến Hoa Kỳ và Ngơ Đình Diệm tin rằng,
năm 1957 là thời cơ vàng son của nền Đệ nhất Cộng hịa. Chính trường miền Nam



Việt Nam hồn tồn nằm trong tầm kiểm sốt của anh em Ngơ Đình Diệm. Tính chất
dân chủ giả hiệu của chế độ Việt Nam Cộng hòa được củng cố với sự xuất hiện một số
phe đối lập của Phan Quang Đán, Trần Văn Hữu.
Về quân sự, tiền viện trợ và sự huấn luyện của cố vấn Hoa Kỳ đã biến qn đội
Việt Nam Cộng hịa từ qn đội “ơ hợp” thời Pháp thành quân đội chính quy được
trang bị hiện đại và được bảo trợ bởi cái ô SEATO. Trong khi đó Tổng thống Hoa Kỳ
Eisenhower tiếp tục cổ vũ cho Ngơ Đình Diệm khi tun bố: miền Nam Việt Nam là
dinh lũy của thế giới tự do, là tiền đồn quan trọng của Hoa Kỳ ở Viễn Đông.
Nhưng sự thật đằng sau những lời tuyên bố lạc quan của chính giới Mỹ, những
mâu thuẫn trong lịng chế độ Ngơ Đình Diệm nhanh chóng phơi bày. Từ nửa cuối năm
1957, tình hình miền Nam Việt Nam bắt đầu chuyển động và càng trở nên ảm đạm đối
với Ngơ Đình Diệm. Sau những năm thực hiện chính sách mị dân, kết hợp sử dụng
công cụ bạo lực để tiêu diệt cách mạng, kìm kẹp quần chúng, thanh trừng đối lập. Cái
chính mà chế độ Ngơ Đình Diệm có được là sự căm phẫn, sự đấu tranh phản kháng
của quần chúng yêu nước và cách mạng miền Nam đã làm cho nội bộ Việt Nam Cộng
hòa lục đục. Đến năm 1959, tình hình tài chính mỗi năm càng thâm hụt, tình trạng an
ninh trở nên phức tạp, có phần nguy hiểm. Phong trào cách mạng miền Nam thực sự
chuyển mình, đấu tranh chính trị kết hợp vói đấu tranh vũ trang tuyên truyền phát triển
thành khởi nghĩa giành chính quyền, đẩy chế độ Ngơ Đình Diệm tới bờ vực suy thối.
Sự phục hồi và phát triển của lực lượng cách mạng làm cho mâu thuẫn nội bộ
chế độ Ngơ Đình Diệm tăng cao. Nhằm củng cố quyền lực, Ngơ Đình Diệm ra tay
thanh trừng nội bộ, ngày càng nhiều phần từ vốn trung thành với Ngơ Đình Diệm
trước đây bị tước đoạt quyền lợi quay lưng với chế độ và ra mặt chống đối, lên tiếng
tố cáo chính sách độc tài, gia đình trị của anh em Ngơ Đình Diệm. Phong đấu tranh
của nhân Việt Nam chống Mỹ - Diệm đã làm bùng nổ mâu thuẫn giữa các phe phái
trong chế độ Việt Nam Cộng hòa. Người Hoa Kỳ bắt đầu nghĩ tới việc thay thế những
người trong gia đình Ngơ Đình Diệm. Ngược lại, để củng cố vị trí và quyền lực, ngăn
ngừa đảo chính, Ngơ Đình Diệm thanh trừng bộ máy chính quyền và quân đội. Tháng

