Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Sử liệu học nội dung chương trình, và tổ chức giảng dạy ở trường đại học thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.57 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

KHOA LỊCH SỬ

ĐỀ TÀI

SỬ LIỆU HỌC: NỘI DUNG, CHƯƠNG TRÌNH
VÀ TỔ CHỨC GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
••
★★★

Chuyên đề

HỆ THỐNG CÁC KHÁI NIỆM SỬ LIỆU
QUAN NIỆM CỦA CÁC NHÀ KHOA HỌC TỪ XƯA
ĐẾN NAY VỀ SỬ LIỆU
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
TS. Nguyễn Văn Hiệp

NGƯỜI THỰC HIỆN
TS. Hồ Sơn Diệp

BÌNH DƯƠNG - THÁNG 12 NĂM 2014


Chuyên đề

HỆ THỐNG CÁC KHÁI NIỆM SỬ LIỆU
QUAN NIỆM CỦA CÁC NHÀ KHOA HỌC TỪ XƯA
ĐẾN NAY VỀ SỬ LIỆU



1. Hệ thống các khái niệm sử liệu
1. Lịch sử là gì?
Khi nói đến lịch sử, ta thường nghĩ ngay đó là những gì chỉ quá khứ,
những gì thuộc quá khứ, thuộc thời gian đã qua. Cụ thể hơn, đó là những gì vừa
mới xảy ra, ngược về tận quá khứ “ngày xửa, ngày xưa” khi loài người mới xuất
hiện trên trái đất và bắt đầu sáng tạo nên lịch sử xã hội loài người.
Từ khi xuất hiện, con người bắt đầu tiến trình sáng tạo lịch sử của mình, đó
cũng chính là mốc thời gian con người bắt đầu quá trình nhận thức về thế giới tự
nhiên và xã hội.
Vậy lịch sử là gì?
Theo từ điển Từ và ngữ Việt Nam của GS. Nguyễn Lân, lịch sử là sách
chép việc đã qua. Theo từ điển tiếng Đức, lịch sử (geschichte) có nghĩa là các sự
việc, sự kiện đã xảy ra, không bao gồm nghĩa ghi chép. Riêng thuật ngữ lịch sử
trong tiếng tiếng Hy Lạp (istoria), tiếng La Mã (historia), tiếng Pháp (histoire),
hay tiếng Anh (history),... đều có nghĩa là kể lại, thuật lại, chép lại các câu
chuyện, các sự kiện đã xảy ra trong quá khứ...
Qua các thuật ngữ, ta thấy cụm từ lịch sử có hai nghĩa cơ bản: một là các
hiện tượng, biến cố... đã xảy ra trong quá khứ (hiện thực quá khứ khách quan);
hai là việc kể lại, thuật lại, chép lại... các hiện tượng, biến cố... đã xảy ra. Về bản
chất, đó là nhận thức của con người về hiện thực quá khứ khách quan (khoa học
lịch sử).
Về vấn đề thứ nhất, xã hội loài người và hoạt động của xã hội loài người
trên tất cả mọi bình diện, trải qua hàng triệu năm, với vô số những hiện tượng,
biến cố con người đã tạo ra, với kết quả đạt được là các giá trị to lớn về vật chất,
tinh thần và các nền văn minh nổi tiếng ra đời nối tiếp nhau. Xã hội loài người
với các hiện tượng, biến cố đã xảy ra trong một thời gian, không gian nhất định
trong quá khứ, tồn tại một cách tự thân, khách quan, hoàn tồn độc lập với nhận
thức của con người, đó là hiện thực khách quan của xã hội loài người trong quá
khứ, nói cách khác đó là hiện thực lịch sử. Dù con người có nhận thức được hay

khơng, nhận thức đúng hay sai, thì hiện thực khách quan của xã hội lồi người
trong q khứ là có thật, đã xảy ra, không thể thay đổi, vẫn tồn tại trong quá khứ.
2


Khi bàn về Lịch sử, sự thật và sử học, GS. Hà Văn Tấn đã viết, “Lịch sử là khách
quan. Sự kiện lịch sử là những sự thật được tồn tại độc lập ngoài ý thức chúng
ta”1.
Về vấn đề thứ hai, con người tiến hành nhận thức hiện thực khách quan
của xã hội loài người trong quá khứ. Hành động nhận thức được thực hiện sau khi
hiện thực khách quan đã xảy ra. Hành động nhận thức và hiện thực khách quan
quá khứ không đồng nhất về thời gian xuất hiện, do vậy, khi tiến hành nhận thức
lịch sử, con người phải dựa vào các nguồn “sử liệu” - những di tồn còn lại của
hiện thực quá khứ khách quan. Nhưng nguồn sử liệu lại khá khiêm tốn so với sự
phong phú đa dạng vốn có của hiện thực quá khứ khách quan, gây khó khăn cho
q trình nhận thức. Hơn nữa, việc nhận thức các hiện tượng, biến cố... xảy ra
trong quá khứ của xã hội loài người lại là hành động chủ quan, nên phụ thuộc vào
thế giới quan, nhân sinh quan, trình độ và mục đích khác nhau của người nhận
thức... Do vậy, trong nhiều trường hợp, nhận thức về lịch sử của con người thiếu
sự đồng nhất, cùng một hiện tượng, biến cố xảy ra trong q khứ, nhưng nhận
thức có thể khác nhau, thậm chí có sự mâu thuẫn, trái ngược. Nghĩa là trong nhận
thức của con người về hiện thực quá khứ khách quan, có nhận thức đúng, có nhận
thức sai, nhưng hiện thực lịch sử, sự thật lịch sử thì chỉ có một.
Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để nhận thức đúng về hiện thực quá khứ
khách quan, tìm ra được sự thật lịch sử? Đó chính là nhiệm vụ của các nhà sử
học, của sử học, của khoa học lịch sử. GS. Phan Ngọc Liên và các đồng sự của
ông cho rằng “lịch sử của những sự kiện, hiện tượng, nhân vật đã từng tồn tại
trong quá khứ, tức là lịch sử của một hiện thực khách quan”, hoặc “quá trình
hiện thực khách quan của xã hội lồi người trước đây”... “trở thành đối tượng
nhận thức của những người nghiên cứu, giảng dạy và học tập lịch sử”2.

