Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.26 KB, 22 trang )

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
STATE MANAGEMENT OF FOREIGN DIRECT INVESTMENT IN VIETNAM PRACTICES AND SOLUTIONS
TS. Chu Thị Thủy
ThS. Đặng Thị Thư
Trường Đại học Thương mại
Tóm tắt
Trong thời gian qua, quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt
được những thành tựu đáng kể, cải thiện được môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường
pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng giúp thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư nước
ngoài. Tuy nhiên, quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này cịn tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế
và cần có những biện pháp để khắc phục, đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập sâu rộng hơn vào
kinh tế khu vực và thế giới của Việt Nam. Bài viết đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý
nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian tới dựa trên cơ sở kết
quả nghiên cứu lý luận và phân tích đánh giá thực trạng về quản lý nhà nước đối với đầu tư
trực tiếp nước ngồi trong những năm gần đây.
Từ khóa: quản lý nhà nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam
Abstract
In the recent years, state management of foreign direct investment has gained
significant achievements, improved the business investment and legal environment and has
created good and equal conditions to attract more and more foreign investors. However, the
state management of this field still has difficulties and restrains that need to have solutions to
overcome, especially in the era of deeper integration in regional and international economy
of Vietnam. The article suggests the solutions to improve state management of foreign direct
investment of Vietnam in the coming years which are based on the foundation of the results of
studying, reasoning, analyzing and evaluating the situation of state management of foreign
direct investment in the recent years.
Key words: state management, foreign direct investment, Vietnam
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài viết được nghiên cứu trên cơ sở áp dụng phương pháp duy vật biện chứng, tư duy
và phân tích kinh tế, nghiên cứu tổng hợp các tài liệu lý luận khoa học, phân tích tình hình


thực tiễn có đối chứng, so sánh với lý luận khoa học, thống kê và phương pháp chuyên gia...
để giải quyết vấn đề đặt ra. Bên cạnh đó bài viết sử dụng các số liệu của các cơ quan thống kê,
các cuộc khảo sát, điều tra và trực tiếp thu thập và xử lý các số liệu, thơng tin có liên quan đến
quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. MỘT SỐLÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI

215


1.1.

Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài

Đầu tư nước ngồi được hình thành thơng qua sự chênh lệch về năng suất cận biên của
vốn giữa các nước, sự khác nhau về quyền sở hữu các yếu tố sản xuất, tài ngun thiên nhiên,
vịng đời của sản phẩm, trình độ phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài là một bộ phận cấu thành nên đầu tư nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước
ngồi đang ngày càng chứng tỏ vai trị đặc biệt quan trọng khi tỷ trọng đóng góp vào đầu tư
nước ngồi lớn và khơng ngừng gia tăng.
Hiện nay trên thế giới, khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài được diễn giải theo nhiều
cách khác nhau. Theo Tổ chức Thương mại quốc tế WTO: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy
ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác
(nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân
biệt đầu tư trực tiếp nước ngoài với các cơng cụ tài chính khác”. Trong khi quỹ tiền tệ quốc tế
IMF lại đưa ra cách định nghĩa như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là số vốn đầu tư được
thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế
khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư mong muốn tìm
được chỗ đứng trong việc quản lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường. Tổ chức OECD cũng

đưa ra khái niệm như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư được thực hiện
nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp đặc biệt là những khoản
đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách:
Thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của
chủ đầu tư; Mua lại tồn bộ doanh nghiệp đó; Tham gia vào một doanh nghiệp mới; Cấp tín
dụng dài hạn (trên 5 năm). Khái niệm của OECD về cơ bản cũng giống như khái niệm của
IMF về đầu tư trực tiếp nước ngồi, đó là cũng thiết lập các mối quan hệ lâu dài (tương tự với
việc theo đuổi lợi ích lâu dài trong khái niệm của IMF), và tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý
doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài không được quy định cụ thể mà
thông qua khái niệm về đầu tư nước ngoài. Khái niệm về đầu tư nước ngoài được quy định rõ
tại khoản 12 điều 3 Luật đầu tư 2005: “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa
vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư”. Từ
những khái niệm trên, có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn
bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc
quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của
mình”. Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có
nhân tố nước ngồi.
1.2. Quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
Quản lý, thuật ngữ “quản lý” thường được hiểu theo những cách khác nhau tuỳ
theo góc độ khoa học khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu. Quản lý là đối
tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và khoa học tự nhiên.