10-1958, chỉ huy trung tâm huấn luyện Quang Trung bị cắt chức, tiếp đó Nguyễn Hữu
Châu - Bộ trưởng, Thiếu tướng Dương Văn Đức phải chạy trốn sang Pháp; Đại tá
Woòng A Sáng bị cắt chức, tịch thu tài sản; tướng Lê Văn Tỵ phải “ngồi chơi xơi
nước”, nhiều tỉnh trưởng bị thải hồi tiêu biểu là Nguyễn Trân - một phần tử chống
Cộng khét tiếng cũng bị gạt bỏ. Chính điều này đã dẫn đến việc ngày 25-4-1960, 18
người vốn là quan chức, dân biểu của chế độ, bị Ngơ Đình Diệm cho “về vườn” thành
lập nhóm “tự do tiến bộ” chống đối Diệm.
Đến cuối năm 1960, Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng hịa khơng những
khơng đè bẹp được phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam, khơng
tiêu diệt được Cộng sản - mục đích chính yếu xuyên suốt của Hoa Kỳ và Việt Nam
Cộng hòa cùng theo đuổi, mà còn phải gắng chịu những tổn thất nặng nề. Buộc Hoa
Kỳ phải “siết chặt dây cương” đối với Diệm, ép Diệm phải chia sẻ quyền lực cho
những phần tử chống Cộng khác do Hoa Kỳ nuôi dưỡng ở miền Nam Việt Nam. Đến
đây, người Hoa Kỳ bộc lộ bản chất của một ông chủ sử dụng đô-la gây sức ép buộc


Diệm thực hiện “mở rộng dân chủ” để đưa các thành phần đối lập vào tham gia bộ
máy cai trị như Phan Quang Đán, Nguyễn Tơn Hồn...; thực hiện một số cuộc cải cách
“dân chủ” ở cấp cơ sở như đưa ra kế hoạch thực hiện bầu cử Hồi đồng hàng Tỉnh, Hội
đồng xã. Thực chất của cuộc “Cải cách chính trị, xã hội” mà Hoa Kỳ yêu cầu Diệm
tiến hành ở miền Nam Việt Nam không phải là cuộc cải cách mang lại quyền lợi cho
dân chúng, mà là cuộc cải tổ nhằm tạo ra sự ổn định cho chính quyền Việt Nam Cộng
hịa, để tập trung tồn bộ lực lượng chống phá cách mạng miền Nam. Trong thực tế,
Diệm chỉ thực hiện cải tổ một cách nhỏ giọt, đồng thời lợi dụng cải tổ gạt bỏ hàng loạt
các nghị sĩ khơng cịn mấy tác dụng cho Diệm. Để xoa dịu phản ứng của dư luận, ngày
19-10-1960, Diệm tiến hành cải tổ nội các, phế bỏ một số bộ trưởng như Trần Trung
Dũng - Bộ Quốc phòng, Lâm Lê Trinh - Bộ Nội vụ, Trần Chánh Thành - Bộ Thông
tin, Nguyễn Văn Sĩ - Bộ Tư pháp, đều là những “cơng thần” của chế độ Diệm do
khơng làm trịn phận sự như Diệm mong muốn. Nhưng, những chức vụ ấy lại được
trao cho những tay chân khác như ghế Bộ trưởng Quốc phòng của Trần Trung Dũng

