Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Vai trò của nguyễn ái quốc đối với quá trình thành lập đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.9 KB, 27 trang )

A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là sản phẩm của
sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lê Nin với phong trào cơng nhân và phong
trào u nước Việt Nam. Đó là kết quả tất yếu của những điều kiện
khách quan và chủ quan, đầy đủ các tiền đề tư tưởng, chính trị và tổ
chức của Nguyễn Ái Quốc. Để đảm bảo cho một Đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân ra đời ở nước thuộc địa nửa phong kiến, Nguyễn
Ái Quốc đã từng bước nhận thức về con đường cách mạng và xúc tiến
hoạt động và thực tiễn một cách thận trộng nhưng rất sáng tạo vừa
đảm bảo quy luật chung của sự ra đời của Đảng cộng sản, vừa có nét
phù hợp với điều kiện, đặc điểm thực tế ở Việt Nam, một nước nông
nghiệp lạc hậu, giai cấp cơng nhân số lượng ít, trình độ dân trí thấp lại
bị phong tỏa trong sự kiểm duyệt bắt bớ, đàn áp khóc liệt của đế quốc,
phong kiến.
Do đó việc lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn để giải
phóng dân tộc Việt Nam và hoạt động truyền bá đưa chủ nghĩa MácLênin và phong trào công nhân yêu nước và phong trào yêu nước, xúc
tiến chuẩn bị những tiền đề tưởng, chính trị và tổ chức cho Đảng Cộng
sản ra đời là sự sáng tạo lớn của đồng chí Nguyễn Ái Quốc .
Nguyễn Ái Quốc người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam và
chính Người đã vạch cương lĩnh Cách Mạng, định hướng cho Cách
Mạng Việt Nam đi từ Cách Mạng dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, nhiệm vụ giải phóng
dân tộc giữ vị trí hàng đầu và thực hiện bằng sự tập trung cao độ sức
mạnh của toàn dân tộc, của giai cấp các tầng lớp nhân dân thiết tha với
độc lập dân tộc, chống lại ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và bọn
1


phong kiến tay sai. Nhiệm vụ dân chủ được đặt trong mối quan hệ


chặt chẽ với việc thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, tức là thực
hiện cách mạng ruộng đất, đáp ứng nguyện vọng thiết tha bức xúc
nhất của giai cấp công nhân, nhằm đảm bảo thúc đẩy cuộc giải phóng
dân tộc đi đến thắng lợi và giữ vững khối đoàn kết toàn dân. Chủ
trương đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc là sự kết hợp nhuần nhuyễn
quan điểm dân tộc và quan điểm giai cấp, trong điều kiện cụ thể của
Cách Mạng Việt Nam trên lập trường giai cấp vô sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã thu phục được
tầng lớp nhân dân: Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tiểu tư sản
và phú nông, tư sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ đi theo Đảng làm cách
mạng giải phóng dân tộc, mở đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng thực hiện sự nghiệp đổi
mới đất nước, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức đẩy mạnh
CNH, HĐH, quyết tâm biến nước ta thành một nước công nghiệp năm
2020.
Để làm sáng tỏ thêm công lao to lớn của Người đối với cách
mạng Việt Nam và góp phần làm rõ hơn những căn cứ khoa học và
thực tiễn, phê phán những luận điều sai trái, phản động, cố tình xuyên
tạc lịch sử, phủ nhận con đường cách mạng mà Bác Hồ, Đảng và nhân
dân ta đã lựa chọn; trên cơ sở đó củng cố niềm tin, khẳng định chắc
chắn hơn ý nghĩa thực tiễn về vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng
Cộng sản Việt Nam, nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam; góp phần vào thực hiện vào việc tuyên truyền, giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh trong mọi tầng lớp nhân dân theo quan điểm,
đường lối đổi mới của Đảng.
Việc chọn đề tài “Vai trò của Nguyễn ái Quốc đối với quá trình
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam”. Từ đó cho ta chúng ta hiểu thêm

2



những con đường sự nghiệp Cách Mạng của Người và nhất là sự lựa
chọn này là đúng đắn phù hợp với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ
cũng như hiện nay. Đó là lý do chính để tơi chọn đề tài này.

2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Đã có rất nhiều học giả nghiên cứu về vai trò của Nguyễn Ái
Quốc trong quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như
cuộc đời và sự nghiệp của Người. Vì vậy bằng kiến thức ít ỏi của
mình tơi cũng chỉ xin góp thêm một phần nhỏ để làm rõ thêm vai trị
của Nguyễn Ái Quốc đối với q trình thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.

3.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài.
3.1. Đối tượng nghiên cứu đề tài .
Nghiên cứu đề tài “Vai trị của Nguyễn ái Quốc đối với q
trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam”, tôi xác định đối tượng
nghiên cứu là những nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội… Việt Nam và
thế giới đã ảnh hưởng đến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc trong quá
trình tìm đến với Cách Mạng vơ sản cũng như q trình thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự lựa chọn này là hoàn toàn đúng đắn và
phù hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ của Việt Nam cũng như hiện
nay.
3.2.Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Chúng tôi tập trung nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến tư
tưởng của Nguyễn ái Quốc trên bước đường tìm đến với chủ nghĩa
Mác- Lênin, quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam
cũng như vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.
3



4.Nguồn tài liệu, phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện nghiên cứu đề tài: “Vai trò của Nguyễn Ái Quốc
đối với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ” chúng tôi tập
trung khai thác các nguồn tài liệu:
Tài liệu thành văn: Các văn kiện của Đảng Công sản Việt Nam,
chủ nghĩa Mác- Lênin, Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Sơ thảo lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh biên niên sử:
Tài liệu điền rã: Những cuộc trao đổi thảo luận giữa các nhà
nghiên cứu, nhà khoa học trong trường Đại Học Vinh và các nhà lão
thành cách mạng đã nghỉ hưu…Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử
dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp lịch sử, phương
pháp logic và phương pháp cơ bản để vận dụng nghiên cứu. Ngoài ra
sử dụng phương pháp chuyên ngành như thống kê, so sánh, đối chiếu,
phân tích, tổng hợp tư liệu thành văn và với tư liệu điền rã để sử lý
trong các nguồn tài liệu, để đưa ra nguồn tài liệu chính xác nhất.
5. Đóng góp của đề tài.
Với đề tài: “ Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam” nhằm trình bày một cách cụ thể
đầy đủ có hệ thống những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc đối với q
trình thành lập Đảng Cộng sảniệt Nam.
6. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích: Đề tài hướng tới 2 mục đích chính sau đây:
Tìm hiểu q trình tìm đến và lựa chọn con đường Cách
Mạng Vô sản của Nguyễn ái Quốc.
Sự truyền bá chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác- Lênin và con
đường vào nước ta và hướng cách mạng nước ta theo con
đường Cách Mạng vô sản.
4



