Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Sử liệu học nội dung, chương trình và tổ chức giảng dạy ở trường đại học thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.39 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

KHOA LỊCH SỬ

ĐỀ TÀI

SỬ LIỆU HỌC: NỘI DUNG, CHƯƠNG TRÌNH
VÀ TỔ CHỨC GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
••
★★★

Chuyên đề

ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ
CỦA SỬ LIỆU HỌC
••
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI

NGƯỜI THỰC HIỆN

TS. Nguyễn Văn Hiệp

TS. Hồ Sơn Diệp




BÌNH DƯƠNG - THÁNG 12 NĂM 2014



Chuyên đề

ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ
CỦA SỬ LIỆU HỌC
••

1. Sử liệu học

••
Xét về mặt thuật ngữ, cụm từ “Sử liệu học” hầu như ít xuất hiện trong từ
điển của các nước. Cho đến nay trên phạm vi cả thế giới mới chỉ có cụm từ
HcTopuveckan lUKo.ia trong từ điển tiếng Nga và cụm từ Quellen kunde trong từ
điển tiếng Đức có nghĩa là “Sử liệu học”, riêng ở các nước phương Tây khác chỉ
có cụm từ critique des sources, hay historical source research mang nghĩa nghiên
cứu, phê phán các nguồn sử liệu.
Vậy sử liệu học là gì? Từ khi khoa học lịch sử hình thành, các nhà sử học
đã quan tâm đến sử liệu, coi sử liệu là thành tố không thể thiếu trong việc tái
dựng hiện thực lịch sử khách quan. Do vậy, để tái dựng hiện thực lịch sử, nghiên
cứu, biên soạn các cơng trình, tác phẩm lịch sử, các nhà sử học phải trả lời các
câu hỏi đại loại như, Sử liệu là gì? Tìm sử liệu ở đâu? Công việc sưu tầm sử liệu
được tiến hành như thế nào?...
Sau khi có sử liệu, các nhà sử học lại phải tiến hành chọn lọc, phân loại sử
liệu nhằm khai thác thông tin một cách thuận lợi nhất có hiệu quả nhất.
Sự lựa chọn sử liệu tùy thuộc vào sự nhận định, đánh giá chủ quan của nhà
sử học đối với các sử liệu; và sự phân loại sử liệu cũng được thực hiện tùy theo
cách nghĩ, cách làm của từng nhà sử học. Có nhà sử học chọn lọc, phân loại theo
thời kỳ lịch sử của sử liệu, theo địa bàn tồn tại, theo đặc điểm hình thức, theo tính
chất thơng tin, theo đặc điểm ngơn ngữ, theo đặc trưng vật chất hay tư tưởng,
theo sử liệu thành văn và không thành văn, theo khả năng cung cấp thông tin trực
tiếp hay thông tin gián tiếp... của sử liệu.

Trước khi khai thác thông tin từ sử liệu phục vụ mục đích nghiên cứu biên
soạn các cơng trình, tác phẩm lịch sử, việc xác định giá trị đích thực của sử liệu là
việc làm mang tính nguyên tắc đối với các nhà sử học. Nghĩa là, các nhà sử học
phát hiện được quy luật hình thành và chi phối nội dung của sử liệu. Trong hệ
thống sử liệu, có sử liệu đúng, có sử liệu sai, có những sử liệu không được tạo ra
bởi các hiện tượng, biến cố lịch sử mà được tạo ra vì mục đích nào đó của một cá
nhân, của một nhóm người, của một cộng đồng, hay của một giai cấp,...
Thông qua quá trình hình thành, vận động, phát triển của ngành khoa học
lịch sử, sử liệu nghiễm nhiên trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà sử học.
Sử liệu không những được các nhà sử học đề cập đến những công tác thực tiễn
1


như sưu tầm, chọn lọc, phân loại, phê phán,... của sử liệu, mà còn được bàn

2


nhiều về mặt lý luận như khái niệm, những dấu hiệu bản chất, thuộc tính, những
quy luật chi phối đến quá trình hình thành, vận động, phát triển và những quy luật
chi phối nội dung của sử liệu...; đồng thời hình thành nên hệ thống phương pháp
luận, phương pháp,... nghiên cứu và đề xuất các biện pháp, cách thức sử dụng sử
liệu trong việc nghiên cứu lịch sử, tái dựng hiện thực lịch sử, tiếp cận chân lý lịch
sử.
Có thể nói, những vấn đề về sử liệu lý luận và sử liệu thực tiễn đã được
các nhà sử học đề cập, giải quyết trong suốt từ lịch sử cổ đại cho đến ngày nay,
đó chính là tiền đề hình thành nên ngành Sử liệu học.
Như vậy, sử liệu học là ngành khoa học nghiên cứu sử liệu, với hệ thống
khái niệm riêng, thuật ngữ riêng, đối tượng nghiên cứu riêng, phương pháp
nghiên cứu riêng, mục đích ứng dụng riêng và có một lịch sử phát triển lâu dài.