được trao cho Nguyễn Đình Thuần. Kể từ ngày thành lập chính phủ đầu tiên cho tới
thời điểm này, Diệm đã 12 lần cải tổ nội các với 39 Bộ trưởng đã phải từ chức. Hành
động của Diệm làm gay gắt thêm mâu thuẫn trên sân khấu chính trị Việt Nam Cộng
hịa.
1.2.3
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1963
Những thất bại của chính quyền Việt Nam Cộng hịa năm 1963
Trên lĩnh vực quân sự: Khi Kennedy lên cầm quyền ở Mỹ, ông ta tin rằng bằng
chiến lược “chiến tranh đặc biệt” với kế hoạch nổi dậy, miền Nam Việt Nam sẽ trở lại
thời kỳ ổn định, sự căng thẳng trong quan hệ Hoa Kỳ - Diệm tạm lắng xuống. Nhưng
đến năm 1962, mọi cố gắng của Hoa Kỳ - Diệm vẫn không ngăn được sự phát triển
ngày càng lớn mạnh của lực lượng cách mạng, không hãm được đà xuống dốc của
Việt Nam Cộng hòa. Trong khi người Hoa Kỳ đang loay hoay tìm lối thốt, ngày 2-11963, sảy ra sự kiện Ấp Bắc làm chính giới Hoa Kỳ bàng hồng, lần đầu tiên Quân
giải phóng miền Nam Việt Nam đánh bại chiến lược “trực thăng vận”, “thiết xạ vận”
của Mỹ - Diệm, mở ra khả năng đánh bại hoàn toàn chiến thuật chiến tranh được coi là
hiện đại của Hoa Kỳ thời điểm này. Sau chiến thắng Ấp Bắc, hàng loạt các chiến dịch
hành quân càn quét quy mô lớn, nhỏ của quân đội Sài Gòn lần lượt bị thất bại, với số
thương vong cao. Đó là chiến dịch “Sóng tình thương” tấn cơng chiếm lại Cà Mau,
chiến dịch “Đức Thắng” càn quét vào vùng Đồng Tháp Mười, Quớn Long - Chợ Gạo,
Đầm Dơi - Cái Nước... Tính chung trong năm 1963, lực lượng quân sự của chính
quyền Việt Nam Cộng hịa đã bị lực lượng vũ trang giải phóng loại khỏi vịng chiến
7,8 vạn qn (trong đó có 600 lính Mỹ).
Những thất bại trên chiến trường của quân đội Việt Nam Cộng hòa cho thấy
khả năng tác chiến của qn đội Sài Gịn cịn rất hạn chế dù có cố vấn và trang bị hiện
đại của Mỹ. Thực tế trong năm 1963, để tăng cường khả năng quân sự và lấy lại tinh
thần quân đội tiếp tục kế hoạch Staley - Taylor, lực lượng “quân đội Việt Nam Cộng
hòa đã được gia tăng từ 210 000 lên 220 020 người . thành lập những đơn vị mới trong
phạm vi quân số được gia tăng” [2]. Với lực lượng hùng hậu được tăng cường, phối



hợp với Hải - Lục - Không quân, song “quân đội Sài Gòn đã phải gánh chịu những tổn
thất nặng nề: nhân mạng 5611 tử thương; 11820 bị thương; mất tích 3762”[2].
Cùng với các thất bại về quân sự, quốc sách ấp chiến lược của Mỹ - Diệm cũng
gặp thất bại nặng nề. Trong năm 1963, quân dân miền Nam đã phá 2895 ấp chiến lược
trong tổng số 6164 ấp, giải phóng 12 000 thơn với gần 9 triệu dân [39;331] khỏi ách
kìm kẹp của Mỹ - Diệm, tạo những vùng giải phóng khắp miền Nam.
Trên lĩnh vực chính trị: trong khi liên tiếp thất bại trên chiến trường, tháng 51963 tình hình các đơ thị miền Nam trở nên rất nóng bỏng. Chế độ Ngơ Đình Diệm
đối đầu với phong trào đấu tranh của Phật giáo - sự kiện mở đầu cho phong trào đấu
tranh của quần chúng nhân dân ở hầu hết các đô thị miền Nam.
Ngày 6-5-1963, Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hịa gửi cơng điện số 9195 đi
các nơi, ra chỉ thị cấm treo cờ Phật giáo ngồi khn viên chùa. Trong khi đó 45-1963,
cuộc rước kiệu Đức Mẹ được tổ chức rầm rộ với cờ của các Hội thánh phấp phới trên
đường phố Sài Gịn. Cấm treo cờ Phật giáo, chính quyết định này đã làm cho Phật tử
miền Trung phản ứng quyết liệt.Ngày 8-5-1963, quân đội Việt Nam Cộng hòa đàn áp
Phật tử Huế đang tập hợp trước đài phát thanh Huế làm 8 Phật tử bị thiệt mạng và
nhiều người khác bị thương. Hành động tội ác của chính quyền Diệm, đã làm bùng nổ
phong trào đấu tranh mạnh mẽ không chỉ của Phật tử mả cả những người dân yêu
nước trên khắp miền Nam. Liên tiếp các ngày sau đó, hơn hai vạn đồng bào và Tăng
ni Phật tử, phản đối khủng bố, đòi bồi thường người bị sát hại. Cuộc đấu tranh của
đồng bào, Phật tử lan ra khắp miền Nam đặc biệt sơi nổi ở Sài Gịn. Chính quyền
Diệm tiếp tục thực hiện chính sách bao vây, đàn áp dã man Phật tử. Ngày 11-6-1963,
Hịa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu phản đối chế độ độc tài, phát xít Ngơ Đình
Diệm gây chấn động dư luận trong nước và quốc tế.
Dư luận thế giới, đặc biệt là dư luận Hoa Kỳ có những phản ứng gay gắt. Họ đả
kích Diệm và chỉ trích chính sách Hoa Kỳ ủng hộ Diệm.
Cuộc “khủng hoảng Phật giáo” giáng thêm một đòn mạnh vào chính sách thực
dân mới của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam đứng trước nguy cơ thất bại, Kennedy đã
phải nghĩ tới việc thay thế Diệm.
Tháng 1-8-1963, Kennedy bổ nhiệm Henry Cabot Lodge làm đại sứ Hoa Kỳ tại
Việt Nam Cộng hịa, ngày 22-8-1963 ơng ta có mặt ở Sài Gịn. Tiếp ngay sau đó CIA