Nhiệm vụ: Làm rõ hơn sự lựa chọn đúng đắn của Nguyễn Ái
Quốc đối với sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
7. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phục vụ, nội
dung của đề tài được chia làm hai chương:
Chương 1: Lý luận chung của chủ nghĩa Mác – Lênin về con
đường Cách Mạng vô sản.
Chương 2: Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của
Nguyễn Ái Quốc.

B. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1.
LÝ LUẬN CHUNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ
CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN.

1. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Ăngghen về cách mạng vô
sản.
Theo lý luận của Mác- Ăngghen về cách mạng vô sản là cuộc
cách mạng mà giai cấp vô sản làm nhằm lật đổ ách áp bức bóc lột và
thống trị của giai cấp tư sản, tiến lên xây dựng một xã hội mới tốt đẹp
hơn do giai cấp vô sản và nhân dân lao động làm chủ.
1.1. Lý luận về giai cấp vô sản.
Theo hai ông thì giai cấp vơ sản phát triển cùng với chủ nghĩa
tư bản, họ buộc phải đem bán sức lao động để kiếm sống và do đó
dưới con mắt của chủ nghĩa tư bản họ được xem như một món hàng

5



hố nào khác. Họ bị phụ thuộc hồn tồn vào giai cấp tư sản, chịu sự
bóc lột thặng dư của giai cấp tư sản nên ngày càng bần cùng.
Trong điều kiện bị bóc lột như vậy giai cấp vơ sản phải đứng
lên đấu tranh. Ban đầu chỉ do sự phản kháng của những người công
nhân riêng lẻ Xoangxe, rồi đến những cuộc đấu tranh của những công
nhân cùng một xưởng, sau đó là cơng nhân cùng một ngành chống lại
tư sản trực tiếp bóc lột họ. Lúc đầu là những hành động bạo động tự
phát như đập phá máy móc, đốt cơng xưởng…Giai cấp vơ sản khi đó
là một đám quần chúng phân tán chưa tìm thấy bản chất tồn bộ của
giai cấp tư sản. Cho đến những thắng lợi giành được đều không thuộc
vào họ mà rơi vào tay giai cấp tư sản.
Sau này khi sự bóc lột tăng, đời sống công nhân ngày càng bấp
bênh, điều kiện lao động tập trung…thì trình độ giác ngộ của giai cấp
vơ sản được nâng cao. Sự xung đột của tư sản và vơ sản đến đây
khơng cịn có thể điều hồ được nữa.
Giai cấp vơ sản trong q trình đấu tranh của mình dần dần
nhận thức được vai trị lịch sử của mình “Trong tất cả các giai cấp
hiện đang đối lập với giai cấp tư sản chỉ có giai cấp vơ sản là thực sự
cách mạng” (TNĐCS) vì: Giai cấp vơ sản có liên hệ trực tiếp với sản
xuất tiên tiến, gắn liền với sản xuất hiện đại. Cho nên họ là giai cấp
tiền đề nhất, lớn mạnh và phát triển cùng với sự phát triển của thời
đại công nghiệp.
Mục đích chủ quan của giai cấp vơ sản phù hợp đến sự khách
quan của lịch sử. Mục đích của giai cấp vô sản là lật đổ chủ nghĩa của
giai cấp tư sản phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Điều đó
quyết định tính tất thắng vai trị có ý nghĩa lịch sử tồn thế giới của
giai cấp vô sản.


6


Giai cấp vơ sản khơng có chút tài sản gì nên họ triệt để đấu
tranh chống tư sản. Trong quá trình đấu tranh đó họ khơng mất gì
ngồi xiềng xích và nơ lệ.
Giai cấp vơ sản chính là một lực lượng có tổ chức là một qn
đội đơng đảo, hùng mạnh và tập trung trong các xưởng máy lớn. Điều
kiện đó tạo ra cho họ một hình thức tổ chức kỹ luật vững vàng.
Trong khi tiến hành đấu tranh chống tư sản thì giai cấp vơ sản
khơng mưu lợi ích riêng cho mình nên được sự ủng hộ của các tầng
lớp nhân dân.
Chính vì những lí do nêu trên mà giai cấp vô sản là lật đổ
CNTB, là giai cấp đào huyệt chơn CNTB, giải phóng tồn nhân loại
“Sự sụp đổ của giai cấp tư sản là thắng lợi của giai cấp vô sản là tất
yếu như nhau”(TNĐCS).
1.2. Lý luận về Cách Mạng vô sản.
Mác-Anghen nêu rõ cuộc cách mạng vô sản nếu muốn giành
thắng lợi, giai cấp vô sản phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc,
dân chủ thì mới đồn kết được nhân dân nước mình vùng dậy đấu
tranh. Mác viết: Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy
chính quyền, phải xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình
trở thành dân tộc. Cho nên họ phải có tính dân tộc. Bên cạnh đó vấn
đề để làm sao cách mạng giành được thắng lợi đã được Mác Ăngghen xây dựng lên thành những lí luận cơ bản và trọng yếu về
chính quyền vô sản và cách mạng vô sản.
Mác- Ăngghen nêu rõ muốn xoá bỏ quan hệ sản xuất TBCN
điều trước hết phải xố bỏ tư sản xây dựng chính quyền vơ sản. Mục
đích trước mắt của những người cộng sản là: Tổ chức những người vô
sản thành một giai cấp lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp
vơ sản giành lấy chính quyền(TNĐCS), muốn giành được chính quyền