216


Theo quan niệm của C.Mác: “Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào
đó mà được tiến hành tuân theo một quy mô tương đối lớn đều cần có sự quản lý ở mức độ

nhiều hay ít nhằm phối hợp những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung
phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất, sự vận động này khác với sự vận động
của các cơ quan độc lập của cơ thể đó. Một nhạc cơng tự điều khiển mình, nhưng một dàn
nhạc phải có nhạc trưởng” 1.Tức theo C.Mác quản lý là nhằm phối hợp các lao động đơn lẻ để
đạt được cái thống nhất của tồn bộ q trình sản xuất. Ở đây C.Mác đã tiếp cận khái niệm
quản lý từ góc độ mục đích của quản lý.
Theo quan niệm của các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay: Quản lý là sự
tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để
chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đã đề ra và đúng với ý trí của người
quản lý. Theo cách hiểu này thì quản lý là việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động của xã hội
nhằm đạt được một mục đích của người quản lý. Theo cách tiếp cận này, quản lý đã nói rõ lên
cách thức quản lý và mục đích quản lý.
Như vậy, theo cách hiểu chung nhất thì quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên
đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Việc tác động theo cách nào cịn tuỳ thuộc
vào các góc độ khoa học khác nhau ,các lĩnh vực khác nhau cũng như cách tiếp cận của người
nghiên cứu. Quản lý nói chung là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý vào các đối
tượng quản lý để điều khiển đối tượng quản lý nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
Quản lý nhà nước, theo giáo trình quản lý hành chính nhà nước: “Quản lý nhà nước là
sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và
hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự
pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. 2Quản lý nhà nước về kinh tế là sự
tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử
dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngồi nước, các cơ hội có thể có, để đạt
được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đặt ra trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao
lưu quốc tế. Theo nghĩa rộng, quản lý Nhà nước về kinh tế được thực hiện thông qua cả ba
loại cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước. Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà
nước về kinh tế được hiểu như hoạt động quản lý có tính chất Nhà nước nhằm điều hành nền
kinh tế, được thực hiện bởi cơ quan hành pháp (Chính phủ).
Quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động chấp hành và điều

hành của các cơ quan hành chính Nhà nước Việt Nam được tiến hành trên cơ sở pháp luật và
để thi hành pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngồi nhằm khuyến khích và bảo đảm cho các
nhà đầu tư nước ngoài tiến hành các hoạt động đầu tư tại Việt Nam trên cơ sở tuân thủ pháp
luật và hai bên cùng có lợi. Mặt chấp hành của hoạt động này thể hiện ở sự thực hiện các quy
định của pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt điều hành là sự chỉ đạo trực tiếp hoạt
động của nhà đầu tư nước ngồi, các bên hợp doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Một đặc trưng của hoạt động điều hành là các văn bản dưới luật mang tính chất
1

Các Mác – Ph. Ăng ghen, tồn tập, tập 23, trang 23
2
Học viện hành chính quốc gia (2011), Giáo trình quản lý hành chính nhà nước, tập 1, trang 407

217


pháp lý, quyền lực được đảm bảo bởi khả năng áp dụng cưỡng chế. Hoạt động chấp hành
thường bao hàm hoạt động điều hành bởi trong đa số các trường hợp, nếu thiếu các hoạt động
điều hành thì khơng thể chấp hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh được.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
Quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện các nhiệm vụ sau:
Xây dựng chiến lược, quy hoạch và chính sách, định hướng cho các hoạt động đầu tư;
Ban hành các văn bản pháp luật, quy chế quản lý đầu tư như Luật đầu tư, Luật thuế...; Hướng
dẫn các ngành, địa phương thực hiện các công việc liên quan đến hoạt động đầu tư nước
ngoài; Cấp và thu hồi giấy phép; Quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong
quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài; Kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
Quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngồi được thực hiện thơng qua các
cơ quan sau:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngồi tại Việt