Hoa Kỳ được tung vào kích động các phe phái, các nhóm đối lập đả kích anh em Ngơ
Đình Diệm. Các dân biểu, chính trị gia, tướng lĩnh quân đội Sài Gòn đưa kiến nghị,
kêu gọi thống thiết trước dư luận thúc bách Diệm phải cải tổ chính quyền.
Trong tình thế “quẫn bách” anh em Ngơ Đình Diệm quyết định xiết chặt “bàn
tay sắt” hòng lập lại trật tự ở miền Nam Việt Nam. Đêm 20 rạng ngày 21-81963, lực
lượng đặc biệt của Ngô Đình Nhu thực hiện cuộc đàn áp đẫm máu Phật tử trên toàn
miền Nam. Hành động của Nhu đã gặp phải sự chống đối quyết liệt của quần chúng
miền Nam. Ngày 24-8-1963, học sinh sinh viên phối hợp với công nhân và lao động
Sài Gịn tổ chức đình cơng, bãi khóa. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình đã nổ ra ở Sài
Gòn. Cảnh sát Sài Gòn được huy động đàn áp, hàng trăm người bị bắt. Ngày 25-81963, các cuộc biểu tình lớn của học sinh - sinh viên Sài Gịn diễn ra rồi nhanh chóng


lan ra các thành phố Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Vĩnh Long.phản đối chính sách đàn áp
của gia đình Ngơ Đình Diệm.
Phong trào đấu tranh của Phật tử và đồng bào các đô thị miền Nam trong năm
1963 là giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước đã đầy. Lễ Phật đản 2506 ngày 85-1963
là “tia lửa làm bùng phát đồng thuốc súng ở miền Nam (Bernard Fall)”. Mở đường
cho phong trào đấu tranh chính trị cơng khai hợp pháp ở miền Nam.
Cuộc đấu tranh của quần chúng ở các đô thị miền Nam trở thành cái cớ trực
tiếp cho Hoa Kỳ công khai biện pháp “thay ngựa giữa đường”.
Những thất bại của chính quyền Ngơ Đình Diệm trên nhiều lĩnh vực từ cuối
năm 1960 và nhất là trong năm 1963 khiến cho nhiều chính khách Hoa Kỳ đặt lại vấn
đề đòi thay đổi Diệm. Đặc biệt, sau khi phong trào đấu tranh của Phật tử và đồng bào
các đô thị nổ ra, dư luận thế giới và dư luận nhân dân Hoa Kỳ phê phán chính phủ Hoa
Kỳ đã ủng hộ chế độc tài gia đình trị, chà đạp lên tự do dân chủ.
Trong khi đó, một số quan chức cao cấp Hoa Kỳ như Bộ trưởng quốc phòng
Robert Mc Namara, đại tướng chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân Maxwell
Taylor, đô đốc tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương Hanrry Felt., cho rằng chỉ
có Diệm mới có đủ khả năng chống cộng ở miền Nam Việt Nam, nên chủ trương giữ
Diệm lại ghế Tổng thống, chỉ tách vợ chồng Nhu khỏi miền Nam. Trước hai luồng ý