2. Đối tượng của Sử liệu học

•~••
Là ngành khoa học chuyên nghiên cứu về sử liệu, tuy nhiên đối tượng của
sử liệu học không phải bản thân sử liệu mà là nguồn thông tin chứa trong sử liệu.
Chúng ta cũng đã biết rằng, nguồn thông tin phản ánh của từng sử liệu lại khác
nhau, mức độ chuẩn xác của thông tin cũng khác nhau; thậm chí có nhiều sử liệu
phản ánh thơng tin sai lệch, thiếu chính xác,... về hiện thực lịch sử, do vậy việc
nghiên cứu qui luật hình thành, vận động, phát triển của sử liệu và các yếu tố chi
phối nội dung thơng tin của sử liệu cũng chính là đối tượng nghiên cứu của sử
liệu học. Như vậy, đối tượng của ngành Sử liệu học là:
- Bản thân sử liệu (thông tin và kênh thông tin),
- Các qui luật chi phối quá trình hình thành, vận động, phát triển của sử
liệu,
- Các yếu tố ảnh hưởng, chi phối nội dung thơng tin của sử liệu.
Mục đích của các nhà sử học là thông tin từ sử liệu, khi tiếp cận với các
nguồn sử liệu là để khai thác thông tin. Nếu sử liệu khơng có thơng tin, thì các
nhà sử học khơng có lý do gì để tiếp cận sử liệu, do vậy, các thông tin chứa trong
sử liệu là đối tượng chính mà các nhà sử học mong muốn được tiếp cận, nghiên
cứu.
Trong nhiều tường hợp, nguồn thông tin trong sử liệu đặt ra các nhiệm vụ
cụ thể tiếp theo buộc các nhà sử học, nhà nghiên cứu phải thực hiện. Đơn cử như,
khi tiếp cận với các nguồn sử liệu về thành Cổ Loa, có nhiều ý kiến khác nhau về
vị trí của thành. Có ý kiến cho rằng, “Cái thành mà An Dương Vương đắp ở Việt
Thường chính là Việt Vương thành, có tên dân gian và thành Ốc (chữ là Loa
Thành), chứ không phải là thành Phong Khê, nằm trên đất Cổ Loa”1 2. Mà

1 . Đỗ Văn Ninh, Thành cổ Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1983, tr 31.
2



Việt Vương thành, hay Loa Thành, lại ở Cao Xá, tổng Cao Xá, ngày nay thuộc xã
Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Nếu như chúng ta công nhận thành Cổ Loa được đắp ở Việt Thường chính
là thành Phong Khê, ngày nay thuộc địa bàn Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội thì niên
đại của ba vịng thành Cổ Loa cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho
rằng, cả ba vịng thành có niên đại trước khi nhà Hán xâm lược, cai trị nước ta;
nhưng cũng có ý kiến cho rằng, các vòng thành, đặc biệt là vịng thành trong có
sự pha trộn niên đại trước thời nhà Hán, thuộc thời nhà Hán, hoặc các thời đại
tiếp sau đó.
Các thơng tin mà sử liệu cung cấp đã đặt ra cho các nhà sử học những vấn
đề cần phải nghiên cứu, làm rõ về thành Cổ Loa của An Dương Vương, thật sự
thành Cổ Loa được ở đâu, Nghệ An hay Hà Nội? Được xây dựng và hoàn thành
vào thời gian nào?
Để xác định độ tin cậy của thơng tin có từ sử liệu, các nhà sử học, nhà
nghiên cứu phải tìm hiểu quá trình hình thành, vận động, phát triển của sử liệu.
Sử liệu lại do con người tạo ra, nên nó khơng những bị chi phối bởi các quan hệ
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của thời đại sinh ra nó, mà cịn bị chi phối bởi
tư tưởng, quan điểm, mục đích, động cơ và trình độ,... của tác giả sử liệu. Do vậy,
để sử dụng sử liệu vào việc tái dựng hiện thực lịch sử, đối tượng của sử liệu mà
các nhà sử học phải tiến hành nghiên cứu là các qui luật chi phối quá trình hình
thành, vận động, phát triển của sử liệu; và các quy luật chi phối nội dung thông
tin của sử liệu.