7


và xây dựng chính quyền đó vào mục đích của giai cấp vơ sản thì phải
trải qua cách mạng vơ sản, phải dùng bạo lực cách mạng, khi giành
được chính quyền thì giai cấp vơ sản phải: “Dùng bạo lực triệt tiêu chế
độ sản xuất cũ”.
Mác- Ăngghen cũng nhấn mạnh cách mạng vô sản muốn giành
thắng lợi phải thành lập Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân. Đồng
thời phải liên minh với bộ phận cấp tiến trong giai cấp vơ sản. Nhưng
sự ủng hộ và liên minh đó khơng phải trả bằng bất cứ giá nào, mà phải
tuân theo những quy tắc nhất định.
Trong khi đấu tranh chung với giai cấp tư sản Đảng Cộng sản
không quên phê phán tính chất khơng triệt để của người bạn đồng
hành tạm thời đó. Đồng thời giai cấp vơ sản phải nhận thức đầy đủ
mục đích cuối cùng của mình là đấu tranh cho chủ nghĩa cộng sản. Họ
phải đảm bảo tính chất về chính trị và tổ chức cảu mình để tiếp tục
đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.

2. Lý luận Lênin.
Trên cơ sở kế thừa bổ xung và phát triển sáng tạo học thuyết
của Mác và Ăngghen, Lênin đã bổ xung vào kho tàng chủ nghĩa Mác
nhiều luận điểm quan trong về cách mạng vô sản thời đế quốc chủ
nghĩa.
Trước hết Lênin đã chỉ ra khả năng thắng lợi của cách mạng vô
sản, cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trước hết trong một số nước hoặc
trong một số nước riêng lẻ.
Cách mạng vô sản muốn giành thắng lợi phải thành lập được
một chính Đảng kiểu mới lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm kim chủ
nam, lấy phương châm phê bình và tự phê bình đảm bảo sự trong sạch

của Đảng.
8


Đặc biệt Lênin đã phát triển lí luận của chủ nghĩa Mác về cách
mạng vô sản thành lý luận cách mạng giải phóng dân tộc gắn với cách
mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
Lênin cũng nêu rõ nền chun chính vơ sản là nền chun chính
của đại đa số nhân dân lao động đối với bọn bóc lột là nền chun
chính đối với nhân dân lao động.
Ngồi ra Lênin còn đưa ra nhiều luận điểm quan trọng về liên
minh công- nông, về bản chất của giai cấp về tư sản trong thời kỳ đế
quốc chủ nghĩa.
Tóm lại những luận điểm của Mác- Lênin về cách mạng vô sản
đã trở thành kim chỉ nam, là ngọn đèn soi sáng cho cách mạng vô sản
nước ta giành nhiều thắng lợi lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc. Nó trở thành nguồn lý luận cho phong trào cách mạng thế
giới nói chung và phong trào cách mạng Việt Nam nói riêng. Mặt khác
chính Nguyễn Ái Quốc là người đã áp dụng thành cơng lí luận cách
mạng Mác- Lênin và cách mạng Việt Nam và thành công rực rỡ bằng
cuộc cách mạng tháng 8 – 1945.

CHƯƠNG 2.

SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN CỦA
NGUYỄN ÁI QUỐC

Như chúng ta đã biết, phong trào yêu nước chống Pháp của
nhân dân ta nổ ra ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân đến xâm lược
nước ta (1858) và kéo dài suốt nửa sau thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Mặc dù các phong trào yêu nước diễn ra liên tục, sôi nổi, rộng lớn. Có

9


lúc quyết liệt như đầu thế kỷ XX Phan Bội Châu chủ trương dựa vào
sự giúp đỡ bên ngoài để đánh Pháp hay Phan Châu Trinh dùng những
cải cách văn hố, mở mang dân trí, phát triển kinh tế theo hướng tư
bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước
mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho Việt Nam. Vào
năm 1919–1923 có phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản
và địa chủ...song cuối cùng đều thất bại vì khủng hoảng về đường lối,
rơi vào tình trạng chìm đắm trong đêm tối “dường như khơng có
đường ra” vì lúc đó giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu về cả kinh tế
và chính trị nên khơng đủ sức giương cao ngon cờ lãnh đạo sự nghiệp
giải phóng dân tộc.
Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh
hướng dân chủ tư sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước
của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, nhất
là lớp thanh niên tri thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa
một con đường mới, một giải pháp cứu nước giải phóng dân tộc theo
xu thế của thời đại và nhu cầu mới của nhân dân Việt Nam. Trước yêu
cầu cấp bách của lịch sử dân tộc lúc đó. Nguyễn Ái Quốc đã quyết
định lên đường đi tìm đường cứu nước cho dân tộc, mang lại giải
phóng cho dân tộc.

1.Hoàn cảnh lịch sử.
1.1. Vài nét về hoàn cảnh lịch sử.
Nguyễn ái Quốc sinh ngày 19/5/1890 tại làng Kim Liên – huyện
Nam Đàn – tỉnh Nghệ An, thủa nhỏ người có tên là Nguyễn Sinh

Cung, lớn lên đổi tên là Nguyễn Tất Thành. Sinh ra trong một gia đình
nhà nho nghèo, yêu nước, nguồn gốc nông dân, lớn lên gặp buổi nước
mất nhà tan, lại được chứng kiến sự thất bại của các phong trào yêu