Nam, Chính phủ quy định việc cấp giấy phép đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Căn cứ vào
quy định, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, lĩnh vực, quy mơ, tính chất của dự án đầu tư;
quyết định việc phân cấp giấy phép đầu tư cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
có đủ điều kiện, quy định việc cấp giấy phép đầu tư đối với dự án đầu tư vào khu chế xuất,
khu công nghiệp.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư, là cơ quan quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngồi, giúp
Chính phủ quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có
nhiệm vụ và quyền hạn sau: Chủ trì xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy
hoạch thu hút vốn đầu tư nước ngoài, soạn thảo các dự án pháp luật, chính sách về đầu tư
nước ngồi, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc quản
lý nhà nước về đầu tư nước ngoài, hướng dẫn UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
trong việc thực hiện pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngoài; Xây dựng tổng hợp danh
mục đầu tư; hướng dẫn về thủ tục đầu tư, quản lý nhà nước đối với các hoạt động xúc tiến và
hướng dẫn đầu tư; Tiếp nhận dự án đầu tư và chủ trì thẩm định, cấp giấy phép đầu tư cho các
dự án đầu tư thuộc thẩm quyền; Làm đầu mối giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình
hình thành, triển khai và thực hiện dự án đầu tư nước ngoài; Đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội
của hoạt động đầu tư nước ngoài; Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các hoạt động đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ: Thực hiện việc quản lý nhà
nước đối với đầu tư nước ngoài theo chức năng và thẩm quyền; Phối hợp với Bộ Kế hoạch và
Đầu tư trong việc xây dựng pháp luật, chính sách, quy hoạch liên quan đến đầu tư nước ngoài;
Xây dựng kế hoạch, danh mục dự án thu hút vốn đầu tư nước ngoài của ngành, tổ chức vận
động, xúc tiến đầu tư; Tham gia thẩm định các dự án đầu tư; Hướng dẫn giải quyết các thủ tục
liên quan đến triển khai thực hiện dự án đầu tư. Kiểm tra, thanh tra các hoạt động của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh thuộc lĩnh
vực phụ trách; Thực hiện các nhiệm vụ khác thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

218



- UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Thực hiện việc quản lý nhà nước về
đầu tư nước ngoài trên địa bàn lãnh thổ theo chức năng và thẩm quyền. Căn cứ vào quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội đã được phê duyệt lập và công bố danh mục dự án thu hút vốn đầu
tư nước ngoài tại địa phương tổ chức vận động, xúc tiến đầu tư; Tham gia thẩm định các dự
án đầu tư nước ngoài tại địa phương; Tiếp nhận dự án đầu tư, thẩm định, cấp giấy phép đầu tư
cho các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo phân cấp của Chính phủ; Giải quyết các
thủ tục hành chính liên quan đến hình thành triển khai thực hiện dự án theo thẩm quyền; Quản
lý Nhà nước trên địa bàn lãnh thổ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh; Kiểm tra, thanh tra
hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác
kinh doanh.
- Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất là đầu mối hướng dẫn các nhà đầu tư vào
khu công nghiệp, khu chế xuấttheo hồ sơ dự án của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và được uỷ quyền
tiếp nhận hồ sơ của các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuấtvà thẩm định cấp giấy
phép đầu tư cho các dự án đáp ứng đủ các yêu cầu quy định; quản lý hoạt động của các dự án
sau khi cấp giấy phép.
2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
2.1. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài
Từ khi Luật Đầu tư sửa đổi 2014 có hiệu lực từ 1/7/2015 và sau 30 năm thực hiện
chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài với việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm
1987 (một trong những đạo luật đầu tiên của thời kỳ đổi mới) và Luật sửa đổi bổ sung vào các
năm 1990, 1992, 1996, 2000, 2005 và năm 2014, cùng với các văn bản dưới luật, Việt Nam
đã xây dựng được một khung pháp lý đồng bộ, thơng thống, phù hợp với thông lệ quốc tế và
tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngồi.
2.1.1. GDP đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo báo cáo của Tổng cục thống kê từ năm 2011 đến năm 2014GDP đóng góp của
khu vực đầu tư trực tiếp nước ngồi ngày càng có xu hướng gia tăng cả về số lượng và tỷ
trọng, cụ thể được thể hiện rõ nét trong những năm gần đây, (xem bảng 2.1 và đồ thị 2.1).


