Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

TIỂU LUẬN một số BIỆN PHÁP NHẰM KÍCH THÍCH HỨNG THÚ và NHU cầu học tập của học SINH KHI dạy học TOÁN lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (966.01 KB, 63 trang )

ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM KÍCH THÍCH HỨNG THÚ VÀ NHU
CẦU HỌC TẬP CỦA HỌC SINH KHI DẠY HỌC TOÁN LỚP 5.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng thì càng địi hỏi con
người cần có sự năng động, tích cực, tự giác trong cơng việc, để phát huy được tính
tích cực tự giác đó thì cốt yếu phải làm cho học sinh hứng thú được với mơn học đó
trong q trình dạy học. Hứng thú, nhu cầu trong học tập với tinh thần tự giác là
một điều rất cần thiết cho học sinh.Vấn đề được nghiên cứu cũng chính là mục tiêu,
là định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh Tiểu học, các em có
tính hiếu động, tị mị, lịng ham học hỏi, sự mong muốn tìm hiểu và nhận thức thế
giới xung quanh. Và thực tế cho thấy kết quả học tập của học sinh thường tỉ lệ thuận
với tinh thần, hứng thú học tập của các em. Khi các em có hứng thú và nhu cầu tìm
hiểu thì sẽ đem lạị cho mình một kết quả học tập tốt và ngược lại. Hứng thú là động
cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động học tập. Khi được làm việc
phù hợp với hứng thú, nhu cầu dù có khó khăn đến mấy các em cũng có thể vượt
qua.
Hứng thú và nhu cầu học tập có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
nâng cao hiệu quả của quá trình học tập, nhờ hứng thú mà trong q trình học tập
học sinh có thể giảm đi mệt mỏi và căng thẳng, tăng sự chú ý, kích thích tính sáng
tạo. Cịn nhu cầu học tập chính là động lực thúc đẩy các em trong quá trình học tập.
Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, mơn Tốn có vị trí
hết sức quan trọng bởi vì :
1


Các kiến thức, kĩ năng của mơn Tốn ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời
sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học tốt các môn học
khác ở Tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt mơn Tốn ở bậc trung học.
Mơn Toán giúp HS nhận biết những mối quan hệ về số lượng và hình dạng


khơng gian của thế giới hiện thực. Đối tượng nghiên cứu của toán học với quan hệ
về số lượng và hình dạng là thế giới của hiện thực vì thế ở Tiểu học cho dù là những
kiến thức đơn giản nhất cũng là những thể hiện của các mối quan hệ về số lượng và
hình dáng không gian. Chẳng hạn, các mối quan hệ về số lượng bao gồm các quan
hệ cộng, trừ, nhân, chia, lớn hơn, nhỏ hơn, bằng trên các tập hợp N, Q hoặc những
quan hệ giữa những đại lượng.
VD: Quãng đường với thời gian và vận tốc, diện tích với chiều dài, chiều rộng hoặc
với cạnh đáy, chiều cao… Các hình dáng khơng gian bao gồm các biểu tượng hình
học : hình trịn, hình chữ nhật, hình vng…
+ Mơn Tốn góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy
nghĩ, giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí thơng minh. Những thao tác tư duy
có thể rèn luyện cho HS qua mơn Tốn bao gồm phân tích, tổng hợp, so sánh, tương
tự, khách quan hóa, trừu tượng hóa, cụ thể hố, đặc biệt hóa. Các phẩm chất trí tuệ
có thể rèn luyện cho HS bao gồm : Tính độc lập, tính linh hoạt, tính nhuần nhuyễn,
tính sáng tạo.
Lớp 3 là một khối lớp có vị trí hết sức quan trọng trong việc dạy học Toán
Tiểu học, đây là giai đoạn chuyển dần từ lớp (1,2) lên lớp (3,4) của bậc Tiểu học, là
bước ngoặt là dấu mốc quan trọng để từ đó các em bước tiếp đến những chân trời
mới, tâm lí của các em lúc này vẫn cịn non trẻ, hời hợt. Ở lứa tuổi này tư duy của
các em vẫn là tư duy trực quan, cụ thể, nên việc kích hứng thú và nhu cầu học tập
cũng dễ dàng. Đó cũng chính là bước đầu làm cơ sở, nền tảng cho cấp học về sau.
Xuất phát từ những lí do vừa được trình bày trên đây, tơi mạnh dạn chọn đề
tài “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM KÍCH THÍCH HỨNG THÚ VÀ NHU CẦU
HỌC TẬP CỦA HỌC SINH KHI DẠY HỌC TOÁN LỚP 3” để làm đề tài nghiên
2


cứu cho Tiểu luận của mình, với mong muốn qua đề tài này sẽ góp phần nâng cao
chất lượng dạy học Toán cho các em học sinh lớp 3.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nội dung “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM KÍCH THÍCH
HỨNG THÚ VÀ NHU CẦU HỌC TẬP CỦA HỌC SINH KHI DẠY HỌC
TOÁN LỚP 3”. Nhằm giúp học sinh nâng cao mức độ hứng thú, nhu cầu học mơn
Tốn của học sinh, biết được việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay “Phát huy
tính tích cực tự giác của học sinh” có phù hợp đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, phù
hợp với trình độ nhận thức,… của học sinh hay khơng? và từ đó có những biện pháp
khắc phục cho đề tài được hoàn chỉnh hơn.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận về hứng thú, nhu cầu của học sinh trong việc tích
cực, tự giác học tập mơn Tốn lớp 3.
Đề xuất một số biện pháp nhằm kích thích hứng thú và nhu cầu học tập của
học sinh lớp 3.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hứng thú, nhu cầu của học sinh trong việc tích cực và tự giác học tập mơn
Tốn lớp 3.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Chương trình sách giáo khoa, sách giáo viên lớp3
Một số tài liệu liên quan đến hứng thú và nhu cầu học tập của học sinh lớp 3.
4. Giả thuyết khoa học
Hứng thú và nhu cầu học toán của học sinh Tiểu học hiện nay còn đang phân
tán, chưa bền vững, chưa ổn định. Một trong những nguyên nhân của tình trạng
này là do: Việc giảng dạy chưa làm cho học sinh nhận thức rõ được ý nghĩa, chưa
3


thực sự tạo ra tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong q trình giải tốn, cũng
như chưa tạo ra bầu khơng khí tích cực trong q trình học toán.
Nếu chúng ta tăng cường một số biện pháp nhằm kích thích hứng thú học

tốn cho học sinh Tiểu học đặc biệt là lớp 3 thì kết quả học tập của các em sẽ tốt
hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc các tài liệu, sách báo…liên quan đến
vấn đề Hứng thú và nhu cầu của học sinh trong việc tích cực, tự giác học tập mơn
tốn lớp 3.