10


nước, được tiếp súc với nhiều nhà cách mạng đương thời, được sống
trên mảnh đất quê hương có truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên
cường…Tất cả đã sớm hun đúc ở Nguyễn Ái Quốc lòng yêu nước và
Người đã quyết trí ra nước ngồi tìm con đường cứu nước mới khác
với con đường đấu tranh chống Pháp của các bậc tiền bối mà Người
rất khâm phục. Người quyết định sang phương Tây chứ khơng sang
Nhật Bản, để tìm hiểu nước Pháp và các nước khác làm gì để về giúp
đồng bào.
1.2. Quá trình tìm đường cứu nước và đến với chủ nghĩa
Mác- Lênin.
Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc đã lên đường sang các nước
Phương Tây, nơi có khoa học – kỹ thuật phát triển và những tư tưởng
tự do dân chủ xem họ làm như thế nào để trở về nước giúp đồng bào
ta cởi ách xiềng xích nơ lệ. Từ năm 1911–1917 Người đi qua nhiều
nước tư bản, đế quốc, thuộc địa, phụ thuộc, làm nhiều nghề để sống
nhưng trong lịng vẫn ln nung nấu một hồi bão là làm sao tìm được
con đường cứu nước, cứu dân. Thời gian này Người được sống gần
gũi với những người lao động ở nhiều nước, hiểu rõ hoàn cảnh và
nguyện vọng của họ trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Đó chính là
cơ sở trự tiếp đầu tiên giúp Người dễ dàng nhận thức sự đoàn kết quốc
tế của nhân dân bị áp bức trên thế giới và có cơ sở thực tiễn để tiếp thu
quân điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác–
Lênin. Người nhận thấy cuộc cách mạng tư sản Mỹ và Pháp “chưa đến

nơi” vì quần chúng nhân dân vẫn đói khổ.
Vào cuối năm 1917, giữa lúc cuộc chiến tranh thế giới đang
diễn ra thì cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga bùng nổ
làm chấn động toàn cầu, với sự nhạy bén về chính trị đặc biệt, Người
đã hướng tới ánh sáng của cách mạng tháng Mười và chịu sự ảnh

11


hưởng sâu sắc tư tưởng của cuộc cách mạng vĩ đại đó. Cuộc cách
mạng tháng Mười Nga cũng có tác dụng thức tỉnh các dân tộc thuộc
địa ở nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt là các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc ở Phương Đơng, có tác động làm chuyển biến tư tưởng của
nhiều nhà cách mạng lớn.
Vào thời điểm này, Nguyễn Ái Quốc đã rời Luân đôn, đến Pari
sinh sống, Người tham gia hoạt động cách mạng trong phong trào
cơng nhân pháp và tìm hiểu cách mạng tháng Mười, cơng việc tìm
hiểu và học tập của Nguyễn Ái Quốc ở đây rất thuận lợi, bởi vì Pari là
một trung tâm chính trị của thế giới lúc bấy giờ. Ở đây, Người gia
nhập đảng xã hội Pháp vì lúc đó ở pháp chỉ có đảng này là đảng duy
nhất có chính sách tiến bộ, ủng hộ phong trào đấu tranh ở thuốc địa. Ở
đây Người lập ra “Hội người Việt Nam yêu nước” với tờ báo “Việt
Nam hồn” để tuyền truyền giáo dục việt kiều ở pháp.
Năm 1919 sau khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, các
nước đế thắng trận họp hội nghị VécXây để chia nhau quyền lợi
Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người yêu nước sống ở pháp đưa
đến hội nghị này bản yêu sách 8 điều, đòi các quyền tự do, dân chủ và
bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Tuy bản u sách đó khơng được hội
nghị VécXây chú ý đến, nhưng được báo chí tiến bộ Pháp cơng bố
rộng rãi và gây ảnh hưởng chính trị vang dội. Đó là địn tiến cơng

phục diện đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc, nó như quả bom chính trị
đầu tiên mà Nguyễn Ái Quốc giáng vào đầu chúng ở ngay trên đất
Pháp. Bản u sách đó cũng là hồi chng thức tĩnh lịng yêu nước
chống Pháp của nhân dân ta và gây được tiếng vang đối với nhân dân
Pháp và các thuộc địa Pháp. Kết luận quan trọng mà Nguyễn Ái Quốc
rút ra được

chính là: Những lời tuyên bố dân tộc tự quyết của bọn đế

quốc chỉ là trò bịp bợm, các dân tộc bị áp bức muốn được độc lập tự

12


do thực sự, trước hết phải dựa vào lực lượng của bản thân mình, phải
tự giải phóng mình.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được bản sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Bản
luận cương đó đã đáp ứng nguyên vọng tha thiết mà Nguyễn Ái Quốc
đang ấp ủ độc lập cho tổ quốc ta và tự do cho đồng bào ta. Vì Quốc tế
cộng sản do Lênin đứng đầu đã tuyên bố và kiên quyết ủng hộ phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông. Sau này Nguyễn Ái
Quốc viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi cảm thấy rất cảm động
và phấn khởi, sáng tỏ và tin tưởng biết bao! Tơi rất vui mừng đến phát
khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói
trước quần chúng đơng đảo. Hỡi đồng bào ta đã bị đọa đày đau khổ!
Đây là cái cần thiêt cho chúng ta”. Từ đó Người hồn tồn tin theo
Lênin và tin theo quốc tế thứ ba.
Tháng 12/1920 tại đại hội xã hội Pháp họp tại Tua, đã xảy ra
cuộc tranh luận gay gắt về việc gia nhập quốc tế thứ III hay ở lại quốc

tế thứ hai. Nnguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập quốc tế thứ
III và tham gia thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Bằng thiên tài và
trí tuệ của mình, Nguễn Ái Quốc đã kịp thời đáp ứng nhu cầu bức thiết
của lịch sử, vượt qua hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và các nhà
cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến
học thuyết cách mạng vơ sản chống đấu tranh giải phóng dân tộc, vì
người khẳng định; “trên thế giới bây giờ học thuyết nhiều. Nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa
Lênin sau này Người ta đã rút ra kết luận khái quát. Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách
mang vô sản”. Như vậy Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên
tiếp nhận chủ nghĩa Mác- Lênin, tìm thấy con đường đúng đắn nhất để
cứu nước , cứu dân tộc ta, do đó cơng lao to lớn đầu tiên của Người là
13


xác định con đường cứu nước đúng cho nhân dân Việt Nam, giải quyết
sự khủng hoảng về đường lối giải phóng cho dân tộc ta.