3. Chức năng, nhiệm vụ của Sử liệu học
Với tư cách là một ngành khoa học, khoa học nghiên cứu về sử liệu, nhiệm
vụ đặt ra cho ngành Sử liệu học là nghiên cứu sử liệu cả về phương diện lý luận
lẫn về phương diện thực tiễn.
Về lý luận, Sử liệu học tổng hợp toàn bộ tri thức của con người về sử liệu,

làm rõ sử liệu là gì, vai trị vị trí của sử liệu đối với việc nghiên cứu lịch sử. Tìm
hiểu quá trình hình thành, vận động phát triển của sử liệu, tìm ra các qui luật, các
yếu tố chi phối đến quá trình hình thành, vận động, phát triển của sử liệu và các
chi phối nội dung phản ánh của sử liệu.
Sau khi giải quyết xong các vấn đề trên, sử liệu học có nhiệm vụ đề xuất
hệ thống phương pháp luận, hệ thống phương pháp nghiên cứu sử liệu và đề xuất
các nguyên tắc, cách thức khai thác thông tin từ sử liệu, sử dụng thông tin sử liệu
phục vụ cho việc tái dựng hiện thực quá khứ khách quan, đưa nhận thức của con
người tiệm cận với sự thật lịch sử, tìm ra chân lý lịch sử.
Về thực tiễn, Sử liệu học có nhiệm vụ hướng dẫn thực hành cơng tác sử
liệu, bao gồm, công tác sưu tầm, phân loại, chọn lọc, xác minh, phê phán sử
3


liệu; công tác khai thác thông tin từ các nguồn sử liệu phục vụ việc nghiên cứu,
biên soạn các công trình, tác phẩm sử học.
Cũng như các ngành khoa học khác, các nhiệm vụ của Sử liệu học có mối
quan hệ mật thiết với nhau.
Nghiên cứu sử liệu về mặt lý luận, nghĩa là sử liệu học được trang bị hệ
thống lý luận, phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu,... nhằm định hướng
cho các hoạt động thực tiễn của sử liệu. Ngược lại, các hoạt động thực tiễn của sử
liệu giúp sử liệu học hoàn thiện hơn về hệ thống lý luận, từ việc chuẩn hóa khái
niệm sử liệu, tìm ra các đặc điểm, các thuộc tính của sử liệu,... đến việc đề xuất
hệ thống phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu, cách thức sử dụng sử liệu,
khai thác thông tin từ sử liệu...
Các nhà sử học phương Tây đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo các thế hệ
sử gia trẻ với sự trang bị một hệ thống lý luận nghiêm chỉnh. Từ cuối thế kỷ XIX,
hai nhà sử học Pháp Ch. Langlois et Ch. Seignebos đã viết cuốn Introduction à
l'histoire (Nhập môn sử học, Paris, 1894) cho sinh viên Trường Đại học Paris
(Pháp). Trong đó, hai tác giả đã dành một phần quan trọng để đề cập đến sử liệu