NỘI DUNG
CHƯƠNG1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HỨNG THÚ VÀ NHU CẦU HỌC MƠN
TỐN CỦA HỌC SINH LỚP 1.
1.1.

Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hứng thú là một hiện tượng tâm lý phức tạp, được thể hiện khá rộng rãi trong

thực tiễn cuộc sống cũng như trong các ngành khoa học, hứng thú là một vấn đề đã
được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Do đứng trên những quan điểm và

4


góc độ khác nhau mà các nhà khoa học có nhiều quan điểm không giống nhau về
khái niệm này.
Những công trình nghiên cứu về hứng thú trên thế giới và ở Việt Nam xuất
hiện tương đối sớm và ngày càng phát triển điển hình:
Jonh Dewey (1859 – 1952) nhà giáo dục học, nhà tâm lí học người Mỹ năm
1896 sáng lập nên trường thực nghiệm trong đó ưu tiên hứng thú và nhu cầu của
học sinh trong từng lứa tuổi. Hứng thú thực sự xuất hiện khi cái tôi đồng nhất với
một ý tưởng hoặc một vật thể đồng thời tìm thấy ở chúng phương tiện biểu lộ.
Theo J.Piaget (1896 – 1996) nhà tâm lý học nổi tiếng người Thụy Sĩ có rất

nhiều cơng trình nghiên cứu về trí tuệ trẻ em và giáo dục. Ông rất chú trọng đến
hứng thú của học sinh. Ông viết “Nhà trường kiểu mới đòi hỏi phải hoạt động thực
sự, phải làm việc một cách chủ động dựa trên nhu cầu và hứng thú cá nhân”. Ông
nhấn mạnh cũng giống như người lớn, trẻ em là một thực thể mà hoạt động cũng bị
chi phối bởi quy luật hứng thú hoặc của nhu cầu. Nó sẽ khơng đem lại hiệu suất đầy
đủ nếu người ta không khiêu gợi những động cơ nội tại của hoạt động đó. Ơng cho
rằng mọi việc làm của trí thông minh đều dựa trên một hứng thú, hứng thú chẳng
qua cũng là một trạng thái chức năng động của sự đồng hóa.
Herbart (1776 – 1841) nhà tâm lí học, nhà triết học, nhà giáo dục học người
Đức sáng lập ra trường phái giáo dục hiện đại ở Đức thế kỉ XIX. Đã đưa ra bốn
mức độ của dạy học : Tính sáng rõ, tính liên tưởng, tính hệ thống, tính phong phú,
đặc biệt là hứng thú yếu tố quyết định kết quả học tập của người học.
Ovide Decroly (1871 – 1932) bác sĩ và nhà tâm lý người Bỉ khi nghiên cứu
về khả năng tập đọc và tập làm tính của trẻ đã xây dựng học thuyết về những trung
tâm hứng thú về lao động tích cực.

5


Năm 1955 A. P.Ackhadop có cơng trình nghiên cứu về sự phụ thuộc của tri
thức học viên với hứng thú học tập. Kết quả cho thấy tri thức của học viên có mối
quan hệ khăn khít với hứng thú học tập. Trong đó sự hiểu biết nhất định về mơn học
được xem là một tiền đề cho sự hình thành hứng thú đối với mơn học.
Trong cơng trình của Bơzơvich đã nêu lên quan hệ giữa hứng thú tính tích
cực học tập của học sinh. I.G,Sukira trong cơng trình “ Vấn đề hứng thú trong khoa
học giáo dục” (1972) đã đưa ra khái niệm về hứng thú nhận thức cùng với biểu hiện
của nó, đồng thời bà cịn nêu lên nguồn gốc cơ bản của hứng thú nhận thức là một
nội dung tài liệu và hoạt động học của học sinh.
Năm 1976 A. K. Maracôva đã nghiên cứu về dạy học nêu vấn đề với hứng
thú học tập của học sinh. Dạy học nêu vấn đề là một trong những biện pháp quan

trọng góp phần nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong quá trình học tập.
D.Super trong “Tâm lý học hứng thú” (1961) đã xây dựng phương pháp
nghiên cứu về hứng thú trong cấu trúc nhân cách.
Năm 1996 N.I.Ganbiô bảo vệ luận án tiến sĩ về đề tài “ Vận dụng tính hứng
thú trong giảng dạy tiếng Nga. Tác giả cho rằng hứng thú học tập của học sinh là
một phương tiện để nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Nga trong trường”.
Trong giáo dục chức năng, Clapede đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hứng
thú trong hoạt động của con người và cho rằng quy luật của hứng thú là cái trục duy
nhất mà tất cả hệ thống phải xoay quanh nó.
Từ những năm 1940 của thế kỉ XX: A.F.Beeliep đã bảo vệ thành công luận án
tiến sĩ “Tâm lý học hứng thú”. Các nhà tâm lý học như S.LRubinstein,
N.G.Morodov,… đã quan tâm nghiên cứu khái niệm hứng thú, và cho rằng hứng thú
là biểu hiện của ý chí, tình cảm.
6


E. K. Strong cho rằng: Hứng thú được biểu hiện trong tư thế của con người
có mong muốn học được một số điều nhất định, yêu thích một vài loại hoạt động và
định hướng tính tích cực nhất định vào những hoạt động đó.
D. Super quan niệm: “Hứng thú khơng phải là thiên hướng, khơng phải là nét
tính cách của cá nhân, mà đó là một cái gì khác, riêng rẽ với thiên hướng, riêng rẽ
với tính cách, riêng rẽ với cá nhân”.
Theo Phạm Minh Hạc - Lê Khanh - Trần Trọng Thủy “Khi ta có hứng thú về
một cái gì đó, thì cái đó bao giờ cũng được ta ý thức, ta hiểu ý nghĩa của nó đối với
cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình cảm đặc biệt đối với nó, do đó
hứng thú lơi cuốn hấp dẫn chúng ta về phía đối tượng của nó tạo ra tâm lí khát khao
tiếp cận đi sâu vào nó”.
Theo Nguyễn Quang Uẩn, Trần Thị Minh Đức cho rằng “Hứng thú là thái độ
đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống,
vừa có khả năng mang lại khối cảm cho cá nhân trong q trình hoạt động”. Khái

niệm này vừa nêu được bản chất của hứng thú, vừa gắn hứng thú với hoạt động của
cá nhân.
Theo tôi hiểu một cách khái quát: Hứng thú là thái độ con người đối với sự
vật, hiện tượng nào đó. Hứng thú là biểu hiện của xu hướng về mặt nhận thức của
cá nhân với hiện thực khách quan, biểu hiện sự ham thích của con người về sự vật,
hiện tượng nào đó.
Cấu trúc của hứng thú: Theo N.G.Marơzơva đã nêu ra ít nhất ba yếu tố đặc
trưng cho hứng thú:
 Có xúc cảm đúng đắn đối với hoạt động.