2. Q trình chuẩn bi cho việc thành lập đảng.
Từ sau khi tiếp nhận chủ nghĩa Mác- Lênin, trở thành Người
cộng sản(1920) Nguyễn Ái Quốc vừa hăng say hoạt động cách mạng,
học tập nghiên cứu ở nước ngồi, vừa tìm cách truyền bá chủ nghĩa
Mác- Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam (1930) quá trình này trải quá các thời kỳ sau:
2.1. Thời kỳ ở Pháp (1920 – 1923)
Năm 1921 nhờ sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp. Người tích
cực hoạt động trong phong trào công nhân Pháp, tranh thủ sự ủng hộ
của giai cấp vô sản và nhân dân Pháp đối với cách mạng Việt Nam
Nguyễn Ái Quốc đã cùng một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều thuộc địa

của Pháp lập ra “Hội liên hiệp thuộc địa” nhằm tập nhưng người
thuộc địa sống trên đất Pháp và vận động kiều bào hướng về tổ quốc,
ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng đất nước vì thế Người tham gia hội.
Những người Việt Nam yêu nước ở pháp. Ngoài ra Người tham gia
xây dựng báo “Cơ paria” (người cùng khổ) vào năm 1922 mà Người
vừa viết bài, phát hành báo vừa làm chủ nhiệm kiêm chủ bút.
Cuối năm 1921, tại đại hội lần thứ nhất của Đảng cộng sản Pháp
họp ở MácXây, Nguyễn Ái Quốc trình bày dự thảo nghị quyết về vấn
đề “Chủ nghĩa cộng sản và các thuôc địa” và kiến nghị thành lập,
Nguyễn Ái Quốc được cử làm trưởng tiểu ban nghiên cứu về vấn đề
Đông Dương.
Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài đăng trên các báo “Người cùng
khổ”, “nhân đạo”- Cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Pháp, đời
sống cơng nhân của tổng liên đồn lao động Pháp có tác động to lớn
14


đến phong trào yêu nước Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới,
Người viết vở kịch “Con rồng tre” để chế diễu tên vua bù nhìn Khải
Định khi hắn sang Pháp, ngoài ra hơn thế nữa người viết tác phẩm
“Bản án chế độ thực dân pháp” và được xuất bản lần đầu tiên ở Pari
năm 1925. Bằng những dẫn chứng cụ thể, sinh động, tác phẩm đã tố
cáo trước dư luận Pháp và thế giới những tội ác tày trời của bọn thực
dân Pháp đối với các nước thuộc địa “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa
có một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi
khác bám vào giai cấp vơ sản ở các nước thuộc địa”. Nếu người ta
muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vịi thơi, thì
cái vịi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai câp vô sản, con vật vẫn tiếp
tục sống và cái vòi cắt đứt vấn mọc ra .
Chủ nghĩa đế quôc là kẻ thù chung của giai cấp cơng nhân ở

“chính quốc” và nhân dân lao động ở các thuộc địa. Cách mạng giải
phóng các dân tộc và cách mạng vơ sản ở các nước “chính quốc”, có
mối quan hệ hữu cơ với nhau. Phải thực hiện hợp tác chặt chẽ với
nhau để chống lại kẻ thù chung, vì có sự hợp tác này mới đảm bảo cho
giai cấp công nhân quốc tế giành đươc thắng lợi cuối cùng .
Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn,
phải làm cho các dân tôc thuôc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt
nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cở sở cho một nền văn
minh phương Đông trong tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong
những cánh cửa của cách mạng vơ sản.
Các dân tộc thuộc địa có sẵn trong bản thân mình một sức mạnh
to lớn, khi hàng triệu người ở các nước thuộc địa đã hiểu được giá trị
của đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế và quyết tâm vùng lên chiến
đấu thì chủ nghĩa đế quốc nhất đinh sẽ bị đánh đổ. “Bản án chế độ
thực dân Pháp” đã vạch trần bản chất phản động của đế quốc đối với

15


các nước thuộc địa, thức tỉnh tinh thần dân tộc, hướng nhân dân các
nước thuộc địa tới con đường giải phóng dân tộc của thời đại cách
mạng vơ sản. Vận dụng cơng thức của Mác vào cơng cuộc giải phóng
của các nước anh em (thc địa) chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực
của bản thân anh em và góp phần vào việc thực hiện sự liêm minh
giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động Pháp với các dân tộc
thuôc địa nhằm đánh đổ kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc pháp. Như
vậy “Bản án chế độ thưc dân Pháp” có giá trị về mặt lý luận và thực
tiễn đối với phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới, nhìn chung
những sách báo của Người một mặt tố cáo tội ác của bọn đế quốc,
nhất là đế quốc Pháp ở Đơng Dương mặt khác khích lệ lòng yêu nước

cho đồng bào ta, tuyên truyền chủ nghĩa Mác–Lênin và vận động quần
chúng đấu tranh.
Những sách báo ấy được các thuỷ thủ Việt Nam bí mật gửi về
nước góp phần thúc đẩy các cuộc đấu tranh của đồng bào trong nước.
2.2. Thời kỳ ở Liên Xô(1923-1924)
Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Mátxcơva
để tham dự hội nghị quốc tế nông dân, đồng thời trực tiếp học tập, nghiên cứu
cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa Mác– Lênin. Trong thời gian này Người
viết nhiều bài báo cho báo “Sự thật” – cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản
Liên Xơ và tạp chí “thư tín quốc tế” của quốc tế cộng sản. Người ln coi báo
chí là một phương tiện, vũ khí tuyên truyền đấu tranh cách mạng. Năm 1924
Người tham dự Đại hội V của Quốc tế cộng sản và các đại hội của quốc tế công
hội đỏ, quốc tế phụ nữ, quốc tế thanh niên, quốc tế cứu tế đỏ. Trong hai bản
tham luận quan trọng đọc tại Hội nghị quốc tế nông dân và đại hội lần thứ V của
quốc tế cộng sản Nguyễn Ái Quốc đã đề cập hai vấn đề lớn sau đây:
Tăng cường mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế
quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa.
16


Vấn đề nông dân ở các nước thuộc địa. Người thẳng thắn phê bình một số
Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa đã có coi nhẹ vấn đề thuộc địa chưa
biết kết hợp phong trào cách mạng ở chính quốc và cách mạng ở các nước thuộc
địa để thành lập mặt trận đấu tranh chung. Đối với vấn đề nông dân, Người chỉ
rõ rằng: Nông dân bị áp bức bóc lột nặng nề, nạn đói ln ln xảy ra, sự uất
phẫn ngày càng cao lên. “Sự nổi dậy của nơng dân bản xứ đã chín muồi trong
nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi dậy nhưng lần nào cũng bị chìm trong
máu. Nếu hiện nay nơng dân vẫn cịn ở trong tình trạng tiêu cực, thì ngun
nhân là vì họ cịn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế Cộng sản phải
giúp họ tổ chức lại cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con