219


Bảng 2.1: GDP đóng góp của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngồi giai đoạn 2011-2014
2011

2012

2013

2014

Chỉ tiêu

Nghìn
%
tỷ đồng

Nghìn
%
tỷ đồng

Nghìn
%
tỷ đồng

Nghìn
%
tỷ đồng


GDP FDI

501.6

18.0
5

587.0

18.09

700.7

19.55

791.3

20.09

GDP cả nước

2779

100

3245.4

100

3584.3


100

3937.9

100

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015
Đồ thị 2.1: GDP đóng góp của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2011-2014
2.1.2. Vốn đầu tư và đóng góp vào ngân sách nhà nước của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong những năm qua, vốn đầu tư của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngồi duy trì và
giữ vững về mặt số lượng cũng như tỷ trọng, được thể hiện là các nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài yên tâm đầu tư hơn, đặc biệt là năm 2014, (xem bảng 2.2 và đồ thị 2.2).

220


Bảng 2.2: Vốn đầu tư và đóng góp vào ngân sách nhà nước
của đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2011-2014
Chỉ tiêu

2011

2012

2013

2014


Nghìn
%
tỷ đồng

Nghìn
%
tỷ đồng

Nghìn
tỷ đồng

%

Nghìn
%
tỷ đồng

Vốn đầu tư 226.9

25.9

218.6

21.6

240.1

21.9


265.4

21.7

Đóng góp
72.7
vào NSNN

10.09

97.7

13.3

107.3

13.57

111.6

14.25

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015
Trong bối cảnh tích lũy không đáp ứng nhu cầu về đầu tư, nguồn vốn đầu tư nước
ngoài đã thực sự là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển. Trong giai đoạn 2001
– 2005, đầu tư nước ngồi đã đóng góp 16% tổng vốn đầu tư tồn xã hội, tỷ trọng này tăng lên
24,8% trong thời kỳ 2006 – 2011 và 22,8% trong thời kỳ 2011 – 2014.

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015
Đồ thị 2.2: Vốn đầu tư và đóng góp vào ngân sách nhà nước

của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2011-2014
Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, đầu tư trực tiếp của
nước ngoài từ đầu năm 2016 đến thời điểm 20/2/2016 thu hút 291 dự án được cấp phép mới
với số vốn đăng ký đạt hơn 1905 triệu USD. Đồng thời, có 137 lượt dự án đã cấp phép từ các
năm trước được cấp bổ sung vốn với hơn 898 triệu USD. Như vậy, tổng vốn đăng ký của các
dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt hơn 2800 triệu USD, tăng 135% so với cùng kỳ năm
2015. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện hai tháng đầu năm 2016 ước tính đạt 1,5 tỷ
USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2015. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong hai tháng đầu
năm 2016 tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, ngành nghệ thuật, vui

221


chơi và giải trí. Trong số 31 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới tại Việt Nam
trong 2 tháng đầu năm nay, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất, tiếp đến là Malaysia, Hàn Quốc,
Nhật Bản... Những dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép trong những ngày
đầu năm 2016 chỉ dấu hiệu sớm về một mùa bội thu, tiếp sau những thành công đạt được
trong năm 2015. Tuy nhiên, điều này cũng tạo áp lực cho kế hoạch thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài năm 2016.
Ngay ngày đầu tiên của năm mới 2016, tỉnh Bắc Ninh đã đón dự án đầu tư trực tiếp
nước ngồi đầu tiên. Đó là dự án Nhà máy may của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Maple
(Singapore), triển khai tại khu công nghiệp VSIP Bắc Ninh.Thông tin từ UBND tỉnh Bắc
Ninh cho biết, Dự án có vốn đầu tư 110 triệu USD, với kế hoạch sản xuất 22 triệu sản
phẩm/năm và sẽ đi vào hoạt động vào đầu năm 2018 – năm mà theo dự kiến, Hiệp định Đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có hiệu lực. Khu cơng nghiệp VSIP Bắc Ninh đã đón
những dự án đầu tiên trong năm 2016. “Đây là dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tiên
đăng ký đầu tư vào tỉnh ngay những ngày đầu năm, đánh dấu sự khởi đầu tốt đẹp cho một
năm mới, một nhiệm kỳ mới”, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh Nguyễn Tử Quỳnh đã vui
mừng phát biểu tại Lễ trao Giấy chứng nhận đầu tư cho Maple. Trong khi đó, sau Bắc Ninh 1
ngày, Ban quản lý Khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh (SHTP) cũng đã trao giấy