7


 Có khía cạnh nhận thức của xúc cảm này (được gọi là niềm vui tìm hiểu
và nhận thức).
 Có động cơ trực tiếp xuất phát từ bản thân hoạt động tự nó lơi cuốn và
kích thích, khơng phụ thuộc vào các động cơ khác. Những động cơ khác
(động cơ tinh thần, nghĩa vụ phải thực hiện, yêu cầu của xã hội…) Có thể
hỗ trợ, làm nảy sinh và duy trì hứng thú nhưng những động cơ đó khơng
xác định được bản chất của hứng thú.
Ba thành tố trên có liên quan chặt chẽ với nhau trong hứng thú của cá nhân.
Ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của hứng thú, mỗi thành tố đó có thể nổi lên
mạnh hay yếu, ít hay nhiều.
Những năm gần đây, có nhiều nhà tâm lý đã nghiêng về cách giải thích cấu
trúc hứng thú, tán thành với sự phân tích của N.G. Marôzôva. Một số tác giả thấy
rằng trong rất nhiều trường hợp hứng thú phải có ba yếu tố kể trên.
Bất kỳ hứng thú nào cũng đều có khía cạnh nhận thức của cá nhân đối với đối
tượng, ở một mức độ nhất định thì khi thích thú một đối tượng nào đó thì con
người đều muốn hiểu biết nó kỹ hơn. Do đó khơng có yếu tố nhận thức thì khơng
thể có hứng thú. Ngược lại, hứng thú là một điều kiện để nhận thức đối tượng một

cách cơ bản hơn, sâu sắc hơn. Tuy nhiên, không thể quy hứng thú về thái độ nhận
thức, bởi vì ngồi hứng thú trực tiếp (hứng thú với quá trình nhận thức) con người
cịn có hứng thú gián tiếp – hứng thú của cá nhân tập trung vào kết quả hoạt động.
Hơn nữa ở con người cịn có hứng thú nhằm chiếm lĩnh đối tượng, nhất là những
loại hứng thú với đối tượng vật chất.
Thái độ xúc cảm với đối tượng là một dấu hiệu không thể thiếu được của
hứng thú, song thái độ nhận thức không thể thay thế cho hứng thú, mà phải có sự
kết hợp chặt chẽ giữa thái độ nhận thức và thái độ xúc cảm của cá nhân đối với đối
tượng của hoạt động thì mới có thể có hứng thú. Niềm vui nhất thời diễn ra trong
chốc lát chưa phải là biểu hiện của hứng thú ổn định “chỉ có những biểu hiện của

8


cảm xúc tích cực, bền vững của cá nhân đối với đối tượng mới có thể trở thành một
dấu hiệu, một mặt khơng thể thiếu được của hứng thú”
Tóm lại tuy có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm hứng thú, nhưng đều
coi hứng thú được biểu hiện ở trạng thái tập trung chú ý cao độ, ở sự say mê, sự
hấp dẫn bởi nội dung hoạt động, ở bề dày, chiều sâu của sự yêu thích , hứng thú
làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức,
làm tăng sức làm việc. Tuy nhiên, các tác giả thường chỉ tiếp cận vấn đề theo
những hướng đơn lẻ mà chưa có tính tổng thể, nên việc vận dụng các biện pháp bồi
dưỡng hứng thú học tập mơn Tốn trong thực tiễn cịn nhiều hạn chế.
1.2. Một số khái niệm cơ bản.
1.2.1. Hứng thú học tập
1.2.1.1. Khái niệm
Để tìm hiểu khái niệm hứng thú học tập chúng ta cần phân biệt rõ hai khái
niệm: Hứng thú nhận thức và hứng thú học tập:
Hứng thú nhận thức có đối tượng là việc nhận thức thế giới khách quan nói
chung. Đối tượng của hứng thú nhận thức là quá trình nhận thức bản chất và quy

luật của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Do phạm vi rộng nên hứng
thú nhận thức có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống và hoạt
động của con người.
Hứng thú học tập có đối tượng hẹp hơn nhiều so với hứng thú nhận thức.
Khái niệm học tập hiểu theo nghĩa rộng là việc lĩnh hội những kinh nghiệm lịchsử
xã hội nói chung, nghĩa là nó gần với khái niệm nhận thức.
Theo đúng nghĩa Tâm lý học học tập là hoạt động của người học xã hội nói
chung, nghĩa là nó gần với khái niệm nhận thức, được tổ chức chuyên biệt bằng
phương pháp nhà trường với nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức khoa học
nhằm giúp người học lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người.
9


Do vậy, Tôi quan niệm hứng thú học tập là loại hứng thú gắn với các môn
học trong nhà trường: Hứng thú học tập là thái độ đặc biệt của học sinh với mơn
học mà học sinh cảm thấy có ý nghĩa và có khả năng đem lại sự ham thích
trong q trình học tập bộ mơn.
1.2.1.2. Các giai đoạn hình thành hứng thú học tập.
Theo Tiến sỹ Tâm lý học Marơcơva thì q trình hình thành hứng thú được
chia làm ba giai đoạn.
Giai đoạn 1: Những rung động định kỳ. Bản chất của những rung động định
kỳ này chính là sự thích thú mang tính chất tình huống do những điều kiện cụ thể,
trực tiếp của các tình huống trong q trình học tập tạo ra.
Ví dụ: Học sinh làm bài tập đúng được điểm cao thường xuyên, được cơ giáo
tun dương mỗi lần trước lớp; mỗi lần đó để lại những cảm xúc vui với bản thân,
trở thành những niềm cảm hứng khi được chấm bài, tự tin vào khả năng của mình.
Giai đoạn 2: Thái độ nhận thức tích cực. Ở giai đoạn này các xúc cảm nhận thức
tích cực đã mang tính khái quát và bền vững hơn, học sinh đã có thái độ tích cực khi
nhận thức mơn học (ví dụ sự tìm tịi phát hiện ra cái mới).
Giai đoạn 3: Xu hướng nhận thức tích cực đã bền vững ở cá nhân. Ở giai