kiến khác nhau đó, Tổng thống Kennedy do dự, lúng túng trong nhiều tháng trước khi
ngả theo quyết định lật đổ Diệm, bật đèn xanh cho nhóm tướng tá ở Sài Gịn làm đảo
chính ngày 1-11-1963.
Cuối tháng 8-1963, kế hoạch đảo chính đã được vạch ra, nhưng sau đó bị hủy
bỏ. Ngày 8-9-1963, Mỹ cử Victor Krulak và một số tướng lĩnh thuộc Bộ Quốc phòng
sang thị sát Sài Gịn, mục đích chính là tìm ra “con bài mới” nhưng giữ Victor Krulak
và phái đoàn bất đồng quan điểm nên Kennedy tiếp tục cử Taylor và Mc Namara sang
thị sát chiến trường và chương trình bình định nơng thơn. Tại Sài Gịn, Taylor và Mc
Namara tiếp xúc với Dương Văn Minh và cùng thống nhất: “nếu điều khiển được
Diệm thì đến 1965, lực lượng nổi dậy (cách mạng) có thể bị thu hẹp xuống ở mức độ
khơng hơn một băng đảng có tổ chức”.
Sức ép của Hoa Kỳ đối với chính quyền Ngơ Đình Diệm được gia tăng, viện
trở kinh tế bị cắt giảm. Chính quyền Diệm buộc phải thực hiện chính sách “thắt lưng
buộc bụng”, giảm 30% lương cơng chức và binh lính.
Ở Sài Gịn, tướng lĩnh quân đội Việt Nam Cộng hòa lên kế hoạch đảo chính.
Ngày 5-10-1963, đặc vụ CIA Conein sau khi gặp Trần Văn Đơn, đến gặp Dương Văn
Minh để nắm tình hình. Ngày 28-10-1963, Trần Văn Đơn xác nhận hồn tất kế hoạch
đảo chính với Conein tại Bộ Tổng tham mưu qn đội Sài Gịn.
Đối phó với tình hình, Diệm - Nhu một mặt tìm kiếm sự ủng hộ của chính phủ
Hoa Kỳ thống qua đại sứ Lodge. Mặt khác Ngô Đình Nhu vạch ra kế hoạch đảo chính
giả nhằm nhận diện và tiêu diệt lực lượng đảo chính. Theo kế hoạch, Ngơ Đình Nhu
cho các lực lượng trung thành thực hiện cuộc đảo chính giả bằng việc tấn cơng một số
mục tiêu định sẵn, nhằm làm lộ diện lực lượng đảo chính thật. Để sau đó tiêu diệt
nhanh chóng bằng kế hoạch “phản đảo chính”.


Trưa ngày 1-11-1963, theo lời mời của Trần Thiện Khiêm quyền Tổng Tham
mưu trưởng Quân đội Việt Nam Cộng hòa, tồn bộ tướng lĩnh qn đội Sài Gịn tập
trung tại Bộ Tổng Tham mưu. Dương Văn Minh cố vấn quân sự Phủ Tổng thống
tuyên bố lực lượng quân đội tiến hành đảo chính, qn cảnh lập tức bao vây văn

phịng Bộ Tổng tham mưu. Tướng lĩnh quân đội Sài Gòn, gồm cả tay chân của Ngơ
Đình Nhu bị khống chế, kế hoạch đảo chính giả thất bại.
13 giờ 30 chiều 1-11-1963, lực lượng đảo chính nổ súng, trong khi Ngơ Đình
Nhu vẫn tỏ ra lạc quan và cho rằng kế hoạch đảo chính giả đang được thực hiện, lực
lượng đảo chính đã nhanh chóng chiếm được các vị trí trọng yếu.
Đêm 1-11-1963, Diệm - Nhu trốn khỏi dinh Gia Long, về ẩn náu tại nhà thờ
Cha Tam (chợ Lớn). 3 giờ sáng ngày 2-11-1963, đại tá Nguyễn Văn Thiệu tấn công
dinh Gia Long và phát hiện anh em Diệm đã chạy trốn, nhưng sau đó Diệm đã liên lạc
với lực lượng đảo chính và được đón về bằng xe thiết giáp. Trên đường về Bộ Tổng
Tham mưu Diệm - Nhu bị sát hại. Cuộc đảo chính do tướng lĩnh quân đội Việt Nam
Cộng hòa thực hiện lật đổ chế độ Việt Nam Cộng hòa do Diệm cầm đầu ở miền Nam
Việt Nam.
Cuộc đảo chính đã làm cho chế độ tay sai thực dân mới Hoa Kỳ ở miền Nam
Việt Nam sụp đổ, đây là sự thừa nhận thất bại của mơ hình nhà nước thuộc địa kiểu
mới của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam (1955-1963). Tuy nhiên, cái chết của Ngơ
Đình Diệm trong thời điểm Hoa Kỳ chưa tìm được “con bài” thay thế phù hợp đã làm
cho chính quyền tay sai Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam rời vào khủng hoảng trầm
trọng.