chứng nhận đầu tư cho các dự án đầu tư mới, trong đó có dự án của Cơng ty United More
SDN.Bhd (Malaysia). Với vốn đầu tư khoảng 21 triệu USD, nhà đầu tư này dự định xây dựng
nhà máy Aureumaex Precision Plastics, chun sản xuất khung màn hình nhựa bóng và vỏ
sau nhựa cho các loại ti vi (TV) thông minh, TV LCD và TV LED có độ chính xác cao.Khơng
khó để dự đốn, United More đang nhằm đến việc trở thành nhà cung cấp cho Tổ hợp
Samsung SEHC, vốn đầu tư 2 tỷ USD, đã đi vào hoạt động trong tháng 02/2016 cũng tại
SHTP.Sự hồ hởi cũng là điều nhìn thấy rõ ở các vị lãnh đạo SHTP vào những ngày đầu năm
2016. Thành tích thu hút khoảng 23 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của năm 2015 là
khơng đơn giản để vượt qua.
Có kết quả này là vì có tới 5 dự án tỷ USD được cấp chứng nhận đầu tư mới hoặc tăng
vốn, với tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm là 8,2 tỷ USD, chiếm trên 35% tổng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giải ngân là 14,5 tỷ USD.
Việc một loạt dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi quy mơ lớn, như phần tăng thêm 3 tỷ USD
của Dự án Samsung Thái Nguyên, hay 3 tỷ USD của Samsung Display, rồi Dự án Liên hợp
Thép Formosa Hà Tĩnh… đã đóng góp lớn cho vốn giải ngân.
Cơ cấu kinh tế cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng tích cực. Tỷ trọng ngành
nông nghiệp từ chỗ chiếm 80% trong năm 1988, đến năm 2011 chỉ cịn chiếm 22%, cơng
nghiệp – dịch vụ chiếm 78%. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực có vốn đầu tư
nước ngồi ln cao hơn tốc độ tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước. Năm 1996, tốc
độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực đầu tư nước ngoài là 21,7% trong khi tốc độ tăng
trưởng công nghiệp cả nước là 14,2%. Năm 2000 tốc độ này tương ứng là 21,8% và 17,5%.
Năm 2005 là 21,2% và 17,1%, năm 2010 là 17,2% và 14,7%.
Đóng góp vào ngân sách nhà nước của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng
đượcgia tăng một cách đáng kể, trong năm 2011 chỉ có 72,7 nghìn tỷ đồng thì đến năm 2014
đã là 111,6 tăng 53,51% so với năm 2011, (xem bảng 2.2 và đồ thị 2.2).

222


Trong 5 năm 2006 - 2010, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài

đạt hơn 10,5 tỷ USD, tăng bình quân trên 20%/năm. Trong năm 2011, thu nộp ngân sách của
khu vực đầu tư nước ngồi (khơng kể thu từ dầu thô) đạt 3,5 tỉ USD.Khu vực đầu tư nước
ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nếu như
năm 1995, khu vực đầu tư nước ngoài, kể cả dầu thơ, chỉ chiếm 27% tổng xuất khẩu cả nước,
thì đến năm 2011 đã chiếm 59%.
2.1.3. Tổng số lao động trong doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong giai đoạn 2011 - 2014 tổng số lao động trong doanh nghiệp đầu tư trực tiếp
nước ngoài ngày càng được gia tăng, điều này thể hiện rõ chính sách tạo cơng ăn việc làm cho
khu vực này được quan tâm đáng kể của người lao động, (xem bảng 2.3 và đồ thị 2.3).
Bảng 2.3: Tổng số lao động trong doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngồi
giai đoạn 2011-2014
2011
Chỉ tiêu

Nghìn
người

DN đầu tư
trực
tiếp 2156.1
nước ngồi
Cả nước

9830.9

2012
%

21.9
100


2013

2014

Nghìn
người

%

Nghìn
người

%

Nghìn
người

%

2550.6

23.4

2720.0

24.5

3050.9


26.6

10895.6

100

11084.9

100

11446.4

100

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015

Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2015
Đồ thị 2.3: Tổng số lao động trong doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài
giai đoạn 2011-2014