Từ các nội dung trên, ta có thể hiểu rằng, khi bàn đến khái niệm lịch sử là
bàn đến bản thân hiện thực quá khứ khách quan, đó là hoạt động xã hội của loài
người và thế giới tự nhiên trong quá khứ.
Tại sao lại đề cập đến thế giới tự nhiên? Giữa lịch sử tự nhiên và lịch sử xã
hội có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hầu như khơng có hoạt động xã hội nào của
con người lại tách rời khỏi các điều kiện tự nhiên. Nói cách khác, quá trình sáng
tạo nên lịch sử xã hội lồi người chính là quá trình khám phá, chinh phục tự nhiên
của con người. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx cho rằng: “Người ta có thể
chia thành lịch sử tự nhiên và lịch sử nhân loại, tuy nhiên hai mặt đó khơng tách
rời nhau, chừng nào lồi người cịn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên
quy định lẫn nhau”3.
Trong đó lịch sử tự nhiên hình thành, tồn tại, vận động một cách vô thức
theo các qui luật vận động của tự nhiên, không do con người tạo ra; lịch sử xã hội
1. Hà Văn Tấn, Một số vấn đề lý luận sử học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007, tr. 30.
2.Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Phương pháp luận sử học, Nxb. Đại học Sư phạm, , 2007, tr. 44.
3.K. Marx - F. Engels (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 267.
3


hình thành, vận động, phát triển có ý thức theo những quy luật vận động, phát
triển của xã hội loài người.
Như vậy, khái niệm lịch sử có thể hiểu đó là sự tồn tại khách quan của thế
giới tự nhiên và xã hội loài người trong quá khứ, là quá trình hình thành, vận
động, phát triển của xã hội lồi người trong mối quan hệ giữa xã hội loài người
với thế giới tự nhiên4.
Sự tồn tại khách quan ở đây được hiểu là tồn tại tự thân của lịch sử, hoàn
toàn độc lập với nhận thức của con người sau đó. Dù con người có nhận thức
được hay khơng, nhận thức đúng hay sai, thì lịch sử cũng đã xảy ra, vẫn tồn tại,
không thể thay đổi. Nếu chúng ta xem lịch sử chỉ là những cái gì của quá khứ
khách quan mà con người đã nhận thức được, nghĩa là chúng ta đang đồng nhất

giữa tư duy khoa học hữu hạn của con người với chân lý lịch sử tuyệt đối vốn là
vơ hạn.
2. Con người có khả năng nhận thức được lịch sử
Khi nghiên cứu về nhận thức lịch sử, F. Engels viết: “Xã hội loài người bắt
đầu từ đâu thì quá trình tư duy nhận thức lịch sử của con người cũng bắt đầu từ
đó”5, nghĩa là, từ thời đại nguyên thủy, con người đã bắt đầu tiến trình nhận thức
lịch sử. Tuy nhiên, do chưa có chữ viết, nên toàn bộ nhận thức của con người thời
4.M.T. Cicero (người La Mã, 106 - 45 TCN): Lịch sử chính yếu của cuộc sống với yêu cầu đạt tới ánh sáng của
sự thật. Thời cổ đại, các nhà sử học cho rằng “Sử học là sự kéo dài kí ức, làm cho kí ức sống lại theo trí nhớ của
từng người”. “Sử học là một loại hình nghệ thuật, chỉ có tác dụng tái hiện, khơng có tác dụng khám phá”. “Lịch
sử không chỉ là lịch sử một nước mà của tất cả các nước quan trọng khác ở Địa Trung Hải bị La Mã chiến đóng”.
B. Pascal (1623 - 1662), nhà vật lý học, toán học, triết học Pháp: “Sử học chỉ là môn khoa học sách vở và
hoàn toàn phụ thuộc vào ký ức”.
Đái Danh Thế (người Trung Hoa đời Thanh): “Sử là để chép những việc thay đổi lợi hại trong chính trị điển
chương, cũng như sự thành bại được thua, người hay, dở, gian, ngay để giương điều thiện, gièm điều ác, mà làm
phép rãn muôn đời”. J.J. Rousseau: “Mọi cái xảy ra trong lịch sử đều hợp với trật tự tự nhiên”.
F. W.J. Schelling (triết gia Đức, 1775 - 1854): “Lịch sử là quá trình hoạt động của con người sáng tạo ra
“giới tự nhiên thứ hai" của mình, cải biên sự vật tự nhiên thành các sản phẩm văn hóa”.
Sue Peabody: lịch sử là một câu chuyện chúng ta nói chúng ta là ai.
O. Spengler (1880 - 1936) người Đức và A.J. Toynbee (1889 - 1975) người Anh, cả hai đều cho rằng lịch sử là
một chuỗi các nền văn minh, mỗi nền văn minh không thể tránh khỏi từ phát triển qua chín muồi đến suy tàn.
G. W.F. Hegel: “Lịch sử là sự tự phát triển của tinh thần thê' giới - Lịch sử là sự tiến bộ của tự do”.
A.G. Xpirkin (nhà triết học xã hội): “Lịch sử xã hội loài người, trên một ý nghĩa nhất định, là bức tranh về sự
tác động qua lại luôn luôn biến đổi giữa xã hội và tự nhiên”.
K. Marx - F. Engels (trong “Gia đình thần thánh”'): “Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo
đuổi mục đích của bản thân mình”.
K. Marx: “Lịch sử chẳng qua là sự nối tiếp của những thế hệ riêng rẽ, trong đó mỗi thế hệ đều khai thác
những vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả những thế hệ trước để lại”.
F. Engels: “Toàn bộ lịch sử từ trước tới nay trừ xã hội nguyên thủy đều là lịch sử đấu tranh giai cấp”
V.I. Lenin: “Lịch sử là một quá trình thống nhất và bị những quy luật chi phối, mặc dù q trình đó cực kỳ

phức tạp và có rất nhiều mâu thuẫn”
Văn Tạo: “Lịch sử là tổn tại và phát triển khách quan của tự nhiên và xã hội, được nhận thức bởi tư duy khoa
học ngày càng sâu rộng của con người”.
Châu Long và Lê Kim Ngân: “Theo tự nguyên lịch sử có nghĩa là quyển sách ghi lại những việc đã qua,
những biến cố đã xảy ra trong dĩ vãng”.
Nguyễn Thế Anh: “Lịch sử là quá khứ và tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ”.
Nguyễn Phương: “Lịch sử là những gì đã xảy ra trong q khứ. Nó là thời sự quá khứ của thế giới nhân văn
và thế giới thiên nhiên trong những gì có liên quan đến con người. Nó là việc đã qua”.
Tạ Chí Đại Trường (Trong phần bên lề của cơng trình Bài sử khác cho Việt Nam): Lịch sử chỉ là những tiếp
diễn của sự kiện mà khơng có cùng đích...
5.K. Marx - F. Engels (1962), Tuyển tập, tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 302.
4