đường đi tới cách mạng và giải phóng”.
Khơng chỉ nắm vững những luận điểm cơ bản nhất của chủ nghĩa Mac–
Lênin về chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc mà cịn vận dụng sáng tạo
vào cuộc đấu tranh ở các nước thuộc địa, truyền bá vào Việt Nam. Nguyễn Ái
Quốc có cơng lớn trong việc xây dựng mối liên hệ chặt chẽ giữa cách mạng Việt
Nam và cách mạng thế giới.
2.3. Thời kỳ ở Trung Quốc (1924-1927).
Ngày 11/11/1924 Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại
đây Người cùng các nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan,
Inđônêxia, Malaixia…thành lập “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông”.
Để xây dựng tình đồn kết cách mạng các nước trong khu vực. Ở đây Người tập
hợp những người yêu nước của Việt Nam, truyền bá, giáo dục cho họ chủ nghĩa
Mác- Lênin, việc đầu tiên là Người tìm hiểu các tổ chức cách mạng Việt Nam ở
Trung Quốc, chủ yếu là tổ chức “Tâm tâm xã”, một tổ chức yêu nước, hoạt động
hăng say nhưng thiếu tơn chỉ mục đích rõ ràng, Người cải tổ Tâm tâm xã và
thành lập “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”. Có hạt nhân là cộng
sản đoàn (6/1925) hướng tổ chức này đi theo con đường cách mạng vô sản,

17


Người lại sáng lập báo “Thanh niên” (1925), những bài báo của Người có sức
hấp dẫn lớn đối với thanh niên ta lúc bấy giờ.
Tại Quảng Châu, Người đã mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày (19251927), đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Sau này các khoá
học một số được chọn đi học ở trường Đại học Phương Đông của quốc tế cộng
sản, một số người được cử đi học ở trường quân sự Hồng phố, cịn phần lớn trở
về nước để “Truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân”.
Đầu năm 1927 những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các lớp đào tạo
cán bộ tại Quảng Châu được bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp
bức tái xuất bản thành sách với tên gọi là “Đường kách mệnh”. Sách có tác dụng

bồi dưỡng lý luận cách mạng cho cán bộ vì theo Người “Khơng có lý luận cách
mệnh thì khơng có cách mệnh vận động”. Trong tác phẩm này Nguyễn Ái Quốc
vạch ra phương châm, phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của
cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Người nêu chân lý “Muốn sống phải làm cách mệnh”, “Cách mệnh là việc
chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người”. Việc giải
phóng dân tộc chủ yếu là do nhân dân ta tự làm lấy, vì vậy phải làm sao cho mọi
người Việt Nam hiểu rõ “Vì sao cách mệnh”, “Khơng làm khơng được”. Đường
cách mệnh giới thiệu tính chất và kinh nghiệm của cuộc cách mạng Mỹ (1776),
cách mạng Pháp (1789), cách mạng tháng Mười Nga (1917) và khẳng định rằng
chỉ có cách mạng tháng Mười Nga là triệt để nhất, vì thế cách mạng Việt Nam
cần phải đi theo con đường cách mạng của học thuyết Mác-Lênin mới thành
công. Đường cách mệnh nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam là cách mạng giải phóng dân tộc.
Tháng 4/1927, Tưởng giới Thạch phản bội cách mạng Trung Quốc, đàn áp
các Đảng viên cộng sản và những người cách mạng. Nguyễn Ái Quốc phải rời
Quảng Châu sang Liên Xô. Mùa thu năm 1928 Người về Thái Lan tiếp tục công
việc chuẩn bị thành lập Đảng.
18


Chủ nghĩa Mác- Lênin truyền bá vào nước ta khi phong trào yêu nước và
phong trào công nhân đang phát triển, nhưng lại thiếu đường lối nên được tiếp
nhận ngay. Từ đây phong trào yêu nước phát triển sôi nổi hẳn lên. Đặc biệt là
phong trào cơng nhân có sự chuyển biến dần dần về chất. Sự truyền bá chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh vào phong trào công
nhân và phong trào yêu nước gắn liền với việc xây dựng các tổ chức cơ sở của
Hội cách mạng thanh niên ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng, số hội
viên tăng nhanh. Năm 1928 có 300 hội viên, năm 1929 có 1700 hội viên, tổ chức
công hội cũng được xây dựng trong nhiều nhà máy, hầm mỏ, một số đảng viên

tiên tiến trong Tân Việt cũng ngả theo hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Nhiều người đã trở thành hội viên của Hội.
Việc truyền bá lí luận giải phóng dân tộc và tổ chức vận động nhân dân
đấu tranh đã dấy lên một phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam ngày càng
mạnh mẽ. Đặc biệt là phong trào công nhân.
Cuộc đấu tranh của công nhân xuất hiện ngay từ khi giai cấp công nhân ra
đời. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất phong trào đã diễn ra với những hình
thức sơ khai như: Bỏ chốn tập thể, phá giao keo, đốt trại, đánh cai kí…rồi tiến
dần lên những hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp mình như bãi cơng. Năm
1907 đã nổ ra cuộc bãi công đầu tiên của 200 công nhân, viên chức hãng liên
hiệp thương mại Đông Dương ở Hà Nội, năm 1912 có cuộc bãi cơng của cơng
nhân Ba Son và cuộc bãi khố của học sinh trường Bách nghệ Sài Gịn…Ngồi
ra cơng nhân cịn tham gia phong trào yêu nước khác: Công nhân mỏ Đông
Triều tham gia đội nghĩa quân của lãnh binh Pha và lãnh binh Hy (1892), công
nhân làm đường phủ Lạng Thương-Lạng Sơn tham gia phong trào khởi nghĩa
Yên Thế, tập kích đạo quân đóng dọc đường sắt và nhà ga (1894), những bồi
bếp và công nhân làm trong quân đội Pháp tham gia đầu độc binh lính sỹ quan
Pháp ở Hà Nội.