CHƯƠNG 2
NHỮNG TRỤ CỘT CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA CHÍNH QUYỀN
ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HỊA
2.1.
Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng
2.1.1.
Q trình thành lập Đảng Cần Lao Nhân Vị
Giữa thế kỉ XX, Mỹ càng can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến ở Đông Dương
trước nguy cơ thất bại của Pháp. Sự kiện ngày 7 tháng 5 năm 1954 đã đánh dấu sự thất
bại hoàn toàn của Pháp tại Điện Biên Phủ buộc Pháp phải đầu hàng, ngồi vào bàn đàm
phán với danh nghĩa làm một nước bại trận. Với sự thất bại của Pháp, Mỹ tăng cường

thế lực tay chân thay Pháp tại Đông Dương, bằng chính sách thực dân kiểu mới thay
vì cai trị trực tiếp Mĩ đã lựa chọn nhân vật tay sai đắc lực nhằm phục vụ âm mưu xâm
lược của mình, nhân vật thích hợp được Mĩ lựa chọn đó là Ngơ Đình Diệm. Âm mưu
xâm lược được hiện rõ khi Mĩ tiến hành đưa Ngơ Đình Diệm vào miền Nam Việt Nam
thay thế dần vị trí của Bảo Đại và cuối cùng đi đến kế hoạch loại Bảo Đại ra khỏi
miền Nam. Ngày 23/10/1955, Diệm kêu gọi tổ chức cuộc Trưng cầu Dân ý dưới sự
kiểm sốt của chính quyền đương nhiệm (dưới hình thức Quốc Hội Lập Hiến) và được
Hoa Kỳ đứng sau hậu thuẫn, “kết quả chính thức của cuộc Trưng cầu Dân ý được đăng
vào công báo là 5.721.735 phiếu xanh có hình ơng Diệm (98,2%) và 63,107 phiếu đỏ
có hình Bảo Đại (1,1%)” [19,129], số lượng phiếu bầu cho Ngơ Đình Diệm gây ra sự


nghi ngờ lớn trong dân chúng tuy nhiên điều đó đã được Mỹ đứng sau che đậy rất kĩ.
Bảo Đại bị phế truất, Diệm đắc cử thủ tướng, chính quyền Ngơ Đình Diệm được dựng
lên, Việt Nam Cộng hịa chính thức trở thành một thực thể ở miền Nam Việt Nam,
theo đó Mỹ hứa hẹn sẽ ủng hộ, viện trợ cho chính phủ và là lãnh đạo mới của chính
thể này, tạo ra một chính quyền tay sai, Mỹ bước đầu thiết lập chủ nghĩa thực dân mới,
chiếm đóng lâu dài miền Nam Việt Nam.
Để củng cố và phát triển thế lực tại miền Nam Việt Nam, Ngơ Đình Diệm từ
lâu ấp ủ ý định thành lập một đảng chính trị mới. Để thực hiện, Ngơ Đình Diệm cho
tập hợp các tổ chức, lực lượng Công giáo di cư và các thành phần chống Cộng khác
thành một tổ chức chính trị đối đầu với các thế lực còn lại của Pháp ở miền Nam Việt
Nam, nhằm đối phó với đảng Lao động Việt Nam. Chính quyền Ngơ Đình Diệm đẩy
mạnh xây dựng những tổ chức chính trị phản động, sự ra đời của đảng Cần Lao là một
yếu tố cần thiết nhằm thiết lập một chính quyền vững mạnh để tránh sự nguy hại bởi
các thế lực khác.
Trước khi chiến tranh Việt - Pháp bùng nổ vào cuối năm 1946, Ngơ Đình Nhu
thốt khỏi Hà Nội. Trước khi đến Thanh Hóa, Ngơ Đình Nhu cùng với Hồng Bá Vinh
và một số thân hữu nòng cốt về Phát Diệm lập khu an tồn. Chính thời gian này, Ngơ
Đình Nhu manh nha thành lập cùng với nhiều người đồng chí hướng, tổ chức Liên