đại nguyên thủy về các sự kiện, hiện tượng được thông tin, truyền tin cho nhau
thông qua truyền miệng rồi lan truyền rộng rãi trong dân gian.
Bước vào thời kỳ cổ đại, xã hội có giai cấp xuất hiện, chữ viết ra đời, hệ
thống giáo dục của các quốc gia trên thế giới hình thành, cư dân dần được trang
bị kiến thức khoa học để “có thể” nhận biết thế giới tự nhiên và xã hội lồi người
thơng qua hệ thống quan điểm, triết lý, tư tưởng,... khác nhau. Cũng chính từ thời
cổ đại, giai cấp thống trị đã nhận biết được giá trị của lịch sử, dùng lịch sử để ca
ngợi giai cấp thống trị và làm bài học để răn dạy giai cấp bị trị.
Ở phương Đông, chức sử quan được ban đặt; ở phương Tây, các nhà sử
học xuất hiện. Dù lịch sử thời bấy giờ bị lợi dụng và trở thành một công cụ cai trị
đắc lực của giai cấp cầm quyền, tuy nhiên, từ việc “ghi chép mọi sự việc có liên
quan đến nhà vua” ở phương Đông6, đến việc quan sát tự nhiên, mô tả các cuộc
chiến tranh, thực tiễn đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của làng quê,
thành phố, dân tộc,... ở phương Tây đã đưa tiến trình nhận thức lịch sử của con
người lên một tầm cao mới, dù việc nhận thức cịn thơ sơ, mộc mạc, chưa chú
trọng đến tính xác thực của biến cố, hiện tượng đã xảy ra.

Kinh Xuân thu, kinh Veda, sử thi Ramayana, Lịch sử Hi Lạp, Chiến tranh
Hi Lạp - Ba Tư, Lịch sử cuộc chiến tranh Péloponèse, Lịch sử Roma,... chính là
kết quả quá trình nhận thức lịch sử của cư dân cổ đại. Điều quan trọng hơn, cư
dân thời cổ đại đã biết sử dụng nhận thức lịch sử “như một cơng cụ để khái qt,
tìm ra cái đẹp và lẽ phải của cuộc sống trên cơ sở khôi phục lại hình ảnh quá
khứ”7. Đặc biệt, việc chữ viết ra đời đã tạo điều kiện thuận lợi để cư dân thời cổ
đại tích lũy vốn tri thức nhận thức được về hiện thực quá khứ khách quan với
khối lượng ngày càng lớn, đó chính là cơ sở để tiến trình nhận thức lịch sử của
con người ngày càng tiến gần hơn với hiện thực lịch sử.
Đến khi chế độ chiếm hữu nơ lệ tan rã, chế độ phong kiến hình thành, cũng
chính là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của các tôn giáo, lịch sử trở trành công cụ để
củng cố vương quyền và thần quyền.
Đối với việc củng cố vương quyền, “... sự ghi chép của sử giữ nghị luận
rất nghiêm, tơ điểm việc chính trị thì sáng tỏ ngang với mặt trời mặt trăng, răn
đe kẻ loạn tặc thì ráo riết như sương thu lạnh buốt, người thiện biết thì có thể bắt
chước, người ác biết thì có thể tự răn...”8.
Đối với việc củng cố thần quyền, “... Đấng Sáng thế vĩnh hằng cho đến
nay vẫn là người trực tiếp điều kiện lịch sử một cách kỳ diệu...” 9; “cảnh tượng
của quá khứ giúp chúng ta hiểu được những kế hoạch và ý định của chúa”10.
Với vai trò đó, lịch sử bị thao túng bởi “ý trời” và trở thành “nơ bộc của
6.Phan Ngọc Liên, Đỗ Thanh Bình (Đồng chủ biên), Lịch sử sử học thế giới, Nxb. Đại học Sư phạm, tr. 19 - 20.
7.Phan Ngọc Liên, Đỗ Thanh Bình (Đồng chủ biên), Sđd, tr 19, 25.
8.Bài tựa cho cuốn “Đại Việt sử ký tục biên” (chép trong cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư”), Nxb. Văn hóa - Thơng
tin, ấn hành năm 2009.
9.Phan Ngọc Liên, Đỗ Thanh Bình (Đồng chủ biên), Sđd, tr. 39.
10.
Sách Lịch sử là gì?, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1981, tr. 21.
5