19


Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp công nhân nước ta ngày càng
đông đảo và tập trung hơn, trong những năm 1919-1925 đã nổ ra 25 cuộc bãi
công, tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân viên chức các cơ sở công thương
tư nhân ở Bắc Kỳ, cơng nhân làm lị nhuộm ở Sài Gịn, Chợ lớn (1922) các nhà
may dệt, rượu, xay xát ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương (1924) đáng chú ý là
cuộc bãi công của hơn 1000 công nhân xưởng sửa chữa tàu thuỷ Ba Son, Sài
Gịn (8/1925) do Tơn Đức Thắng tổ chức, không chịu sự chiếm hạn Misơlê để
thực dân Pháp chở quân đi đàn áp, phong trào nổi dậy chống xâm lược của nhân

dân Trung Quốc tại các thành phố có đơ giới của đế quốc. Cuộc bãi cơng nổ ra
với yêu sách đòi tăng lương 20% thu nhập của những công nhân bị xa thải được
trở lại làm việc. Cuộc bãi công này được công nhân nhiều xưởng ở Sài GịnChợ Lớn ủng hộ.
Ngồi ra trong những năm 1925-1926 cơng nhân đã tham gia các cuộc mít
tinh, biểu tình, đòi thực dân Pháp thả Phan Bội Châu để tang Phan Chu Trinh.
Nhìn chung phong trào cơng nhân những năm 1919-1925 đã có bước phát triển
mới so với trước chiến tranh…Hình thức bãi cơng đã trở nên phổ biến, diễn ra
trên quy mô lớn hơn và thời gian dài hơn.
Từ năm 1926-1929 phong trào công nhân ngày càng phát triển với sự ra
đời và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. trong những năm
1926-1927 mỗi năm có hàng chục cuộc bãi công. Trong hai năm 1928-1929 đã
nổ ra hơn 40 cuộc đấu tranh, tiêu biểu là các cuộc bãi cơng ở nhà máy xi măng
Hải Phịng, nhà máy sợi Nam Định, nhà máy Diêm, nhà máy cưa Bến Thuỷ,
xưởng sửa chữa ô tô Avia Hà Nội, mỏ Hịn Gai…Các cuộc đấu tranh đó dã kết
hợp những khẩu hiệu kinh tế với khẩu hiệu chính trị, vượt ra ngồi phạm vi một
nhà máy, đồn điền, bước đầu có sự liên kết nhiều ngành, nhiều địa phương, điều
đó một lần nữa chứng tỏ trình độ giác ngộ của cơng nhân đã nâng lên rõ rệt, tuy
chưa được đều khắp. Phong trào phát triển mạnh mẽ, có sức quy tụ và dẫn đầu
phong trào yêu nước nói chung.

20


3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đến năm 1929 phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã
phát trtiển mạnh mẽ, địi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất của một Đảng cách
mạng. Yêu cầu khách quan đó đã tác động vào các tổ chức tiền cộng sản, dẫn
đến cuộc đấu tranh một bộ và sự phân hố tích cực trong các tổ chức này, hình
thành nên các tổ chức cách mạng Việt Nam. Và cũng trong thời gian đó ở Việt
Nam cùng một lúc có ba tổ chức cộng sản hoạt động, tình hình đó làm cho quần

chúng khơng biết theo sự lãnh đạo của tổ chức nào, vì vậy vấn đề hợp nhất hay
để cho các tổ chức này hoạt động riêng rẽ được đặt ra.
Trong lúc này trên thế giới bắt đầu diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế của
chủ nghĩa tư bản (1929-1933). Cuộc khủng hoảng ảnh hưởng tới tất cả các nước
làm cho đời sống nhân dân càng thêm khốn khổ, nhất là nhân dân lao động ở các
nước thuộc địa. Ở Đông Dương, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, phong
trào đấu tranh của quần chúng ngày càng cao. Trước yêu cầu khách quan của
cách mạng các tổ chức cộng sản phải hợp nhất để đủ sức lãnh đạo cuộc đấu
tranh. Hơn nữa sau khi ra đời, ba tổ chức này lại nảy sinh những mâu thuẫn như:
Tranh giành đảng viên, tranh giành quần chúng, tranh giành ảnh hưởng, thậm
chí cịn bài xích lẫn nhau. Tình hình này kéo dài sẽ bất lợi cho cách mạng. Bọn
đế quốc sẽ lợi dụng sự chia rẽ này để đưa chân tay vào phá hại phong trào đấu
tranh.
3.1. Hội nghị thành lập Đảng.
Ngày 27/10/1929 quốc tế cộng sản gửi những người cộng sản ở Đông
Dương tài liệu “Về việc thành lập một Đảng cộng sản ở Đông Dương” chỉ rõ
“Việc thiếu một Đảng Cộng sản duy nhất trong lúc phong trào quần chúng nông
dân và công nhân ngày càng phát triển, đã trở thành một điều vô cùng nguy
hiểm cho tương lai trước mắt cuộc cách mạng ở Đông Dương”. Quốc tế cộng
sản đã nhấn mạnh: “Nhiệm vụ quan trong nhất và cấp bách nhất của tất cả
những người cộng sản Đơng Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính
21


chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản cách mạng có tính
chất quần chúng ở Đơng Dương, Đảng đó phải chỉ có một và là một tổ chức
cộng sản duy nhất ở Đông Dương”. Song, tài liệu này chưa đến tay người cộng
sản Việt Nam, lúc đó Nguyễn Ái Quốc đảng ở Xiêm (Thái Lan) tìm đường về
nước thì nhận được tin “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên phân biệt những
người cộng sản, chia thành nhiều phái, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Hương