và công tác sử liệu trong nghiên cứu và học tập lịch sử.
Đầu thế kỷ XX, vấn đề Phương pháp luận sử học càng được quan tâm
nhiều hơn. Sử liệu và một số vấn đề về Sử liệu học được xem là một trong những
nội dung cơ bản của Phương pháp luận sử học. Bên cạnh việc phân tích những
quy luật lịch sử, quy luật hình thành và phát triển của sử liệu, các nhà khoa học
rất quan tâm đến các nguồn sử liệu và cách phân loại nó. Nhà sử học người Ba
Lan Hendensman từ năm 1928 đã đưa ra những cách phân loại sử liệu tạo sự chú
ý đối với các nhà nghiên cứu. Đến giữa thế kỷ XX, một số tác phẩm bàn về
phương pháp luận và công việc của nhà sử học, tiêu biểu như tác phẩm The
Historian's Craft của Marc Bloch (Manchester University Press, 1954), J.
Topolski với Methodology of History (Phương pháp luận sử học, 2 tập, đã được
Nxb. Bộ ĐH và THCN, dịch và xuất bản năm 1968, 1970). Trong Methodology
of History, J. Topolski rất quan tâm đến tính xác thực của sử liệu. Khi đánh giá độ
xác thực, độ tin cậy của tư liệu lịch sử, J. Topolski cho rằng, “Nghiên cứu những
đặc tính bên ngồi của nguồn (tức là tất cả trừ nội dung những thông tin do các
nguồn truyền đạt) cũng như xác định một cách tổng quát sự phê phán bên ngồi những cơng việc này có thể xem xét theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, và ông phân
biệt thành 4 khái niệm: Xác thực 1: tri thức về thời gian hình thành và địa điểm
xuất phát về nguồn tài liệu. Xác thực 2: được tương đối hóa theo tính chất của
thơng tin mà chúng ta tìm trong nguồn tài liệu (với vấn đề này thì là xác thực, vấn
đề khác là không xác thực). Xác thực 3: vấn đề giả mạo tài liệu. Xác 4
thực 4: tính nguyên thủy của nguồn tài liệu. Theo Topolski, việc lưỡng phân


nguồn thành nguồn thành văn và không thành văn “mà chúng tôi gọi là khoa học
về nguồn lưu ý đến tầm quan trọng lớn lao (đối với các nhà sử học theo nghĩa
chính xác nhất) của các nguồn thành văn. Tiêu chuẩn phân loại là sự tồn tại của
bản chữ viết. Không cần phải nhấn mạnh rằng, phần lớn các lý giải của chúng ta
trước đây về cái gọi là những khoa học hỗ trợ cho sử học đều liên quan với việc
nghiên cứu văn tự (cổ văn học, tân văn học)”. Có lẽ đây là bước ngoặt quan trọng
trong quá trình hình thành Sử liệu học.

Những thập niên cuối thế kỷ XX, Sử liệu học đã tiến thêm một bước mới
khi các vấn đề về tầm quan trọng của sử liệu trong nghiên cứu lịch sử; quy lật chi
phối và tính xác thực của sử liệu; nguyên tắc phân loại các nguồn sử liệu; phương
pháp phân tích - phê khảo sử liệu,... đã được tranh luận một cách sổi nổi và hình
thành nên các trường phái Sử liệu học. Eropheev viết Lịch sử là gì? (Tài liệu
dịch, Nxb. Giáo dục, 1981, Hà Nội) đã góp phần giải quyết các vấn đề trên.
Năm 1985, Jan Vansina cho xuất bản cuốn Oral Tradition as History (First
Pubished, James Currey (London) and Heinemann Kenya (Nairobi) Press, 1985),
trong đó ơng đã tâm đắc với D. Henige khi nhà khoa học này đưa ra khái niệm
“tính hồi tiếp” giữa các nguồn sử liệu - hay tính khơng hồn tồn độc lập của các
nguồn. Đây là khái niệm mà D. Henige - người đã dành sự quan tâm mạnh mẽ
nhất tới sự cung cấp của tài liệu viết trong các truyền thống truyền miệng - đưa ra
để chỉ quá trình vay mượn giữa các nguồn tài liệu. Bản thân Jan Vansina khi
nghiên cứu các truyền thống truyền miệng cũng lưu ý rằng, nhà sử học nên ý thức
về những sự lan truyền hịa trộn có thể có và những sự vay mượn giữa các nguồn
với nhau.
Nhà sử học người Nga Chi-khơ-mi-rốp cho rằng tư liệu lịch sử là tất cả
những gì cịn lại của cuộc sống đã qua. Ơng đã góp tiếng nói rất quan trọng giúp
mọi người hiểu đúng hơn về Thế chiến thứ hai khi đặt ra yêu cầu phải xác minh
tư liệu trước khi cơng bố về các sự kiện lịch sử. Cịn trong phương diện triết học,
Lapađanhiepxki định nghĩa: Tư liệu lịch sử là khái niệm phản ánh đặc tính của
hiện vật có thể được để thu nhận tri thức của hiện vật khác.
Nhà sử học người Pháp thế kỷ XX Lucien Fevre (1878 - 1956), đã gọi “tư
liệu thư tịch” là “những bơng hoa quen thuộc”cũng xác nhận một cách hình
tượng rằng: “Khi khơng có những bơng hoa quen thuộc, nhà sử học vẫn có thể
hái mật cho mình từ tất cả những gì mà tuệ của anh ta đưa vào tầm ngắm” và
5