thần học”11, điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức lịch sử của cư dân thời
đại phong kiến. Tuy nhiên, nếu như ở phương Tây, sử học có những bước đi lùi
so với sử học thời cổ đại, thì ở phương Đơng, thậm chí cả ở Châu Phi, sử học có
những bước tiến đáng ghi nhận, như ở Việt Nam, Nhật Bản, Ấn Độ, Tunisia
(Tuynidi)..., Đặc biệt, lúc bấy giờ, ở Trung Quốc cùng với việc định hình các
dịng sử chính thống (sử học của giai cấp thống trị) và phi chính thống (sử học
của nhân dân lao động), là sự xuất hiện của các thể loại Đoạn đại sử; Cương mục;
Sử thông; Sử ký; Biểu, Thư, Thế gia, Liệt truyện...
Dù các tác phẩm sử học ra đời trong thời kỳ này chủ yếu phản ánh vai trò
vị trí của giai cấp thống trị với các hoạt động cai trị, lập pháp, hành pháp, chiến
tranh...; nhưng chính những mâu thuẫn giai cấp sâu sắc nung nấu trong đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của chế độ phong kiến đã đưa các nhà sử học
đến một xu hướng nhận thức lịch sử đúng hơn với bản chất thật của nó, đặc biệt
là dịng sử phi chính thống.
Đến thời kỳ phục hưng, ở phương Tây, các nhà sử học nhận ra “vương
quyền” và “thần quyền” đã làm “méo mó” sự thật lịch sử bằng các “sử liệu giả”,
xu hướng đưa các tác phẩm lịch sử quay lại kiểu sử học nhân văn của thời kỳ cổ
đại xuất hiện và phát triển như muốn thốt khỏi vịng phong tỏa của hệ tư tưởng
phong kiến và thần học. Đặc biệt, sự ra đời của chủ nghĩa duy vật và khoa học
thực nghiệm đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức hiện thực lịch sử.
Tư tưởng của F. Bacon (1561 - 1626) và R. Descartes (1596 - 1650) về
việc đề cao giá trị của nguồn sử liệu; về việc nhận thức lịch sử phải xuất phát từ
chính bản thân sự kiện, hiện tượng lịch sử, cùng với các quy luật nội tại của
chúng do con người quy định chứ không phải là do Đức Chúa, hay ý trời... Tư
tưởng của F. Bacon và R. Descartes trở thành tư tưởng mang tính chủ đạo trong
nhận thức hiện thực lịch sử của các nhà sử học thời kỳ Phục hưng.
Bước sang thời cận đại, chế độ tư bản hình thành và phát triển mạnh mẽ,
tình hình kinh tế chính trị thay đổi đã làm nảy sinh nhiều trào lưu tư tưởng mới.
Đầu tiên là sử học Khai sáng, tiếp đến là các nhà sử học theo chủ nghĩa Tương
đối, chủ nghĩa Thực chứng, chủ nghĩa Kinh nghiệm, chủ nghĩa Lãng mạn,... lần

lượt xuất hiện, đây chính là thời kỳ vấn đề “nhận thức lịch sử” được đặt ra và bàn
luận sôi nổi. Dù chưa thoát khỏi các quan điểm duy tâm, siêu hình, nhưng các nhà
sử học thời kỳ này đã coi sử học là một ngành khoa học, coi việc nhận thức lịch
sử là “động lực của sự phát triển” và động lực đó “nằm trong bản thân tự nhiên
và xã hội”12. Có thể nói, trong thời kỳ này, các nhà sử học đã đặt cột mốc, đánh
dấu bước tiến dài trong nhận thức lịch sử của con người13.
11.Phan Ngọc Liên, Đỗ Thanh Bình (Đồng chủ biên), Sđd, tr. 38.
12.
Phan Ngọc Liên, Đỗ Thanh Bình (Đồng chủ biên), Sđd, tr. 68 - 70.
13.
Một số nhà sử học thời kỳ này xem q khứ chỉ bao gồm các ảo ảnh khơng có thực, đó chỉ là sự nhớ
nhung, phản chiếu sự luyến tiếc của con người về cái đã mất, cái không còn tồn tại nữa, hoặc lịch sử chỉ là lịch sử
tinh thần tư tưởng. Con người nhận thức lịch sử thông qua các nguồn sử liệu của quá khứ là hoàn toàn chủ quan,
lịch sử quá khứ là chủ quan, chỉ có “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần tuyệt đối” là sự tồn tại khách quan, do vậy, “nhà
sử học tạo ra lịch sử đúng với mức độ mà lịch sử tạo ra nhà sử học”... Hầu như các nhà sử học tư sản thời kỳ này
6


Cũng từ thế kỷ XIX, các nhà kinh điển chủ nghĩa Marx sáng lập ra chủ
nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, tìm ra các nguyên lý cơ bản
về sự vận động, phát triển của xã hội loài người.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Marx cho rằng, lịch sử xã hội loài người là
hiện thực khách quan, tồn tại khách quan từ khi loài người xuất hiện trên trái đất,
vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội và
chịu sự chi phối của các mối quan hệ xã hội của các thời kỳ, giai đoạn lịch sử.
Nghĩa là, các nhà kinh điển chủ nghĩa Marx vừa thừa nhận sự tồn tại của hiện
thực lịch sử khách quan, vừa thừa nhận khả năng nhận thức hiện thực khách quan
quá khứ của con người.
“Một khi đã thừa nhận lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội đều tồn tại khách
quan và nhờ có tư duy khoa học mà con người ngày càng nhận thức được đúng

hơn chân lý lịch sử”14. Tuy nhiên “sự nhận thức của con người khơng có màu sắc
tuyệt đối”15, tư duy khoa học là hữu hạn trước chân lý tuyệt đối, “nhưng rõ ràng
sự phát triển không ngừng của đối tượng nhận thức cũng như các khả năng nhận
biết trong chủ thể nhận thức là quá trình biện chứng nhích lại gần chân lý tuyệt
đối thơng qua các chân lý tương đối rời rạc”16.
Đối với hiện thực lịch sử, ta không thể dùng các thực nghiệm khoa học lập
đi lặp lại nhiều lần để tìm tra chân lý, vì các sự kiện hiện tượng lịch sử lồi người
khơng có sự lặp lại. Nếu “có sự diễn lại những tình hình cũ chỉ là ngoại lệ chứ
khơng phải là thường lệ, và chỗ nào có diễn lại thì cũng khơng bao giờ diễn lại
trong điều kiện đúng như cũ”17 mà ở trong một không gian, thời gian, điều kiện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,... khác hẳn18.
F. Engels cho rằng, “Chính con người sáng tạo ra lịch sử của mình là sáng
tạo trong một hồn cảnh nhất định, mà con người phải thích ứng, và trên cơ sở
những quan hệ thực tế đương tồn tại, trong đó quan hệ kinh tế, mặc dù có thể bị
những quan hệ khác, những quan hệ về chính trị và tư tưởng, ảnh hưởng đến đâu
chăng nữa, nhưng xét cho cùng, nó vẫn là những quan hệ nhất định, hình thành
sợi dây chỉ đạo xuyên qua toàn bộ sự phát triển, sợi dây duy nhất làm cho ta hiểu
được sự phát triển”19.
Nhận thức lịch sử nghĩa là con người nhận thức chủ quan về tồn tại lịch sử
khách quan. Tồn tại chính là hiện thực khách quan q khứ, nó đã, đang và sẽ tồn
tại trong lịch sử, đó chính là sự thật lịch sử, là đối tượng của nhận thức lịch sử.
đều đồng nhất hiện thực quá khứ khách quan với việc nhận thức chủ quan về lịch sử quá khứ; họ cũng cố gắng tìm
ra các quy luật chi phối lịch sử nhưng đó là quy luật chủ quan, khơng có các quy luật khách quan chi phối lịch sử.
14.
Văn Tạo (1995), Phương pháp lịch sử và phương pháp lơgích, Viện Sử học xuất bản, tr. 20 - 21.
15.
UBKH XH Việt Nam (1982), Một số vấn đề về phương pháp luận phương pháp nghiên cứu các khoa học
lịch sử, Hà Nội, tr. 7.
16.
UBKH XH Việt Nam, Sđd, tr. 7.