đoạn này hứng thú đã được hình thành và bền vững rõ rệt. Vì đã ở mức độ học sinh
hiểu sâu sắc nên hứng thú có tác dụng định hướng tồn bộ hoạt động học tập của
học sinh theo hướng tích cực. Học sinh đã có niềm tin vững chắc vào khả năng học
tập của mình và rất thích học. Nhu cầu học trở thành tất yếu, không thể thiếu.
Chúng tôi thấy cách phân chia các giai đoạn hình thành hứng thú của Marôsôva là
hợp lý. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh thêm rằng: ở giai đoạn 3, khi xu hướng nhận thức
tích cực của cá nhân đã được hình thành thì nó khơng chỉ bao hàm thái độ nhận thức
mà cịn bao hàm thái độ xúc cảm tích cực và cả tính tích cực của hành vi.
10


1.2.1.3. Các biểu hiện cơ bản của hứng thú học tập
Hứng thú học tập được thể hiện ra bên ngoài thông qua các dấu hiệu cơ bản
như sau:
Sự chú ý nghe giảng và tích cực phát biểu xây dựng bài trong giờ học là dấu
hiệu đầu tiên của hứng thú học tập. Hoạt động học tập là hoạt động căng thẳng, kéo
dài nên nếu chỉ có ý thức nghĩa vụ và ý thức tổ chức kỷ luật thì khơng đủ để bắt học
sinh chú ý thường xuyên và lâu dài được. Chỉ có hứng thú thì học sinh mới có thể
huy động tập trung chú ý lâu dài vào đối tượng. Cũng chỉ có hứng thú thì học sinh
mới có nhu cầu hiểu biết sâu hơn về bài học nên tích cực phát biểu để thoả mãn nhu
cầu của mình.
Làm đủ các bài tập của học sinh: Khi có hứng thú học sinh thường thích làm
và làm đầy đủ các bài tập của môn học. Ở đây thể hiện mối quan hệ hữu cơ giữa
hứng thú và năng lực: hứng thú là dấu hiệu của năng lực và chính năng lực lại là
tiền đề cho sự hình thành và phát triển hứng thú. Học sinh có khả năng học bài và
làm bài tốt thì mới chăm chỉ làm bài. Ngược lại sự thành công khi giải được các bài
tập đã tạo ra niềm vui trí tuệ kích thích sự phát triển cuả hứng thú.
Việc tự tìm tịi làm thêm các bài tập khác: Hứng thú thể hiện nhu cầu nhận
thức đã phát triển cao. Khi có hứng thú học tập học sinh thường có nhu cầu hiểu
biết nhiều hơn nên không thoả mãn các bài giảng và sách giáo khoa mà thường tìm

đọc thêm các tài liệu tham khảo để mở rộng vốn tri thức của mình.
Việc tích cực học tập và vận dụng kiến thức vào thực tiễn: hứng thú học tập
thì khơng phải chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức hay xúc cảm mà tất yếu phải dẫn tới
tính tích cực hành động, tích cực suy nghĩ tìm tịi để ứng dụng tri thức vào thực
tiễn.

11


Kết quả học tập tốt: sự chú ý trong tiết học và chăm chỉ hoàn thành các bài
học: Một học sinh chú ý nghe giảng và tích cực phát biểu trong giờ học, chăm chỉ
học bài và làm bài tập, tìm đọc thêm các tài liệu tham khảo về mơn học và chú ý tìm
tịi ứng dụng kiến thức thì chắc chắn kết quả học tập phải có mức độ khá trở lên.
Nói cách khác: dấu hiệu thứ năm này là kết quả tổng hợp của bốn dấu hiệu trên.
Trong mỗi dấu hiệu trên đây đều có sự kết hợp biện chứng giữa các thành
phần nhận thức, xúc cảm và hành vi. Các dấu hiệu trên cũng được sắp xếp theo mức
độ phát triển cao dần của hứng thú. Nói cách khác, nó cũng chính là sự cụ thể hố
các giai đoạn phát triển của hứng thú. Nếu chỉ ở mức độ chú ý nghe giảng và thích
thú với bài giảng thì mới chỉ ở những rung động định kỳ mang tính chất tình
huống. Nghĩa là nó tương ứng với giai đoạn đầu tiên của sự hình thành hứng
thú. Tiến lên bước nữa, ở mức học bài và làm bài đầy đủ là đã hình thành được thái
độ nhận thức tích cực và tương đối bền vững. Dấu hiệu này tương ứng với giai đoạn
hai của sự hình thành hứng thú. Dấu hiệu tìm đọc thêm các tài liệu tham khảo về
mơn học, tìm tịi ứng dụng tri thức của môn học vào thực tiễn và luôn đạt kết quả
học tập từ khá trở lên chứng tỏ hứng thú đã bền vững và hướng toàn bộ hoạt động
của cá nhân theo hướng tích cực. Dấu hiệu này tương ứng với giai đoạn ba của sự
hình thành hứng thú.
1.2.1.4. Hứng thú học tập mơn tốn ở Tiểu học
Có nhiều quan điểm khác nhau bàn luận về hứng thú học tập môn Tốn ở
Tiểu học, chúng ta có thể hiểu khái qt về hứng thú học tập mơn tốn ở Tiểu học

như sau: Hứng thú học mơn tốn là thái độ lựa chọn đặc biệt của học sinh đối với
quá trình, kết quả lĩnh hội và vận dụng những tri thức toán học trong quá trình học
tập cũng như trong cuộc sống, do thấy được sự hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực của
mơn Tốn đối với bản thân.
12


- Biểu hiện:
Hứng thú học mơn Tốn của học sinh được biểu hiện thong qua các dấu hiệu,
các chỉ số cụ thể trong hoạt động học tập, trong cuộc sống của các em. Những biểu
hiện này khá phong phú, đa dạng và nhiều khi cịn phức tạp, chúng có thể đan xen
vào nhau:
Biểu hiện về mặt cảm xúc: Học sinh có cảm xúc tích cực( u thích, say mê,
…) đối với mơn tốn: Các em thực sự u thích mơn Toán, coi việc học toán là
niềm vui, niềm hạnh phúc.
Biểu hiện về mặt nhận thức: Học sinh nhận thức đầy đủ, rõ ràng những
nguyên nhân của sự yêu thích trên, những nguyên nhân đó có thể trực tiếp liên
quan đến đối tượng của hoạt động học toán ( đến nội dung và phương pháp tư duy
toán học được ứng dụng nhiều trong thực tiễn, giáo viên dạy toán hay,…).
Biểu hiện về một hành động: Học sinh biểu hiện bằng các hành động học tập
tích cực, chủ động, sáng tạo cả trong giờ và ngoài giờ lên lớp như: Trong giờ lên
lớp học sinh say mê học tập chăm chú nghe giảng, ghi chép bày đầy đủ, cẩn thận,
tích cực suy nghĩ, hăng hái phát triển xây dựng bài, hay neu thắc mắc với giáo viên,
tích cực làm việc cùng nhóm để hồn thành nhiệm vụ. Cịn ở ngồi lớp thì các độc
lập và tự giác trong việc học tập, học bài và làm bài đầy đủ, tự giác làm them nhiều
bài tập (ngoài yêu cầu của giáo viên), tự sưu tầm đọc thêm nhiều tài liệu,…
1.2.3. Nhu cầu nhận thức (mơn Tốn)
Nhu cầu nhận thức được hiểu là lịng ham thích sự mong muốn tìm hiểu và
nhận thức thế giới xung quanh, được tạo ra bởi những đòi hỏi tất yếu của cá nhân để
tồn tại và phát triển, là động lực tích cực của cá nhân đối với việc cải tạo hoàn cảnh