“tất cả những gì”mà Lucien Fevre ám chỉ chính là “những gì thuộc về con người,

phụ thuộc con người, phục vụ con người, thể hiện sự hiện hữu, hoạt động, sở
thích và các phương thức sinh sống của con người”. Nhà sử học kiêm triết gia
người Anh R. Jh. Collingwood cũng như A. Ia. Gurevich trong Con người trong
lịch sử (Moscow, 1997) diễn đạt một cách đơn giản, dễ hiểu, song không kém
phần khoa học: “Mọi thứ trên đời đều là chứng cứ tiềm tàng của cái gì đó”.
M.I. Paramonova với Lịch sử nhận thức sử học (Nxb. Khoa học, M. 2000,
bản tiếng Nga). Trong một thời gian khá dài đã tồn tại quan niệm cho rằng, chỉ có
nguồn sử liệu chữ viết (thư tịch) mới có thể coi là nguồn sử liệu và là nguồn sử
liệu có giá trị, cịn những nguồn sử liệu khác đều khơng đáng tin cậy. Quan niệm
này khá phổ biến đối với trường phái sử học Thực chứng (positivisme), mà đại
diện điển hình là nhà sử học người Pháp Numa Denis Pustele De Coulage (1830 1889) - người được mệnh danh là “kẻ sùng bái thư tịch”, khi ông tuân thủ và chỉ
hành động theo một phương châm duy nhất: “Văn bản, chỉ có văn bản, khơng có
gì khác ngồi văn bản”.
Gần đây, Martha Howell và Walter Frevenier cho xuất bản cuốn From
Reliable Sources: An Introduction to Historical Methods (Từ những nguồn đáng
tin cậy: Nhập môn các phương pháp sử học, Bản dịch của Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Trong đó, hai nhà
khoa học đã nhận thấy thực tế các nhà lý thuyết thường tập trung vào nguồn chữ
viết và cũng đồng quan điểm coi nguồn văn tự là “bà hoàng” của các nguồn: .
Đây là những dạng câu hỏi được các nhà sử học thế kỷ XX tập trung tới, và
những học giả này đã phát triển những công cụ tinh vi để viết về các nguồn. Tất
cả họ tập trung vào bản thân nguồn, chủ yếu là nguồn chữ viết, văn bản, và đặc
biệt là những nguồn được coi là bà hoàng của các nguồn, những điều lệ hay văn
bản”. John Tosh, The Pursuit of History: Aims, Methods and new Directions in
the Study of Modern History (revised third edition, 2002). Trong đó, ơng đánh giá
tính xác thực của tư liệu lịch sử. “Trước khi nhà sử học có thể đánh giá chính xác
ý nghĩa của một văn bản, họ cần phải tìm ra được khi nào, tại sao và bằng cách
nào nó lại xuất hiện”. Theo ơng, nhà sử học làm việc với tài liệu viết tay cần phải
có chút gì đó giống nhà cổ tự học để xác định liệu chữ viết đó có đúng với địa
điểm và thời gian đó khơng, lại giống với nhà ngữ văn học đánh giá phong cách

và ngôn ngữ của một văn bản đáng nghi và cho rằng sẽ là sai lầm khi gợi ý rằng
các nhà sử học liên tục phát hiện ra những sự giả mạo hoặc họ kiểm tra về mặt
phương pháp tính xác thực của mọi tài liệu mà họ gặp. Ông chủ trương cấp độ
6