17.
F. Engels (1960), Chống Đuyrinh. Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 154.
18.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Marx cho rằng, chỉ có tư duy khoa học dựa trên nền tảng chủ nghĩa duy vật
lịch sử, mới đưa nhận thức chủ quan của con người phù hợp với tiến trình khách quan của lịch sử (V.I. Lenin
(1960), Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 453).
19.
K.Marx, F. Engels (1962), Tuyển tập, tập 2. Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 826.
7


Việc nhận thức tiến hành dựa vào những cái hiện có, đó là các nguồn sử liệu những di tồn vật chất và tinh thần của xã hội quá khứ, dung chứa nội dung lịch sử
khách quan. Tuy nhiên, cái hiện có chỉ là những phần, những bộ phận, những
mảnh,... của tồn tại khách quan quá khứ, do vậy, căn cứ vào đó, con người có khả
năng nhận thức được lịch sử, có thể tiệm cận đến chân lý lịch sử, nhưng đó là một
q trình lâu dài, khó khăn, phức tạp, điều này đã được con người thực hiện từ
thời đại nguyên thủy cho đến ngày nay.
Dù cho đến nay, nhận thức về lịch sử vẫn có sự khác biệt lớn giữa các nhà
sử học tùy thuộc vào quan điểm, hệ tư tưởng, phương pháp luận và phương pháp
nghiên cứu. Tuy nhiên, điều có thể khẳng định chắc chắn rằng, từ thời đại nguyên
thủy cho đến ngày nay con người đã tiến hành nhận thức lịch sử, từng bước tái
dựng lại toàn cảnh bức tranh về thế giới tự nhiên và xã hội loài người. Tri thức
lịch sử về tự nhiên và xã hội loài người mà chúng ta có được chính là kết quả của
q trình nhận thức hiện thực lịch sử. Từ thời mông muội, dã man đến văn minh,
lịch sử xã hội loài người giống như một dòng chảy liên tục, chúng tuân theo
những qui luật phát triển của xã hội và chịu sự chi phối của thế giới tự nhiên.
Khơng có gì mà con người khơng thể nhận thức được, chỉ có cái chưa nhận
thức được, cái chưa nhận thức được chính là những khoảng trống lịch sử mà con
người đang nỗ lực khám phá. Lịch sử xã hội nguyên thủy tồn tại cách chúng ta
hàng triệu năm khi chưa có chữ viết đã được nghiên cứu, tái dựng; nhiều nước

trên thế giới đã và đang tham gia tìm kiếm các dấu tích về sự biến mất của chiếc
máy bay MH370 thuộc hãng hàng không Malaysia,... là những ví dụ điển hình.
Nghĩa là, các nhà sử học từ Đông sang Tây đã và đang công nhận sự tồn tại khách
quan của hiện thực lịch sử, xem hiện thực lịch sử khách quan là đối tượng của
nhận thức, khẳng định mạnh mẽ con người có khả năng nhận thức lịch sử.
3. Quan niệm của các nhà sử khoa học xưa nay về sử liệu
Các nhà sử học phương Tây đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo các thế hệ
sử gia trẻ với sự trang bị một hệ thống lý luận nghiêm chỉnh. Từ cuối thế kỷ XIX,
hai nhà sử học Pháp Ch. Langlois et Ch. Seignebos đã viết cuốn Introduction à
l'histoire (Nhập môn sử học, Paris, 1894) cho sinh viên Trường Đại học Paris
(Pháp). Trong đó, hai tác giả đã dành một phần quan trọng để đề cập đến sử liệu
và công tác sử liệu trong nghiên cứu và học tập lịch sử.
Đầuphê
thế
kỷ
XX,
vấn
đề
Phương
pháp
luận
sử
học
càng
được
quan
tâm

một
nhiều

trong
hơn.
những
Sử
liệu
nội

dung
một

số
bản
của
Phương
về
Sử
liệu
pháp
luận
được
sử
học.
xem
Bên
cạnh

việc
phát
phân
triển

tích
của
sử
liệu,
quy
các
luật
nhà
lịch
khoa
sử,
học
quy
rất
luật
quan
hình
tâm
đến
Lan
Hendensman
sử
từ
liệu
năm

1928
cách
đã
phân

đưa
ra
loại
những
nó.
cách
Nhà
sử
phân
học
loại
người
sử
Ba
XX,
một
tạo
số
sự
tác
chú
phẩm
ýTopolski
đối
bàn
với
về
các
phương
nhà

nghiên
pháp
luận
cứu.