xung quanh. Nhu cầu nhận thức vừa là tiền đề vừa là kết quả của quá trình nhận
13


thức. Có lịng ham muốn nhận thức là dấu hiệu tốt xong chưa đủ, mà cần phải làm
cho lòng ham muốn đó vận động và chuyển hóa hành động bên ngồi, thành động
cơ bên trong. Vì thế muốn hình thành tính tích cực nhận thức, trước hết cần hình
thành cho trẻ lịng ham muốn, sự say mê và ý chí nỗ lực vượt qua khó khăn để hồn
thành nhiệm vụ nhận thức.
Nhu cầu nhận thức hình thành và phát triển ở trẻ em từ tuổi thơ, đến lớp mẫu
giáo lớn thì nhu cầu này phát triển mạnh, xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu nhận
thức và phương thức thỏa mãn nó ở mẫu giáo, nghĩa là phương thức hoạt động vui
chơi với tư cách là hoạt động chủ đạo ở mẫu giáo và xuất hiện hoạt động học tập
với tư cách là hoạt động chủ đạo ở Tiểu học.
Trở thành học sinh lớp 1, một nhu cầu nhận thức của trẻ phát triển và thể hiện
rõ nét, đặc biệt là nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh, khát vọng hiểu biết mọi thứ
có liên quan. Nhu cầu của học sinh Tiểu học trong đó có học sinh lớp 3 chủ yếu là
nhu cầu tinh thần. Nhu cầu này có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của các em.
Nếu khơng có nhu cầu nhận thức thì sẽ khơng có tính tích cực trí tuệ. Khơng có nhu
cầu nhận thức học sinh nghĩ rằng học vì cha mẹ, vì thầy cơ hay vì một cái gì đó chứ
khơng phải vì sự tiến bộ trong học tập. Đối với những học sinh này, dù giáo viên có
áp dụng những biện pháp bắt buộc trừng phạt hay gì đó thì cũng khó làm cho các
em chăm chỉ học tập mà chỉ làm cho các em tìm biện pháp đối phó. Thường thì nhu
cầu nhận thức, nhu cầu được học là nhu cầu tự nhiên của trẻ em, những nhu cầu này
có thể bị ức chế, bị dập tắt từ chính việc học của các em. Nguyên nhân đó là:
 Nội dung và phương pháp mơn Tốn khơng phù hợp với tâm sinh lí trẻ
em, làm cho việc học của các em trở nên nặng nề, quá tải, càng học trẻ càng thấy
mệt mỏi và chán nản.

14



 Trong quá trình học tập một số học sinh khơng được quan tâm từ phía
giáo viên, đặc biệt là khi các em gặp khó khăn dẫn đến khơng đạt kết quả (Thường
bị điểm kém, bị chê bai, thường không theo kịp bạn bè).
 Điều kiện học tập quá thiếu thốn khiến cho việc dạy và học trở nên
nhọc nhằn, khó đạt kết quả và rất kém hiệu quả, cũng không nuôi dưỡng được nhu
cầu học tập của học sinh, đồng thời dẫn đến tình trạng học sinh khơng cịn tin vào
khả năng học tập của mình. Chẳng hạn, máy chiếu, thiết bị dạy học, đồ dùng dạy
học chưa đầy đủ nên việc hỗ trợ cho các em học tốt là điều rất khó khăn.

1.3.

Mối quan hệ giữa hứng thú và nhu cầu học tập mơn Tốn của học sinh
lớp 3.
Theo nhà tâm lí học Xơ viết V. P. Simonov: Khi đứng trước một nhiệm vụ

học tập cần giải quyết, tính tích cực nhận thức của học sinh được xác định bằng
công thức sau đây:
T = N (Kct – Kđc)
Trong đó: T là mức độ tính tích cực của học sinh, N là hứng thú và nhu cầu
nhận thức, Kct và Kđc lần lượt là kiến thức, kĩ năng cần thiết và đã có của học sinh
để giải quyết nhiệm vụ học tập đó.
Một số cơng trình nghiên cứu khác đã đồng nhất hứng thú nhận thức với nhu
cầu .L.I. Bozôvich đã xác định hứng thú nhận thức như là nhu cầu nhận thức giúp
con người hướng vào hoạt động này. Cịn X.L.Rubinstêin, A.G. Cơvaliov đã nhận
thấy sự khác nhau giữa hưng thú nhận thức và nhu cầu nhận thức. Họ đã tìm thấy
mối quan hệ qua lại, quy định lẫn nhau nhưng không đồng nhất chúng lẫn nhau.
15



