Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.67 KB, 2 trang )
Quản lý hàng gia công xuất khẩu : Vướng
mắc về thanh khoản
Được miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên phụ liệu, loại hình gia công xuất khẩu lâu
nay được tạo nhiều điều kiện thuận lợi. Tuy nhiên, tình trạng tồn đọng hợp đồng gia
công chưa thanh khoản hiện nay đang cần xem xét, bởi đây là mắt xích quan trọng để
quản lý loại hình này.
Theo quy định, nguyên phụ liệu NK để gia công hàng XK được miễn thuế khi nhập khẩu.
Việc thanh khoản hợp đồng gia công kịp thời nhằm xác định được số nguyên phụ liệu NK
đó có được sử dụng vào sản xuất hàng XK hay không, số sản phẩm đó có được XK hết hay
không. Do còn tồn đọng các hợp đồng gia công chưa được thanh khoản nên việc quản lý
chưa được chặt chẽ, thậm chí rất có khả năng xảy ra trường hợp lợi dụng tiêu thụ nguyên
phụ liệu NK được miễn thuế ra thị trường nội địa để trốn thuế.
Tuy nhiên, xét về nguyên nhân dẫn đến tình trạng này lại không chỉ xuất phát từ sự chậm
trễ của DN, sự lơi lỏng của cơ quan Hải quan, mà còn từ những quy định pháp luật hiện
nay. Theo phân tích của Chi cục Hải quan quản lý hàng đầu tư gia công Hải Phòng, đơn vị
quản lý số lượng lớn DN làm hàng gia công XK, hiện có phát sinh một số vướng mắc khi
thực hiện Thông tư 116/2008/TT-BTC ngày 4/12/2008 hướng dẫn về thủ tục hải quan đối
với hàng hóa gia công với thương nhân nước ngoài. Chẳng hạn một loại chứng từ mới mà
DN cần phải xuất trình khi thanh khoản hợp đồng gia công là Chứng từ thanh toán tiền
công của bên thuê gia công (bản chính). Các DN cho rằng, thực hiện theo quy định này sẽ
khó khăn, bởi đặc thù của loại hình gia công là hợp đồng gia công không phải là hợp đồng
mua bán, vì vậy không có điều khoản thanh toán cho hàng hóa. Trên thực tế không phải lúc
nào DN nước ngoài cũng thanh toán tiền công cho DN gia công của VN, mà có thể thay
thế bằng hình thức khác (như sản phẩm, nguyên phụ liệu thừa, máy móc thiết bị...). Bởi
vậy, một số DN đề nghị không nên yêu cầu DN xuất trình chứng từ thanh toán tiền công
khi thanh khoản hợp đồng.
Về phía cơ quan hải quan, Hải quan Hải Phòng cũng cho rằng đây là đề nghị hợp lý, vì nếu
DN không xuất trình được chứng từ thanh toán tiền công, hoặc xin nộp chậm thì sẽ không
thanh khoản được, dẫn đến việc quản lý không chặt chẽ. Thực tế thì việc thanh khoản chỉ
cần dựa trên việc so sánh giữa số lượng nguyên phụ liệu NK, định mức sản xuất và số sản
phẩm gia công XK, trên cơ sở đó xác định được hàng gia công thuộc hợp đồng gia công đã