Đến
cơng
giữa
việc
thế
của
kỷ
nhà
Marc
sử
Bloch
học,
(Manchester
tiêu
biểu
như
University
tác
phẩm
Press,
The
Historian's
1954),
J.
Topolski

Craft
với
Nxb.
Bộ
ĐH
THCN,
History
dịch
(Phương
xuất
pháp
bản
luận
năm
1968,
sử
học,
1970).
2
tập,
Trong
đã
được
Methodology
thực
của
sử
of
liệu.
History,

Khi
đánh
J.
giá
Topolski
độ
rất
thực,
quan
độ
tâm
tin
đến
cậy
tính
của
xác

liệu
bên
ngồi
lịch
sử,
J.
nguồn
(tức

cho
tất
rằng,

cả
trừ
“Nghiên
nội
dung
cứu
những
đặc
thơng
tính
tin
do
sự
các
nguồn
phán
bên
truyền
ngồi
đạt)
những
cũng
như
cơng
xác
việc
định
này
một


cách
thể
xem
tổng
xét
qt
theo
nghĩa
Xác
thực
rộng
1:

tri
nghĩa
thức
hẹp,
về
thời

ơng
gian
phân
hình
biệt
thành
thành

4
địa

khái
điểm
niệm:
xuất
phát
tính
về
chất
nguồn
của
tài
thơng
liệu.
tin
Xác

chúng
thực
2:
ta
được
tìm
trong
tương
nguồn
đối
hóa
tài
theo
liệu

(với
thực).
vấn
Xác
đề
thực
này
thì
3:
vấn

xác
đề
giả
thực,
mạo
vấn
tài
đề
liệu.
khác
Xác

khơng
thực
4:
xác
tính
ngun
nguồn

thành
thủy
của
nguồn
nguồn
thành
tài
văn
liệu.

khơng
Theo
Topolski,
thành
văn
việc
“mà
chúng
lưỡng
tơi
phân
gọi
với

các
khoa
nhà
học
sử
học

về
nguồn
theo
nghĩa
lưu
ý
chính
đến
tầm
xác
quan
nhất)
trọng
lớn
các
lao
nguồn
(đối
thành
Khơng
văn.
cần
phải
Tiêu
nhấn
chuẩn
mạnh
phân
rằng,
loại

phần

sự
lớn
tồn
các
tại

của
giải
bản
của
chữ
chúng
viết.
ta

8


trước đây về cái gọi là những khoa học hỗ trợ cho sử học đều liên quan với việc
nghiên cứu văn tự (cổ văn học, tân văn học)”. Có lẽ đây là bước ngoặt quan trọng
trong quá trình hình thành Sử liệu học.
Những thập niên cuối thế kỷ XX, Sử liệu học đã tiến thêm một bước mới
khi các vấn đề về tầm quan trọng của sử liệu trong nghiên cứu lịch sử; quy lật chi
phối và tính xác thực của sử liệu; nguyên tắc phân loại các nguồn sử liệu; phương
pháp phân tích - phê khảo sử liệu,... đã được tranh luận một cách sổi nổi và hình
thành nên các trường phái Sử liệu học. Eropheev viết Lịch sử là gì? (Tài liệu
dịch, Nxb. Giáo dục, 1981, Hà Nội) đã góp phần giải quyết các vấn đề trên.
Năm 1985, Jan Vansina cho xuất bản cuốn Oral Tradition as History (First

Pubished, James Currey (London) and Heinemann Kenya (Nairobi) Press, 1985),
trong đó ơng đã tâm đắc với D. Henige khi nhà khoa học này đưa ra khái niệm
“tính hồi tiếp” giữa các nguồn sử liệu - hay tính khơng hồn tồn độc lập của các
nguồn. Đây là khái niệm mà D. Henige - người đã dành sự quan tâm mạnh mẽ
nhất tới sự cung cấp của tài liệu viết trong các truyền thống truyền miệng - đưa ra
để chỉ quá trình vay mượn giữa các nguồn tài liệu. Bản thân Jan Vansina khi
nghiên cứu các truyền thống truyền miệng cũng lưu ý rằng, nhà sử học nên ý thức
về những sự lan truyền hịa trộn có thể có và những sự vay mượn giữa các nguồn
với nhau.
Nhà sử học người Nga Chi-khơ-mi-rốp cho rằng tư liệu lịch sử là tất cả
những gì cịn lại của cuộc sống đã qua. Ơng đã góp tiếng nói rất quan trọng giúp
mọi người hiểu đúng hơn về Thế chiến thứ hai khi đặt ra yêu cầu phải xác minh
tư liệu trước khi công bố về các sự kiện lịch sử. Còn trong phương diện triết học,
Lapađanhiepxki định nghĩa: Tư liệu lịch sử là khái niệm phản ánh đặc tính của
hiện vật có thể được để thu nhận tri thức của hiện vật khác.
Nhà sử học người Pháp thế kỷ XX Lucien Fevre (1878 - 1956), đã
gọi “tư liệu thư tịch” là “những bông hoa quen thuộc”cũng xác
nhận một cách hình tượng rằng: “Khi khơng có những bơng hoa
quen thuộc, nhà sử học vẫn có thể hái mật cho mình từ tất cả
những gì mà tuệ của anh ta đưa vào tầm ngắm” và “tất cả những
gì”mà Lucien Fevre ám chỉ chính là “những gì thuộc về con
người, phụ thuộc con người, phục vụ con người, thể hiện sự hiện
hữu, hoạt động, sở thích và các phương thức sinh sống của con
người”. Nhà sử học kiêm triết gia người Anh R. Jh. Collingwood
cũng như A. Ia. Gurevich trong Con người trong lịch sử (Moscow,
1997) diễn đạt một cách đơn giản, dễ hiểu, song 9


không kém phần khoa học: “Mọi thứ trên đời đều là chứng cứ tiềm tàng của cái
gì đó”.