“Hứng thú là biểu hiện của nhu cầu, làm cho chủ thể tìm cách thỏa mãn, tạo ra
khối cảm thích thú”. Còn “nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần
được thõa mãn để tồn tại và phát triển”. Trước hết nhu cầu không cần yếu tố hấp
dẫn nhưng hứng thú phải luôn gắng liền với yếu tố hấp dẫn. Đối tượng để thõa mãn
nhu cầu có thể cụ thể hoặc trừu tượng , nhưng trái lại đối tượng của hứng thú phải
cụ thể rõ ràng. Nhưng giữa hứng thú và nhu cầu có liên quan chặt chẽ với nhau
nhiều khi hứng thú nảy sinh trên cơ sở của một nhu cầu. Nhiều khi hứng thú nảy
sinh trên cơ sở của một nhu cầu của cá nhân về đối tượng mà nó say mê.
Tuy hứng thú và nhu cầu là động cơ hoạt động, nhưng hứng thú là thái độ tình
cảm đặc biệt của chủ thể dành cho đối tượng, còn nhu cầu biểu hiện bằng lòng
mong muốn, khát khao chủ thể đối với đối tượng có khả năng đáp ứng. Chúng tơi
nhấn mạnh đến tính hấp dẫn, ý nghĩa và khoái cảm tinh thần của đối tượng đối với
hứng thú, trong khi nhu cầu nhấn mạnh đến sự thỏa mãn, có quy luật bảo hịa và có
tính chu kỳ…
Trong mơn Tốn ở Tiểu học đặc biệt là đối với các em học sinh lớp 3 thể hiện
rất rõ, tư duy của các em lúc này vẫn là tư duy cụ thể nên thích những cái cụ thể,
trực quan như hình ảnh, đồ dùng dạy học trực quan,… khi các em thích thú với bài
học thì các em thể hiện rất rõ ràng bằng cách dơ tay phát biểu xây dựng bài tốt, lớp
học sẽ trở nên sôi nổi các em sẽ nắm vững được kiến thức hơn. Để được có hứng
thú, sự say mê trong học tập thì phải xuất phát từ nhu cầu nhận thức của các em, các
em mong muốn được trang bị kiến thức cho mình, các em mong muốn cải thiện
điểm số tốn hơn nữa,… thì các em phải cần cố gắng và từ đó nhu cầu nhận thức
được hình thành.
Nhu cầu và hứng thú còn phụ thuộc vào mức độ hấp dẫn và lôi cuốn của
nhiệm vụ học tập và cách diễn đạt, dẫn dắt vấn đề của giáo viên. Giáo viên diễn đạt
16


và dẫn dắt lớp học càng hấp dẫn thì tính tích cực của học sinh càng cao. Mặt khác,

người giáo viên cần chú ý đến điều kiện tương quan giữa hai yếu tố Kct và Kđc sao
cho Kct nằm trong “vùng phát triển gần nhất” của học sinh. Cũng cần tránh nhầm
lẫn giữa Kct và Kđc (Kct – Kđc = 0), đồng thời cũng tránh tạo ra sự khác biệt quá
lớn giữa hai yếu tố này (Kct và Kddc , tức là khi nhiệm vụ quá khó đối với học
sinh. Sự kích thích nhu cầu và hứng thú nhận thức trong quá trình học chủ yếu dựa
vào nội dung dạy học. Nếu nội dung học tập chứa đựng các yếu tố mới, hấp dẫn thì
sẽ càng kích thíc tị mị, ham hiểu biết của các em và thúc đẩy hoạt động nhận thức
phát triển.

Chương 2. NGHIÊN CỨU CHỦ YẾU VỀ HỨNG THÚ VÀ NHU CẦU HỌC
MƠN TỐN CỦA HỌC SINH LỚP 3.
2.1. Một số biện pháp nhằm kích thích hứng thú học mơn Tốn của học sinh
lớp 3
Trong chương trình giáo dục Tiểu học hiện nay mơn tốn cùng với các mơn
học khác trong nhà trường Tiểu học có những vai trị góp phần quan trọng đào tạo
nên những con người phát triển tồn diện,
Tốn học là một mơn khoa học tự nhiên có tính logic và tính chính xác cao, nó là
chìa khóa mở ra sự phát triển của các bộ khoa học khác.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt được mơn tốn thì mỗi người giáo viên cần phải
linh hoạt trong giờ dạy, không phải chỉ truyền đạt giảng giải theo các tài liệu có sẵn
17


trong sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách rập khn, máy móc làm cho
học sinh học một cách thụ động. Nếu chỉ dạy như vậy thì việc học của học sinh diễn
ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ khơng cao. Nó là một trong những
nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động,
tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hằng ngày. Vì vậy
người giáo viên phải gây được hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi cuốn học
sinh tham gia vào hoạt động học tập. Chẳng han:

2.1.1. Kích thích hứng thú và nhu cầu học tốn của học sinh trong gia đình và
xã hội
2.1.1.1. Trong gia đìn
Gia đình là nơi mà các em tiếp xúc, giao tiếp hàng ngày nên việc quan, giúp
đỡ của phụ huynh đều có ảnh hưởng khơng nhỏ tới việc kích thích hứng thú và nhu
cầu học tốn của các em. Bên cạnh những gia đình biết chú trọng, quan tâm đến
việc học tốn của con mình, ln tạo điều điện tốt nhất để học sinh phát huy hết khả
năng học tốn thì vẫn cịn một số gia đình lại có tư tưởng ỷ lại cho nhà trường, coi
việc học của con mình là phải do thầy cơ quan tâm, chưa tạo điều kiện để cho các
em bồi dưỡng thêm toán, chưa sắp xếp được thời gian học tập hợp lí. Đặc biệt các
gia đình ở vùng sâu vùng xa vẫn còn lạc hậu trong nhận thức tầm quan trọng của
việc học toán, với họ học chỉ cần biết chữ là được mà không cần tốn nhiều thời gian
cho việc học mà thay vào đó phải trơng em, đi làm rẫy là phần lớn. Hiện nay, tư
tưởng đó của các gia đình của người dân tộc tiểu số đang được phổ cập và phần nào
cũng nhận ra được vai trò của việc học đặc biệt là mơn Tốn.
Để đem lại nhu cầu và hứng thú học toán cho học sinh các cha mẹ cần phải
biết quan tâm đến việc học của con em mình, ln nhắc nhỡ động viên, khích lệ
tinh thần học tập của các em. Căn cứ vào các đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của học
18


sinh các cha mẹ nên tạo động lực cho các em phấn đấu trong học tập. Chẳng hạn,
như một món quà nho nhỏ nếu con em mình đạt được điểm tốt trong kỳ thi sắp tới.
Như vậy đối với học sinh Tiểu học, sự chú ý giúp đỡ kịp thời động viên và tạo mọi
điều kiện thuận lợi của gia đình góp phần kích thích, động viên các em say mê, tích
cực với hoạt động tốn, học tập đạt kết quả.
2.1.1.2. Ngoài Xã hội
Xã hội cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh trong quá trình học tập,
đặc biệt là học sinh ở vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Nâng cao trình độ
nhận thức cho phụ huynh và học sinh, hỗ trợ về cơ sở vật chất để thuận tiện trong

quá trình giảng dạy, cần phải quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ về kinh tế, tài chính cho các
gia đình thuộc diện nghèo, khó khăn,… để các em được yên tâm đến trường mà
không cần phải lo cơm áo gạo tiền, cũng cần có những chính sách hỗ trợ về học
bổng cho học sinh để các em lấy đó làm động lực phấn đấu vươn lên trong học tập.
hơn các chính quyền địa phương cũng cần phải chú trọng đầu tư về giáo dục, hỗ trợ
kinh phí cho các trường cịn khó khăn, để cho học sinh được học tập trong môi
trường đầy đủ về vật chất lẫn tinh thần.
2.1.2. Kích thích hứng thú và nhu cầu học tập từ phía bản thân học sinh.
Trình độ phát triển trí tuệ của học sinh là cơ sở cần thiết để phát triển hứng
thú học mơn Tốn ở các em. Chỉ có trên cơ sở đó học sinh mới có được những tri
thức ban đầu về mơn Toán, những kỹ năng kỹ xảo đơn giản và những thao tác trí tuệ
nhất định thì học sinh mới hiểu được ý nghĩa của việc học toán, các em sẽ biết được
năng lực học tốn của mình đang ở mức độ nào? Tiếp tục phát huy hay cần phải cố
gắng hơn nữa, từ đó học sinh sẽ nảy sinh ra thái độ tự giác, tích cực trog học tập và
hứng thú học mơn Tốn của học sinh cũng được hình thành.