thứ nhất của phê phán bên trong là diễn giải nội dung của văn bản: “Cứ cho là tác
giả, thời gian và địa điểm của tài liệu là như nó được cho là, chúng ta làm gì từ
những từ ngữ ở trước mặt? Ở một cấp độ thì đây là câu hỏi về ý nghĩa. Điều này
không chỉ đơn thuần liên quan đến việc dịch nghĩa từ một ngôn ngữ cổ hoặc một
ngoại ngữ,... Nhà sử học địi hỏi khơng chỉ phải thông thạo ngôn ngữ mà phải
tinh thông bối cảnh lịch sử, điều sẽ cho biết các từ ngữ trong văn bản thực sự nói
gì”.
M.G. Lebedev trong Phương pháp luận sử học (Nxb. Khoa học xã hội,
Moscow. 2005) đã dẫn lời nhà sử học Ba Lan Topolski với một định nghĩa khá
đầy đủ rằng: “Nguồn sử liệu là mọi thông tin về đời sống con người trong quá
khứ cùng với các kênh thơng tin”.
Một vấn đề quan trọng góp phần đáng kể trong sự phát triển của Sử liệu
học là việc phân tích và phê phán sử liệu. Với tư cách là một phương pháp cơ bản
của Sử liệu học, q trình phát triển của nó gắn với q trình hình thành và phát
triển của Sử liệu học. Phương pháp phân tích - phê khảo sử liệu h/nalysiscriticizing historical documents method) ra đời nhờ công sức, sự cố gắng, nỗ lực
của nhiều nhà nghiên cứu. Phương pháp này có nguồn gốc từ phương pháp phê
phán sử liệu, mà người sáng lập ra phương pháp này là nhà bác học người Đức
G.B.Niburu (1776 - 1831). Ông quan niệm hoạt động của nhà sử học tựa như giải
một bài toán hai ẩn số: Thứ nhất, phân tích - phê phán các nguồn sử liệu với mục
đích phát hiện thơng tin đáng tin cậy; thứ hai, phục dựng lại hiện thực lịch sử trên
cơ sở các dữ liệu, thông tin thu nhận được. Phương pháp phê phán sử liệu trở nên
thông dụng và được định hình rõ ràng hơn từ giữa thế kỷ XVIII. Nhà sử học Nga
Bestyghep - Riumin (1829 - 1897) cho rằng, phê phán sử liệu tương đồng với quá
trình nghiên cứu so sánh các sử liệu và bằng cách đó, dùng tư liệu này để kiểm

chứng tư liệu khác. Trong những năm 1842 - 1849, cơng trình gồm 20 tập “Cours
d'études historiques” (Tạm dịch từ tiếng Pháp là “Bài giảng về nghiên cứu lịch
sử”) của nhà sử học Claude Francois Daunon (1761 - 1840), được xuất bản (sau
khi Claude Francois Daunon đã mất), trong đó tồn bộ tập thứ nhất được giành để
định nghĩa về phương pháp phê phán sử liệu cùng với cách phân chia sử liệu. Vào
năm 1858, với cơng trình “Grundriss der Historik” (Tạm dịch từ tiếng Đức là
“Sơ đồ phân tầng sử liệu”), nhà sử học I. G. Droysen (1808 - 1884) đưa ra
phương pháp phê phán từng nhóm sử liệu riêng biệt. Năm 1876, giáo sư sử học
Ad. Tardif xuất bản cơng trình “Notions élémentaires de critique historique”
(Tạm dịch từ tiếng Pháp là “Các khái niệm của phê phán sử liệu”), trong đó,
ngồi việc liệt kê hàng loạt phương pháp cơ bản, cần thiết để phê phán sử liệu,
7


cịn đưa ra những lời khun hữu ích khi làm việc với sử liệu cho những người
mới bắt đầu nghiên cứu. Năm 1883, nhà sử học Ch. De Smedt trong tác phẩm
Các nguyên tắc phê phán sử liệu (Principes de la critique historique), đã trình
bày những nguyên tắc phê phán đối với sử liệu viết và chỉ ra những phương pháp
bổ trợ cơ bản để thực hiện quá trình phê phán sử liệu. Sau đó một thời gian dài,
hai nhà sử học Sharle Victor Langlois (1863 - 1929) và Sharle Seniobos (1854 1942) trong cơng trình “Nhập mơn nghiên cứu sử học” (1897) đã đưa ra những
quy tắc phê phán sử liệu, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tới vấn đề tổng hợp các sự
vật rời rạc thu được và xây dựng chuỗi các qui tắc cần thiết để nhóm hóa các sự
vật rời rạc thành chỉnh thể khoa học. Đóng góp quan trọng cho sự phát triển của
phương pháp phê phán sử liệu phải kể đến nhà sử học lỗi lạc người Nga A.S.
Lappo - Danilevxki (1863 - 1919) với cuốn giáo trình “Phương pháp luận sử
học” (1910 - 1913), đã xác định cách thức, nguyên tắc phân loại sử liệu, các
phương pháp diễn giải và phê phán nguồn sử liệu. Như vậy, trong khoảng thời
gian từ thế kỷ XVII - XVIII, phương pháp phê phán sử liệu được hình thành về
căn bản.
Thơng thường, những nhà nghiên cứu đặt nền móng cho phương pháp phê