M.I. Paramonova với Lịch sử nhận thức sử học (Nxb. Khoa học, M. 2000,
bản tiếng Nga). Trong một thời gian khá dài đã tồn tại quan niệm cho rằng, chỉ có
nguồn sử liệu chữ viết (thư tịch) mới có thể coi là nguồn sử liệu và là nguồn sử
liệu có giá trị, cịn những nguồn sử liệu khác đều không đáng tin cậy. Quan niệm
này khá phổ biến đối với trường phái sử học Thực chứng (positivisme), mà đại
diện điển hình là nhà sử học người Pháp Numa Denis Pustele De Coulage (1830 1889) - người được mệnh danh là “kẻ sùng bái thư tịch”, khi ông tuân thủ và chỉ
hành động theo một phương châm duy nhất: “Văn bản, chỉ có văn bản, khơng có
gì khác ngồi văn bản”.
Gần đây, Martha Howell và Walter Frevenier cho xuất bản cuốn From
Reliable Sources: An Introduction to Historical Methods (Từ những nguồn đáng
tin cậy: Nhập môn các phương pháp sử học, Bản dịch của Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Trong đó, hai nhà
khoa học đã nhận thấy thực tế các nhà lý thuyết thường tập trung vào nguồn chữ
viết và cũng đồng quan điểm coi nguồn văn tự là “bà hoàng” của các nguồn: .
Đây là những dạng câu hỏi được các nhà sử học thế kỷ XX tập trung tới, và
những học giả này đã phát triển những công cụ tinh vi để viết về các nguồn. Tất
cả họ tập trung vào bản thân nguồn, chủ yếu là nguồn chữ viết, văn bản, và đặc
biệt là những nguồn được coi là bà hoàng của các nguồn, những điều lệ hay văn
bản”. John Tosh, The Pursuit of History: Aims, Methods and new Directions in
the Study of Modern History (revised third edition, 2002). Trong đó, ông đánh giá
tính xác thực của tư liệu lịch sử. “Trước khi nhà sử học có thể đánh giá chính xác
ý nghĩa của một văn bản, họ cần phải tìm ra được khi nào, tại sao và bằng cách
nào nó lại xuất hiện”. Theo ông, nhà sử học làm việc với tài liệu viết tay cần phải
có chút gì đó giống nhà cổ tự học để xác định liệu chữ viết đó có đúng với địa
điểm và thời gian đó không, lại giống với nhà ngữ văn học đánh giá phong cách
và ngôn ngữ của một văn bản đáng nghi và cho rằng sẽ là sai lầm khi gợi ý rằng
các nhà sử học liên tục phát hiện ra những sự giả mạo hoặc họ kiểm tra về mặt
phương pháp tính xác thực của mọi tài liệu mà họ gặp. Ông chủ trương cấp độ
thứ nhất của phê phán bên trong là diễn giải nội dung của văn bản: “Cứ cho là tác
giả, thời gian và địa điểm của tài liệu là như nó được cho là, chúng ta làm gì từ

những từ ngữ ở trước mặt? Ở một cấp độ thì đây là câu hỏi về ý nghĩa. Điều này
không chỉ đơn thuần liên quan đến việc dịch nghĩa từ một ngôn ngữ cổ hoặc một
10


ngoại ngữ,... Nhà sử học địi hỏi khơng chỉ phải thông thạo ngôn ngữ mà phải
tinh thông bối cảnh lịch sử, điều sẽ cho biết các từ ngữ trong văn bản thực sự nói
gì”.
M.G. Lebedev trong Phương pháp luận sử học (Nxb. Khoa học xã hội,
Moscow. 2005) đã dẫn lời nhà sử học Ba Lan Topolski với một định nghĩa khá
đầy đủ rằng: “Nguồn sử liệu là mọi thông tin về đời sống con người trong quá
khứ cùng với các kênh thơng tin”.
Một vấn đề quan trọng góp phần đáng kể trong sự phát triển của Sử liệu
học là việc phân tích và phê phán sử liệu. Với tư cách là một phương pháp cơ bản
của Sử liệu học, quá trình phát triển của nó gắn với q trình hình thành và phát
triển của Sử liệu học. Phương pháp phân tích - phê khảo sử liệu (hnalysiscriticizing historical documents method) ra đời nhờ công sức, sự cố gắng, nỗ lực
của nhiều nhà nghiên cứu. Phương pháp này có nguồn gốc từ phương pháp phê
phán sử liệu, mà người sáng lập ra phương pháp này là nhà bác học người Đức
G.B.Niburu (1776 - 1831). Ông quan niệm hoạt động của nhà sử học tựa như giải
một bài toán hai ẩn số: Thứ nhất, phân tích - phê phán các nguồn sử liệu với mục
đích phát hiện thơng tin đáng tin cậy; thứ hai, phục dựng lại hiện thực lịch sử trên
cơ sở các dữ liệu, thông tin thu nhận được. Phương pháp phê phán sử liệu trở nên
thông dụng và được định hình rõ ràng hơn từ giữa thế kỷ XVIII. Nhà sử học Nga
Bestyghep - Riumin (1829 - 1897) cho rằng, phê phán sử liệu tương đồng với quá
trình nghiên cứu so sánh các sử liệu và bằng cách đó, dùng tư liệu này để kiểm
chứng tư liệu khác. Trong những năm 1842 - 1849, cơng trình gồm 20 tập “Cours
d'études historiques” (Tạm dịch từ tiếng Pháp là “Bài giảng về nghiên cứu lịch
sử”) của nhà sử học Claude Francois Daunon (1761 - 1840), được xuất bản (sau
khi Claude Francois Daunon đã mất), trong đó tồn bộ tập thứ nhất được giành để
định nghĩa về phương pháp phê phán sử liệu cùng với cách phân chia sử liệu. Vào

năm 1858, với cơng trình “Grundriss der Historik” (Tạm dịch từ tiếng Đức là
“Sơ đồ phân tầng sử liệu”), nhà sử học I. G. Droysen (1808 - 1884) đưa ra
phương pháp phê phán từng nhóm sử liệu riêng biệt. Năm 1876, giáo sư sử học
Ad. Tardif xuất bản cơng trình “Notions élémentaires de critique historique”
(Tạm dịch từ tiếng Pháp là “Các khái niệm của phê phán sử liệu”), trong đó,
ngồi việc liệt kê hàng loạt phương pháp cơ bản, cần thiết để phê phán sử liệu,
còn đưa ra những lời khuyên hữu ích khi làm việc với sử liệu cho những người
mới bắt đầu nghiên cứu. Năm 1883, nhà sử học Ch. De Smedt trong tác phẩm
Các nguyên tắc phê phán sử liệu (Principes de la critique historique), đã trình
bày những nguyên tắc phê phán đối với sử liệu viết và chỉ ra những phương pháp
11