Đoàn Kháng Chiến Cần Lao Việt Nam. Tại Thanh Hóa Phát Diệm, Ngơ Đình Nhu
cùng một số nhân sĩ trí thức đã chuẩn bị cơ cấu ban đầu nhân sự và tổ chức, thành lập
Đảng Cần Lao sau này làm nịng cốt cho tổ chức chính trị của chế độ Việt Nam Cộng
Hòa từ 1954-1963 với tên gọi ban đầu là Nhóm Xã hội Cơng giáo (1946-1954) là
nhóm cột trụ sau này của Đảng Cần Lao Nhân Vị. Như vậy, ngay từ đầu thập niên
1950, Ngơ Đình Nhu đã xây dựng cốt cán của một đảng chính trị mới, với nhóm
người chạy khỏi Hà Nội vào khu tự trị Bùi Phát sau ngày 19/12/1946, mà sau này mới
xuất hiện công khai với tên gọi Đảng Cần lao Nhân vị, nhưng thường chỉ gọi là vắn tắt
“Cần Lao”.
Ngồi ra, nói đến sự hình hình thành của đảng Cần Lao, Hồng Linh Đỗ Mẫu
cho biết: “Cho đến năm 1953, nhờ những yếu tố khách quan của quốc tế, mà chủ yếu
là sự yểm trở chủ động của khối Thiên Chúa giáo La Mã và Hoa Kỳ qua thế cờ Ngơ
Đình Diệm (chứ không phải nhờ tác động của lý thuyết Nhân vị Cần lao), ơng mới
quyết định năng động hóa lý thuyết của mình. Một mặt ơng Nhu (cùng các ơng Trần
Văn Đỗ, Trần Cháng Thành, Nguyễn Tăng Nguyên, Trần Trung Dung) xin phép thủ
tướng Bửu Lộc cho ra đời một lực lượng thợ thuyền lấy tên là Tổng Liên Đoàn Lao
Công (Lao là Lao động, Công đặc biệt là Công giáo) dựa theo mô thức lãnh đạo và tổ
chức của lực lượng thợ thuyền Thiên Chúa giáo Pháp. Mặt khác, họ hình thành một
hội nghị “Đại Đồn Kết” vào tháng 9 năm 1953, địi hỏi hịa bình cho Việt Nam, với
sự tham gia của ơng Nhu và các đồn thể chính trị gồm ln cả Bẩy Viễn và các giáo
phái. Song song với hai cơng tác nổi đó, ơng Nhu bí mật cho ra đời đảng Cần Lao
Nhân Vị Cách Mạng. Thật ra, không ai biết được đảng Cần Lao Nhân Vị khai sinh
như thế nào và bao giờ ngoại trừ ơng Nhu và các đồng chí của ơng Nhu đã nói trên
kia... ” [20; 178]. Ngày 2/9/1954 tại miền Nam Việt Nam, Nghị Định số 116-bNV/CT


được ban hành cho phép Đảng Cần lao Nhân vị được hoạt động hợp pháp, nghị định
được ký bởi ông Bộ Trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Ngọc Thơ.
Đảng Cần Lao được thành lập do Ngơ Đình Nhu chủ xướng là một lực lượng
chính trị chủ chốt bảo vệ chế độ phát triển bền vững, Ngơ Đình Diệm chỉ chấp nhận