phán sử liệu, cũng như những người phát triển phương pháp này trong những giai
đoạn tiếp theo, đều coi mục đích chính của phê phán sử liệu là xác định mức độ
tin cậy của sử liệu trên mọi phương diện, và đã chia quá trình phê - khảo sử liệu
thành hai giai đoạn: Phê phán bên ngoài (làm rõ tất cả các dữ liệu bên ngoài của
sử liệu, xác định xuất xứ - tác giả, thời gian, địa điểm và mục đích việc sáng tạo,
tính xác thực của nguồn sử liệu) và phê phán bên trong (xác định tính đầy đủ,
tính xác thực của các thơng tin chứa trong nguồn sử liệu - suy đốn kín), mỗi giai
đoạn có nhiệm vụ riêng, và vì thế, cần sử dụng những cách thức, phương pháp
nghiên cứu riêng. Quan điểm này thịnh hành đến trước những năm 1970 và rất
nhấn mạnh đến vai trò, tầm quan trọng của phê phán bên trong, vì cho rằng, đây
là giai đoạn quyết định; đồng thời, khi thực hiện thao tác này, dưới ảnh hưởng của
cuộc đấu tranh ý thức hệ và Chiến tranh lạnh, ở rất nhiều quốc gia trên thế giới,
cách tiếp cận xã hội - giai cấp được coi là quan trọng nhất, chủ chốt nhất. Việc
xác định nguồn gốc giai cấp, vị trí xã hội của tác giả sử liệu được xem là quan
trọng hàng đầu.
Vào những năm 80 - 90 của thế kỷ XX, cách chia quá trình phê phán sử
liệu một cách cứng nhắc thành phê phán bên trong và bên ngoài được xem xét lại.
Điều này thể hiện khá rõ nét trong Phương pháp luận sử học Xô viết - lĩnh vực
mà Phương pháp luận sử học Việt Nam có mối liên hệ gắn bó, gần gũi, kế thừa.
8


Các nhà sử học Nga và thế giới cùng chung quan điểm: (1) Không phải tất cả mọi
nguồn sử liệu phục vụ mục đích nghiên cứu đều có giá trị cao, vì thế, việc sàng
lọc sử liệu được coi là công việc quan trọng thứ hai sau khi xác định vấn đề
nghiên cứu. Tuy rằng, để lựa chọn, sàng lọc đúng đắn sử liệu, nhà sử học đã cùng
lúc sử dụng thủ pháp phân tích - phê phán; (2) một khi mục đích và nội dung của
cả hai hình thức phê phán sử liệu bên ngoài và bên trong gắn bó logic, chặt chẽ
trong một thể thống nhất, và ranh giới giữa chúng rất mờ nhạt, mong manh, thì
việc phân chia quá trình làm việc với sử liệu thành hai giai đoạn như vậy đã bộc

lộ sự vô lý, mang nặng tính hình thức và khơng cần thiết.
Kovalchenko I.D. Istoricheskij istochnik v sele uchenija ob informacii (Sử
liệu qua lý thuyết thông tin) trong Istorija, SSSR, 1982, số 2.
Nhà sử học người Nga E.M. Giukov - Viện sĩ Viện Khoa học Nga đã rất
xác đáng cho rằng: “Trên thực tế, rất khó khăn và hầu như khơng thể chia một
cách tuyệt đối, hoàn toàn phê phán sử liệu thành phê phán bên trong và bên ngoài
trong một chuỗi các hoạt động nghiên cứu. Giải mã sử liệu và định vị nó - là
những nhiệm vụ liên quan vô cùng chặt chẽ và thường diễn ra cùng lúc”. Đúng
như nhà sử học A. Ya. Gurevich đã kết luận: “Nhà nghiên cứu lịch sử luôn luôn
đơn độc vật lộn với nguồn sử liệu, bởi vì nguồn sử liệu vừa là cơng cụ duy nhất
của nhận thức, vừa là trở lực” (A. Ia. Gurevich, Lãnh địa của nhà sử học,
Odissei, 1996).
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
TS. Nguyễn Văn Hiệp
NGƯỜI THỰC HIỆN
TS. Hồ Sơn Diệp

9



×