Cảng (Trung Quốc)” với tư cách là phái viên của đế quốc cộng sản, có đầy đủ
quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông
Dương. Người đã chủ động triệu tập “đại biểu của hai nhóm (Đơng Dương cộng
sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng) và chủ trì hội nghị hợp nhất Đảng tại cửu
Long-Hương Cảng-Trung Quốc. Hội nghị bắt đầu từ ngày 6/1/1930. Sau này,
Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960). Căn cứ vào những tài liệu hiện
có, đã ra nghị quyết về ngày thành lập Đảng, trong đó ghi rõ “lấy ngày 3/2
dương lịch mỗi năm làm ngày kỉ niệm thành lập Đảng”.
Tham dự Hội nghị có hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và hai
đại biểu của An Nam cộng sản Đảng. Tổng số Đảng viên của Đông Dương cộng
sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng thành một Đảng duy nhất, lấy tên là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Thơng qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương
trình vắn tắt, điều lệ vắn tắt của Đảng. Nhân dịp thành lập Đảng, Nguyễn Ái
Quốc viết lời kêu gọi nơng dân, cơng nhân, binh lính, học sinh…bị áp bức bóc
lột hãy gia nhập Đảng, đi theo Đảng để đánh đổ đế quốc Pháp. Hội nghị cũng
vạch ra kế hoạch hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước thành lập một ban
chấp hành trung ương lâm thời.
Ngày 24/2/1930 theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Ban
chấp hành trung ương lâm thời họp và ra quyết định chấp nhận Đông Dương
Cộng sản liên đoàn ra nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 3/2/1930 Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp
nhất được xem là đại hội thành lập Đảng. Đây là một công lao lớn khác của

22


Nguyễn Ái Quốc đối với dân tộc và giai cấp, sau khi xác định con đường cứu
nước đúng đắn.
3.2. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua cương lĩnh vắn tắt sách lược văn tắt

và chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp
thành cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, có nội dung sau:
Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “Làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm
cho nước Việt Nam hồn tồn độc lập, dựng ra chính phủ công-nông-binh; tịch
thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở
mang công nghiệp và nông nghiệp và miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành
luật ngày làm 8 giờ.
Về văn hoá xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền,
phổ thơng giáo dục theo hướng cơng-nơng hố.
Những nhiệm vụ đó bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế
quốc và chống phong kíên, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc
giành độc lập cho dân tộc.
Về lực lượng cách mạng: Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp
công nhân, nông dân, phải dựa vào hàng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm
cách mạng ruộng đất, lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nơng… đi vào phe vơ
sản giai cấp. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản An Nam mà chưa rõ
mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ
phận nêu ra mặt phản cách mạng thì đánh đổ.
Chủ trương tập hợp lực lượng trên đã phản ánh tư tưởng đại đoàn kết dân
tộc của Hồ Chí Minh “Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận,

23


khơng khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả
hiệp”.
Lãnh đạo cách mạng: là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản.
“Đảng là đội tiên phong vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai

cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. “Liên kết
với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là quần
chúng vô sản Pháp”.
Cương lĩnh của Đảng là một Cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và
sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại mới, đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn
quan điểm của giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc, vì độc lập tự do tiến hành
cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đát để đi tới xã hội cộng sản là
tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh.
Nhờ sự thống nhất về tổ chức và cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ
khi ra đời Đảng đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của giai cấp công nhân
và của dân tộc Việt Nam, đó là đặc điểm và đồng thời là một ưu điểm của Đảng,
làm cho Đảng trở thành lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam,
sớm được nhân dân thừa nhận là đội tiên phong của mình, tiêu biểu cho lợi ích,
danh dự, lương tâm, trí tuệ của dân tộc.
4. Ý nghĩa của việc thành lập Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp của ba nhân
tố: Chủ nghĩa Mác-Lênin, Phong trào công nhân và phong trào u nước, trong
đó hai nhân tố có tính chất phổ biến là chủ nghĩa Mác- Lênin kết hợp với phong
trào công nhân. Việt Nam là một nước thuộc địa, phong trào công nhân yếu,
song nhờ phong trào yêu nước mà chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn kết hợp được với
phong trào công nhân. Đây là nét đặc thù của Việt Nam.

24


Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh cách
mạng đúng đắn đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối lãnh đạo cách
mạng kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ XX. “Việc thành lập Đảng là một bước

ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ
rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.
Đảng ra đời, xây dựng đựơc lực lượng mới cho cách mạng, trước hết là sự
ra đời của liên minh công nông. Trước năm 1930 các nhà cách mạng thường chỉ
kêu gọi nhân dân ta chống Pháp, giành độc lập dân tộc, mà không kêu gọi chống
phong kiến giành ruộng đất dân cày, không chú ý đúng mức đến quyền lợi của
nông dân. Đảng ra đời đề ra hai khẩu hiệu chiến lược là: “Độc lập dân tộc” và
“Ruộng đất dân cày” hai nguyện vộng này đáp ứng được nguyện vọng của đại
đa số nhân dân, nhất là nơng dân, do đó lơi cuốn được đông đảo nông dân đi
theo cách mạng, xây dựng được khối liên minh công nông, tạo ra được một nhân
tố cơ bản nữa đảm bảo cho thắng lợi cách mạng Việt nam.
Đảng ra đời vạch ra được phương pháp cách mạng, đứng trước năm 1930
nhân dân ta chống Pháp anh hùng nhưng thường phạm sai lầm về phương pháp
đấu tranh, tuy sử dụng khởi nghĩa vũ trang (như các chiến sĩ Cần Vương) nhưng
khởi nghĩa diễn ra le tẻ, nhiều nơi, chiến thuật lại thu hiểm nên dễ bị bao vây, bị
cơ lập và bị tiêu diệt, cũng có người thì dùng vũ lực nhưng lại dựa vào sự cầu
viện ở nước ngồi (cụ Phan Bội Châu) có người dùng biện pháo cải lương “Cầu
xin thực dân Pháp rủ lịng thương” (như Phan Chu Trinh) khơng ai biết dựa vào
sức mạnh của bản thân trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Đảng ra đời đã vạch
ra phương pháp đáu tranh mới. Đó là phương pháp đấu tranh cách mạng, bằng
bạo lực quần chúng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, xây dựng và sử
dụng hai lực lượng chính trị, vũ trang để tiến hành khởi nghĩa.
Đảng ra đời đã tạo điều kiện cho nhân dân có nhiều đồng minh mới.
Trước năm 1930 nhiều nhà cách mạng Việt Nam ra nước ngồi tìm lực lượng
cứu nước nhưng chưa ai biết đoàn kết với lực lượng cách mạng thế giới. Đảng ra
25


×