19


Mặc khác, sự phát triển trí tuệ của học sinh cịn là cơ sở để tạo ra thành tích
có vai trò tâm lý vừa là tiền đề cho hứng thú học tập mơn tốn, vừa là động cơ bổ
trợ duy trì hứng thú học tập mơn tốn. Đầu tiên thành tích tạo nên xúc cảm đúng
đắn – là tiền đề của hứng thú học mơn Tốn, sau đó khi hứng thú xuất hiện nó tạo
nên một thành tích cao hơn nữa và thành tích này lại tiếp tục phát triển và duy trì
hứng thú hơn đối với mơn tốn.
Có thể nói mức độ phát triển trí tuệ, kỹ năng trí tuệ là một cơ sở cần thiết để
phát triển hứng thú học mơn Tốn ở học sinh. Đồng thời là một điều kiện quan
trọng để bồi dưỡng hứng thú học mơn Tốn ở các em. Hơn nữa học sinh cần có thái
độ đúng đắn đối với việc học, học sinh phải thể hiện được thái độ xúc cảm tích cực
với việc học mơn tốn, phải có ý thức, tự giác, hiểu được ý nghĩa và vai trị của việc

học tốn ở học sinh Tiểu học.
Yếu tố này là điều kiện là tiền đề quan trọng của sự hình thành hứng thú và
nhu cầu học mơn Tốn của học sinh Tiểu học, nó sẽ giúp cho sự duy trì và phát triển
hứng thú học mơn Tốn ngày một tốt hơn.
Các yếu tố chủ quan khác như nhu cầu, tính ham hiểu biết, niềm vui nhận
thức, sự nỗ lực ý chí, những năng lực,… của học sinh cũng ảnh hưởng tới sự hình
thành và phát triển hứng thú học tập mơn Tốn ở các em.
2.1.3. Kích thích hứng thú và nhu cầu học Tốn của học sinh trong nhà
trường.
2.1.3.1. Kích thích hứng thú và nhu cầu học Tốn của học sinh thơng qua
cơ sở vật chất trong nhà trường, giáo viên và tập thể học sinh trong lớp.
Nhà trường nên xin hỗ trợ đầu tư từ cấp trên, để xây dựng lại phịng học hiện đại
thống mát, sạch sẽ đồng thời bổ sung thêm thiết bị dạy học phục vụ cho giáo viên
20


và học sinh, mua sắm thêm các đồ dùng dạy học như loa ,đài ,máy chiếu…sử dụng
mạng internet. Xây dựng thêm thư viện cung cấp nguồn tài liệu cần thiết cho quá
trình dạy và học của giáo viên và học sinh.
Từ năm 2002- 2003 chương trình Tiểu học mới đã thực hiện trên phạm vi tồn
quốc, Bộ GD khuyến khích các giáo viên sử dụng biện pháp năng động hơn trong
dạy học nhằm phát huy tính tích cực cho học sinh và bồi dưỡng hứng thú học tập
cho các em. Chính vì vậy, một u cầu đặt ra cho giáo viên tiểu học là phải hình
thành hứng thú học tập cho học sinh bằng các phương pháp dạy học mới mẻ, phù
hợp và thực sự có hiệu quả. Có thể nói, để vừa kích thích hứng thú học tập của học
sinh vừa thực hiện tốt mục tiêu của tiết dạy là trăn trở của mọi giáo viên nói chung
và giáo viên Tiểu học nói riêng. Biết được khó khăn đó tơi đề xuất một số biện pháp
để kích thích hứng thú và nhu cầu học tập mơn Tốn cho học sinh lớp 3 như sau:
+ Trước hết là ngoại hình và phong thái đứng lớp của người giáo viên phải tạo
được ấn tượng tốt đối với học sinh. Vì đặc điểm tâm lý của học sinh Tiểu học đặc

biệt là học sinh lớp 3 các em rất thần tượng giáo viên của mình thế nên giáo viên
khi đến lớp phải ăn mặc gọn gang sạch sẽ đúng với tác phong của nhà giáo. Khi
bước vào lớp giáo viên phải tạo được bầu khơng khí vui tươi, thoải mái, lời nói phải
rõ ràng thu hút được người nghe. Giáo viên không nên gây căng thẳng, nặng nề
trong giờ học vì làm như vậy sẽ gây nên áp lực cho học sinh.
+ Giáo viên phải có trình độ chun mơn, phải có lịng u nghề, say mê, nhiệt
huyết trong cơng việc, phải có đạo đức nghề nghiệp, biết lắng nghe, chia sẻ với học
sinh, phải quan tâm giúp đỡ kịp thời đôi với với người học, nhằm khắc phục những
hạn chế những lỗ hổng kiến thức cho các em. Nếu đáp ứng được những yêu cầu cơ
bản trên thì giáo viên sẽ trở thành một nhà giáo giỏi – tốt các em sẽ thần tượng, sẽ
nêu gương và học tập theo, từ đó sẽ nảy sinh hứng thú học tập trong các em.
21


Mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể lớp có vai trị lớn trong việc hình thành hứng
thú và nhu cầu học mơn Tốn của học sinh Tiểu học. Thông qua việc tiếp xúc, trao
đổi tranh luận với nhau, học sinh sẽ tìm ra được kiến thức mới, từ kiến thức mới đó
các em sẽ phát hiện ra nhiều điều thú vị hơn. Từ đó các em biết tích cực, tự giác,
sáng tạo trong học tập, tạo nên bầu khơng khí vui tươi, làm nảy sinh niềm vui, hào
hứng trong lớp học.
2.1.3.2. Kích thích hứng thú và nhu cầu của học sinh thơng qua chương trình
dạy học tốn lớp 3.
Các yếu tố được nêu trên thì yếu tố nào cũng có tầm quan trọng và sức ảnh
hưởng to lớn đến với sự hứng thú và nhu cầu học Toán của học sinh Tiểu học đặc
biệt là học sinh lớp 3. Trong đó có “Các biện pháp kích thích hứng thú và nhu cầu
học Toán của học sinh lớp 3 thơng qua các hoạt động dạy học trên lớp” nó tác
động trực tiếp đến học sinh, về thời gian thì dạy học chiếm 80% hoạt động của
nhà trường. Trong thực tế, các biện pháp này rất phong phú, đa dạng bao gồm
một số vấn đề sau:




Kích thích hứng thú và nhu cầu học tốn thơng qua “Giác ngộ được ý

thức học tập”
Giải thích: Là học sinh sẽ biết được mình đã học những kiến thức nào? Đang
ở mức độ nào của việc lĩnh hội kiến thức? Giác ngộ được ý thức học tập cịn được
hiểu là học sinh chỉ có thể học tập tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo khi ý thức
được rằng: Học để làm gì?, Học cho ai? Học như thế nào?. Từ đó học sinh sẽ có
thái độ và động cơ học tập đúng đắn, chăm chỉ hơn, siêng năng hơn, biết tự khắc
phục những hạn chế, những lỗ hổng kiến thức trước đây, biết khám phá tìm tịi, bổ
sung, trao dồi tri thức mới, ý thức được kết quả học tập của bản thân mình.

22


Khi học sinh ý thức được việc học (mơn Tốn) các em sẽ tự giác và độc lập
hơn, sẽ tự nỗ lực và cố gắng hơn nhiều. Chẳng hạn, khi bản thân giải ra một bài tập
khó, hay phát hiện ra một điều gì mới, sự vật lộn với những vất vả đó sẽ đem lại
nguồn cảm hứng cho học sinh, các em sẽ cảm thấy vui sướng phấn khởi hơn nhiều
hơn so với việc nghe thầy giáo giảng giải hộ mười bài như vậy, các em sẽ thấy được
rằng sự nỗ lực của mình là xứng đáng, đó cũng chính là động lực thúc đẩy các em
phát huy khả năng của mình trong giờ học.
Biện pháp này phù hợp với phương pháp dạy học mới hiện nay “Phương
pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh Tiểu học” là lấy học sinh làm
trung tâm, nghĩa là mọi hoạt động dạy học đều hướng vào người học ở khát vọng
hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong q trình chiếm lĩnh tri thức. Tính
tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập.
Động cơ đúng thì sẽ tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Tính tích cực
sẽ nảy sinh ra nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm móng của sáng tạo.

Ngược lại, phong cách học tập tích cực, độc lập, sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng
thú, bồi dưỡng động cơ học tập. tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu
như: Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn,
thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra, hay nêu thắc mắc, địi hỏi giải
thích cặn kẽ những vấn đề mới, tập trung chú ý vào vấn đề đang học, kiên trì hồn
thành các bài tập, khơng nản trước những tình huống khó khăn.
Cách thực hiện :
Vì đây là một biện pháp liên quan đến đặc điểm tâm lí, nhận thức của học
sinh Tiểu học, phải giúp cho học sinh nhận thức được vai trị của việc học tốn sẽ
đem lại cho các em một tư duy logic tốn học, trí óc sáng tạo, làm việc khoa học,…
hơn nữa kích thích tinh thần trách nhiệm và hứng thú học tập của các em bằng cách
23


nói lên ý nghĩa lý thuyết và thực tiễn, tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu, các
em sẽ thấy được giá trị đích thực của việc học, có như vậy thì giáo viên mới dễ tác
động, dễ lơi cuốn các em tham gia vào quá trình học được.
+ Giáo viên dựa vào từng thời điểm, sắc thái, biểu cảm, năng lực của các em
mà có những cách dạy khác nhau. Khơng nên dạy học khơng sát với tình độ, ln ra
những bài tập khó, vượt q khả năng của các em, để học sinh thất bại liên tiếp
trong quá trình dạy tốn là giết chết niềm lạc quan học tập của các em . Cho nên tổ
chức cho học sinh học tập tự giác tích cực, chủ động và sáng tạo gắng liền với việc
giác ngộ ý thức học tập dựa trên lao động và thành quả của bản thân người học.
VD 1: “Xem đồng hồ”
Bài 1: Xem đồng hồ
(Trang 13- toán 3)

Khi dạy bài “Xem đồng hồ” giáo viên sẽ giúp cho học sinh biết được đây là
bài học “Đồng hồ” đầu tiên trong chương trình Tiểu học (lớp 3) nên có phần mới lạ
mà các em cần phải chú ý. Khi giáo viên yêu cầu học sinh học xem đồng hồ học

24


sinh không những biết cách quan sát, nhận biết được đâu là kim dài (kim giờ), kim
ngắn (kim phút), đâu là giờ hơn, giờ kém mà còn giúp cho các em biết liên hệ với
thực tế áp dụng vào trong các hoạt động thực tiễn của mình, biết được ý nghĩa, tác
dụng của việc xem đồng hồ là giúp các em sẽ biết giờ giấc để dậy, để ăn sáng, để
làm các công việc hàng ngày,....
Qua việc xem đồng hồ, các em sẽ biết được nguồn gốc của đồng hồ được được
ra đời từ đâu? Vào thời gian nào? Biết được tác dụng vào mục đích của việc xem
đồng hồ quan trọng như thế nào trong cuộc sống?. Từ việc giác ngộ được ý thức đó,
cùng với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh Tiểu học vốn dĩ thích tìm tịi khám
phá cái mới lạ, các sẽ biết yêu quý, giữ gìn chiếc đồng hồ nhà mình, sẽ tham gia vào
quá trình học một cách nhiệt tình, say mê hơn.
VD 2: “ Cộng trừ các số có ba chữ số”
Bài 3: Khối lớp 1 có 245 học sinh, khối lớp 2 ít hơn khối lớp 1 32 học sinh. Hỏi
khối lớp 2 có bao nhiêu học sinh”.
(Trang 4).
Ở Tiểu học ngồi những bài tốn u cầu học sinh thực hành tính giá trị biểu
thức, tìm thành phần chưa biết, điền số hoặc dấu ( >,<,=) thích hợp vào chỗ trống
thì trong chương trình cịn có các bài tốn diễn đạt bằng lời gọi là bài tốn giải có
lời văn. Bên cạnh việc giáo viên giúp học sinh hiểu được khái niệm, định nghĩa của
“ Bài tốn có lời văn” là như thế nào? thì giáo viên cịn giúp học sinh tự mình tìm ra
được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái đã phải tìm trong điều kiện của bài tốn mà
thiết lập được các phép tính số học, tương ứng phù hợp.

25



×