bổ trợ cơ bản để thực hiện quá trình phê phán sử liệu. Sau đó một thời gian dài,
hai nhà sử học Sharle Victor Langlois (1863 - 1929) và Sharle Seniobos (1854 1942) trong cơng trình “Nhập mơn nghiên cứu sử học” (1897) đã đưa ra những
quy tắc phê phán sử liệu, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tới vấn đề tổng hợp các sự
vật rời rạc thu được và xây dựng chuỗi các qui tắc cần thiết để nhóm hóa các sự
vật rời rạc thành chỉnh thể khoa học. Đóng góp quan trọng cho sự phát triển của
phương pháp phê phán sử liệu phải kể đến nhà sử học lỗi lạc người Nga A.S.
Lappo - Danilevxki (1863 - 1919) với cuốn giáo trình “Phương pháp luận sử
học” (1910 - 1913), đã xác định cách thức, nguyên tắc phân loại sử liệu, các
phương pháp diễn giải và phê phán nguồn sử liệu. Như vậy, trong khoảng thời
gian từ thế kỷ XVII - XVIII, phương pháp phê phán sử liệu được hình thành về
căn bản.
GS. Hà Văn Tấn với cơng trình Một số vấn đề lý luận sử học (Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2007) đã nêu lên hai vấn đề cơ bản: Một số vấn đề về sử
liệu học và Về mối liên hệ giữa văn bản học và sử liệu học, đã đưa ra cách nhìn
đúng đắn hơn về tầm quan trọng, đặc điểm của sử liệu và vị thế của Sử liệu học
trong nghiên cứu khoa học nói chung, khoa học lịch sử nói riêng. Ngồi ra, GS.
Hà Văn Tấn trong tác phẩm Đến với lịch sử - văn hóa Việt Nam (Nxb. Hội nhà

văn, Hà Nội, 2005) cũng đã đề cập nhiều đến vai trò dẫn dắt của sử liệu để chúng
ta có thể tiếp cận một cách tốt nhất lịch sử - văn hóa Việt Nam. Đặc biệt, GS. Hà
Văn Tấn với bài viết “Lịch sử, sự thật và sử học” đăng trên tạp chí Tổ quốc, tháng
1 năm 1988. In lại trong Một số vấn đề Lý luận Sử học, Nxb. ĐHQGHN, 2007 và
gần đây được đăng lại trên tạp chí Xưa và Nay, là bài viết rất được giới sử học
nước ta chú ý.
Trong tác phẩm của mình: Nhập mơn Phương pháp Sử học (Sài Gòn,
1974), Nguyễn Thế Anh trên cơ sở tiếp thu lý thuyết sử học phương Tây từ những
năm 70 của thế kỷ trước cho rằng: “sử gia đi vào việc lý giải và phân tích cùng
giải đáp nghĩa của tài liệu, tức là giải đáp những vấn đề gây nên bởi ngôn ngữ sử
dụng (ngôn ngữ biến chuyển trong thời gian và trong khơng gian), bởi chính nội
dung của tài liệu (điều này càng hiển nhiên khi người viết có dụng tâm dấu ý
nghĩa của các câu văn); sử gia cũng tìm hiểu về tính chất chính xác của tài liệu,
và cuối cùng xác định các sự kiện đặc biệt chứa đựng trong tài liệu”. Tuy thừa
nhận việc nghiên cứu lịch sử dựa trên nhiều loại nguồn, song cho rằng tài liệu
viết mới là quan trọng nhất và đáng tin cậy nhất đối với nhà sử học.
PGS.TS. Phạm Xuân Hằng với bài viết “Vấn đề xử lý sử liệu học đối với
12


tài liệu chữ viết” đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 1.1996. Mặc dù đề xuất
đến khái niệm phê phán phân tích và phê phán tổng hợp thay cho phê phán bên
ngoài và phê phán bên trong mang tính quy ước, quan niệm của ơng về mục đích
của khâu đoạn thứ nhất này không hề khác biệt với các nhà phương pháp luận
khác: “xét đến cùng, mục đích của việc phê phán phân tích là nhằm trả sử liệu về
với chính nó”. Ngồi ra, Phạm Xn Hằng cịn có bài viết như “Vận dụng
phương pháp sử liệu học trong đánh giá giá trị tài liệu chữ viết”, đăng trên Tạp
chí Văn thư - Lưu trữ (Số 4, 1982).
PGS.TS.
Nguyễn

Văn
Thâm

người
rất
quan
tâm
đến
sử
liệu

Sử
liệu
học:
học.
“Phương
Ơng
pháp
đã
cơng
hệ
thống
bố
nhiều

một
bài
vài
viết
ứng

trên
dụng
các
trong
tạp
chí
việc
khoa
nghiên
Nghiên
các
nguồn
cứu
lịch
sử
liệu
sử,
số
của
5,
lịch
1986;
sử
“Các
Việt
nguồn
Nam”,
sử
liệu


nhận
1991;
thức
“Về
lịch
tình
sử”
hình
đăng
nghiên
trên
cứu
tạp
sử
chí
liệu
Nghiên
học
ởtạp
cứu
Liên
lịch


sử,
các
số
5,
nước
tạp

chí

hội
Thơng
chủ
tin
nghĩa
KHXH,
khác
1983;
trong
viết
thời
chung
gian
với
vừa
GS.
qua”
Phan
đăng
Đại
trên
Dỗn:
“Mấy
Nghiên
vấn
cứu
đề
lịch

Sử
liệu
sử,
học
số
5,
lịch
1983;
sử
Việt
“Mấy
Nam”
vấn
đề
đăng
phân
trên
loại
tạp
các
chí
nguồn
sử
sử,
liệu
số
6,
của
1985;
lịch

viết
sử
Việt
chung
Nam”
với
đăng
Lâm
trên
Đình,
tạp
Nhật
chí
Tảo
Nghiên
bài
“Cần
cứu
khai
lịch
lịch
thác
sử
sử,
liệu
số
5/1980,...
một
cách
nghiêm

túc”
đăng
trên
chí
Nghiên
cứu

CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI

NGƯỜI THỰC HIỆN

TS. Nguyễn Văn Hiệp

TS. Hồ Sơn Diệp

13



×