đảng Cần Lao là một đảng duy nhất tại miền Nam Viêt Nam. Sau cách mạng Tháng
Tám thành công, trước sự lớn mạnh của lực lượng cách mạng miền Bắc, Ngô Đình
Nhu cùng với một số đồng sự là Bửu Dương, Nguyễn Văn Thích, Lý Văn Lập quyết
định chính trị hóa Giáo hội khởi đầu đã cho ra đời chủ nghĩa Nhân vị. Đảng Cần Lao
của Diệm - Nhu lựa chọn chủ nghĩa Nhân vị làm hệ tư tưởng chính và hệ tư tưởng này
cũng chính là vũ khí dùng để chống Cộng, tức là chống lại nhân dân mà do chính Ngơ
Đình Nhu chủ xướng. “Chủ nghĩa nhân vị chủ trương: Nhân vị ở trên gia đình, ở trên
các đồn thể, ở trên quốc gia và trên cả chủ quyền quốc gia, những việc ấy trước hết
phải nhằm vào sự nảy nở nhân vị chứ khơng đè bẹp nó. Theo Ngơ Đình Diệm chỉ có
chủ nghĩa nhân vị mới bài trừ được lạc hậu và đẩy lùi được chủ nghĩa mác - xít...”
[23,38,39]. Đảng Cần lao Nhân vị của Ngơ Đình Nhu dựa theo thuyết Personnalism
của nhà trí thức Thiên Chúa giáo Pháp - Emmanuel Mouniers sáng lập và được các vị
linh mục như Bửu Dưỡng, Nguyễn Văn Thích, Lý Văn Lập cùng với Ngơ Đình Nhu
khởi đầu nên, lấy thuyết Duy linh - Nhân vị làm nền tảng tư tưởng chính để hoạt động.
Chủ nghĩa Duy linh - Nhân vị là một lý thuyết, một triết lý gồm 2 phần là chủ ngĩa
Duy linh và chủ nghĩa Nhân vị. Theo đó chủ nghĩa Duy linh bao gồm những quan
điểm về giai cấp thống trị, về thế giới và con người, còn chủ nghĩa Nhân vị là những
quan niệm chung về giai cấp thống trị về con người và xã hội, trên cơ sở những tư
tưởng nền tảng của chủ nghĩa Duy linh. Thuyết Nhân vị được Hoàng Linh Đỗ Mậu
đánh giá “chỉ là một triển khai có hệ thống những phạm trù tôn giáo của thuyết Duy
Linh quá nặng nề về mặt tín ngưỡng của giáo lý Thiên Chúa giáo mà thôi. Căn bản lý
thuyết của Cần lao Nhân vị cách mạng Đảng là chủ nghĩa cách mạng Nhân vị. Cách
mạng Nhân vị là một chủ nghĩa và một nhân sinh quan mới. Mục đích của nó là giải
phóng hoàn toàn con người. Cách mạng từ tư tưởng cho đến hoàn cảnh, tạo lập những
điều kiện tinh thần và vật chất thích hợp để cho mọi khả năng tốt đẹp của con người
có thể từ đó hồn tồn nảy nở được” [20;177]. Theo Hoàng Linh Đỗ Mậu thuyết Nhân
Vị được cho là sự pha trộn một ít từ giáo lý Thiên Chúa Giáo đến chủ nghĩa Nhân Vị
của Mounier, pha thêm thuyết Nhân Ái của Khổng Tử, một ít của chủ nghĩa Tư bản
cộng thêm chủ nghĩa Duy Linh chống Cộng mà nên. Thực chất, chủ nghĩa Duy linh Nhân vị là những ý niệm theo khuôn mẫu của giáo lý Thiên Chúa giáo. Nói về chủ
nghĩa Nhân vị Lê Cung đã viết: “Trong phần mở đầu Hiến pháp (1956) của cái gọi là

nền Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam, chủ nghĩa Nhân Vị được xem như là tiêu điểm mà
hầu hết các lãnh vực quốc gia phải khuôn theo: Xây dựng dân chủ về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội cho tồn dân trong sự tơn trọng nhân vị. Ngơ Đình Nhu khẳng định:
“Chủ nghĩa nhân vị là linh hồn của chính thể Cộng hịa” [23;39,40].
2.1.2.
Cương lĩnh của Đảng Cần Lao Nhân Vị
Tuyên ngôn Cần lao Nhân vị cách mạng đảng ra đời vào tháng 8/1954, hướng
đến nhiệm vụ giải phóng tồn diện con người, xây dựng một xã hội cơng bình hịa ái


×