223


2.1.4. Các ngành có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn (1988- tháng 6/2015)

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2015
Đồ thị 2.4: Các ngành có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi lớn (1988- tháng 6/2015)
Thực trạng nếu xếp theo dự án thì ngành cơng nghiệp chế tạo là có nhiều dự án nhất,
tiếp theo là ngành xây dựng và cuối cùng là ngành sản xuất và phân phối điện, khí, nước. Cịn
theo vốn đầu tư thì ngành chế tạo cơng nghiệp là có vốn đầu tư lớn nhất, tiếp đến là kinh

doanh bất động sản và cuối cùng vẫn là ngành sản xuất và phân phối điện, khí, nước, (xem đồ
thị 2.4 và bảng 2.4).
Bảng 2.4: Các ngành có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn (1988- tháng 6/2015)
TT

Các ngành

Dự án (nghìn)

Tỷ USD

1

Cơng nghiệp chế biến, chế tạo

9.939

145.28183

2

Kinh doanh bất động sản

0.464

48.74031

3

Xây dựng


1.216

11.57216

4

Dịch vụ lưu trú và ăn uống

0.389

11.23005

5

Sản xuất và phân phối điện, khí, nước 0.101

9.89714

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2015

224


2.1.5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam phân theo khu vực (1988- tháng 6/2015)
Bảng 2.5: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam phân theo khu vực(1988- tháng
6/2015)

TT


Khu vực

Tỷ
Số dự trọng
án
số dự
án

Tổng
vốn
đầu tư đăng Vốn
điều

(Triệu (Triệu USD)
USD)

1

Đồng bằng sông Hồng

5596

30.29

64802.58

20267.46

2


Trung du và miền núi

547

2.96

12034.20

2958.37

3

Bắc Trung Bộ và duyên hải
1136
miền Trung

6.15

51619.24

15535.42

4

Tây Nguyên

150

0.82


837.27

356.12

5

Đông Nam Bộ

10032

54.30

113197.18

39066.37

6

Đồng bằng sông Cửu Long

1013

5.48

12446.84

5370.96

7


Tổng cộng

18474

100

254937.31

83554.70

lệ

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2015

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2015
Đồ thị 2.5: Tỷ trọng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
phân theo khu vực (1988- tháng 6/2015)
Gần 30 năm khu vực có số dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi nhiều nhất là khu vực
Đơng Nam Bộ với 10032 dự án. Tiếp đến là đồng bằng sông Hồng, trong khu vực này số dự
án đầu tư vào Thành phố Hà Nội là 3206 dự án, tiếp đến là Bắc Ninh 622 dự án, Hải Dương
336 dự án, nhóm có dự án đầu tư ít nhất là Nam Định 57 dự án, Thái Bình 41 dự án và Ninh
Bình 39 dự án. Khu vực thu hút ít nhất là Tây Nguyên chỉ có 150 dự án. Tổng vốn đầu tư và
vốn điều lệ cũng tương tự như số dự án của từng khu vực, (xem bảng 2.5 và đồ thị 2.5).
225


2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.2.1. Thực trạng hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Những điểm đổi mới trong hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được
Quốc hội điều chỉnh, bổ sung và sửa đổi để tiến tới ngày càng phù hợp hơn với quá trình hội

nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng. Nhờ việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong Luật
Đầu tư nước ngoài và nhiều văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư, các nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã được trao thêm quyền kinh doanh mới, rộng rãi, thơng thống hơn trước, nhất
là quyền tự do lựa chọn dự án, lựa chọn đối tác đầu tư, hình thức và địa điểm đầu tư đối với
những dự án không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện và bị hạn chế.
Một số ngành chiến lược được mở ra hoặc mở rộng hơn cho đầu tư trực tiếp nước
ngồi như viễn thơng, điện lực, ngân hàng, bảo hiểm. Các quy định về một số lĩnh vực đầu tư
có điều kiện cũng đã dần thu hẹp. Bên cạnh đó, những quy định về phương thức đầu tư, hình
thức đầu tư đã liên tục được bổ sung thêm. Nhìn chung, các quy định bổ sung trên đã từng
bước tạo ra một khung pháp luật thơng thống, thuận lợi cho các hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngồi và ngày càng phù hợp với thơng lệ quốc tế.
Các quy định về bảo đảm đầu tư trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã phù
hợp hơn với thơng lệ quốc tế. Theo đó, Nhà nước Việt Nam đảm bảo đối xử công bằng, thỏa
đáng đối với nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư, quyền
sở hữu công nghiệp và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngồi trong hoạt
động chuyển giao cơng nghệ, khơng quốc hữu hóa, trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp
hành chính tài sản của nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước
ngoài, cho phép các nhà đầu tư chuyển vốn, lợi nhuận và các khoản thu nhập hợp pháp
khác,… Việc quy định bảo vệ quyền tài sản sẽ tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài tiếp tục tái đầu tư tài sản của họ vào sản xuất kinh doanh. Trong thực tế, đối với các dự
án BOT và các dự án cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng, khi đàm phán, nhà đầu tư thường yêu
cầu Chính phủ bảo lãnh các nghĩa vụ về tài chính và chia sẻ rủi ro đối với các nhà đầu tư trực
tiếp nước ngồi, thậm chí đưa ra những yêu cầu cam kết bảo lãnh vượt quá khuôn khổ pháp
luật hiện hành hoặc cam kết các vấn đề mà pháp luật chưa quy định.
Những hạn chế trong hệ thống văn bản pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngồi là:
Tính khơng đồng bộ, mâu thuẫn trong các văn bản quy phạm pháp luật, công tác ban
hành và thực thi các văn bản dưới luật, hướng dẫn thực hiện Luật còn nhiều yếu kém, còn quá
nhiều văn bản dưới luật, trong đó Thơng tư của Bộ nhiều hơn Nghị định của Chính phủ, Nghị
định của Chính phủ nhiều hơn số lượng Luật và Pháp lệnh. Chính số lượng văn bản ban hành
quá nhiều nên khó tránh khỏi sự mâu thuẫn giữa các văn bản.

Một số quy định ban hành cịn chậm, thiếu rõ ràng, thậm chí cịn bỏ ngỏ, để pháp luật
thực sự đi vào cuộc sống đòi hỏi các quy định trong văn bản phải cụ thể, rõ ràng và chính xác.
Tuy nhiên, hiện nay các văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngồi chưa đáp
ứng được u cầu đó.Một số văn bản quy định liên quan tới các điều kiện về năng lực chun
mơn và tài chính để cấp giấy phép hoạt động chưa đưa ra các tiêu chí rõ ràng, đặc biệt thiếu
các tiêu chí mang tính định lượng để làm cơ sở cấp phép. Ngoài ra, một số luật quan trọng đã

226


ban hành nhưng hiệu lực thi hành không cao đã dẫn đến hạn chế trong liên doanh, liên kết
giữa doanh nghiệp trong nước và các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Các văn bản ban hành sai thẩm quyền, vượt cấp còn diễn ra khá phổ biến, thực hiện
chủ trương phân cấp và nâng cao trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của quản lý hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngồi tại các địa phương, Chính phủ đã ban hành các quy định ủy quyền cấp
giấy phép đầu tư và giao địa phương thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên khi thực hiện đã xuất hiện tình trạng một số quy định, chính
sách của địa phương vượt q khn khổ pháp luật hiện hành, đặc biệt là chính sách về miễn,
giảm thuế, quy định về giá tiền thuê đất,… đã gây nên tình trạng cạnh tranh khơng lành mạnh
về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi, phá vỡ tính pháp lý của các văn bản cao hơn.
Một số văn bản cịn gây cản trở mơi trường đầu tư, thời gian qua các quy định liên
quan đến lao động, việc làm đang trở thành rào cản đối với hoạt động của đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Một số quy định hạn chế tính linh hoạt về lao động, việc làm đối với khu vực đầu
tư trực tiếp nước ngoài xuất hiện ở Bộ Luật Lao động, trong các Nghị định và Thông tư quy
định về số lượng các công dân nước ngoài được phép tuyển dụng trong các doanh nghiệp…
2.2.2. Thực trạng hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài
Bộ máy tổ chức thực hiện, trong những năm gần đây để nâng cao trách nhiệm và hiệu
quả quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, bên cạnh các quy định nguyên tắc
nhất quán của Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư

nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi đã bổ sung việc Chính phủ quy định việc thẩm định cấp giấy
phép đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và phân cấp cấp giấy phép đầu tư cho UBNN tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, đã đánh dấu một bước quan trọng trong cải tiến quản lý nhà
nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, việc phân cấp này cịn được thực hiện thơng qua
việc các bộ, ngành trung ương và UBND cấp tỉnh ủy quyền cho Ban quản lý khu công nghiệp
cấp tỉnh thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thực hiện phân cấp quản lý đầu tư, hiện nay hầu hết ở các tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu
tư được UBND tỉnh ủy quyền làm đầu mối quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên
địa bàn. Để đảm bảo nhiệm vụ quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, đa số các Sở Kế
hoạch và Đầu tư đều thành lập phịng chun trách cơng tác tiếp nhận, thẩm định, cấp giấy
phép kinh doanh và quản lý các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Ở cấp trung ương, cùng với q trình kiện tồn bộ máy Chính phủ, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư trong thời gian qua đã tiến hành thực hiện cải cách, sắp xếp bộ máy hoạt động hợp lý.
Việc cho ra đời Cục Đầu tư nước ngoài là một bước đổi mới về chất, bởi chức năng thẩm định
dự án, cấp giấy phép và chức năng quản lý dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được quy tụ
về một mối, rút ngắn được thời gian, giảm thủ tục hành chính.
Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt độngđầu tư trực tiếp
nước ngoài đã được cải tiến một bước quan trọng theo hướng giảm sự can thiệp trực tiếp của
nhà nước đối với hoạt động dầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp, tăng vai trò trách nhiệm
của nhà đầu tư trong việc quyết định, tổ chức thực hiện và phát huy hiệu quả đầu tư. Các bộ,
ngành và UBND các tỉnh đã có sự phối hợp nhất định trong quá trình thực hiện nội dung quản

227


lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngồi, nhằm hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho các doanh
nghiệp, nhờ đó đã đưa hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các địa phương đi vào
nề nếp. Tuy nhiên, cơ chế phối hợp quản lý hiện còn đang bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế cần
được xem xét.
2.2.3. Thực trạng thực thi pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước đối với đầu tư trực

tiếp nước ngồi
Song song với q trình hồn thiện hệ thống pháp luật, thời gian gần đây các cơ quan
quản lý nhà nước cũng đang dần đần đổi mới, hồn thiện chức năng, nhiệm vụ của mình
nhằm tăng cường vai trò quản lý, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển. Nhờ sự phát triển và ứng
dụng công nghệ thông tin rộng rãi mà hoạt động quản lý nhà nước nói chung và hoạt động
phổ biến thơng tin thể chế nói riêng đã ngày càng được mở rộng và đáp ứng nhu cầu hiểu biết,
nắm bắt thế chế đối với người dân trong nước cũng như nước ngồi. Cơng báo được phát
hành khá rộng rãi và được phát miễn phí tới tất cả các phường, xã và được dịch ra tiếng Anh
nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin pháp luật của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Cải cách thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp
nước ngồi đã có chuyển biến tích cực, đặc biệt là trong quản lý thuế và hải quan. Công tác
kiểm tra hải quan đã được chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”.
Tuy nhiên, việc thực thi pháp luật đang được coi là một khâu yếu nhất của hệ thống
pháp luật Việt Nam. Trong khi hệ thống pháp luật chưa hồn chỉnh, chưa đồng bộ thì nghiêm
trọng hơn, việc thực thi pháp luật, cách hành xử của một số bộ phận cán bộ công chức đã và
đang thực sự gây bức xúc cho các nhà đầu tư, như tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, gây phiền
hà của các cơ quan quản lý nhà nước, làm ảnh hưởng đến tiến độ hoạt động sản xuất kinh
doanh và tăng chi phí hoạt động của các doanh nghiệp này. Nguyên nhân là do năng lực và
trách nhiệm trong công việc của một bộ phận cơng chức cịn hạn chế, dẫn tới việc giải quyết
và xử lý các vướng mắc phát sinh chưa thực sự thỏa đáng, còn thể hiện sự tắc trách, thiếu tinh
thần trách nhiệm.
2.3. Đánh giá chung thực trạng quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngồi
2.3.1. Những thành cơng đạt được và ngun nhân
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là khu vực phát triển năng động,
ngày càng phát huy vai trị quan trọng và có những đóng góp đáng kể trong sự phát triển kinh
tế - xã hội của Việt Nam. Những đóng góp này có sự điều hành hoạt động quản lý nhà nước
đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, điều này thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư
phát triển, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh tích lũy khơng đáp ứng nhu
cầu về đầu tư, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã thực sự là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho

đầu tư phát triển.
Thứ hai, đầu tư trực tiếp nước ngồi góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao
năng lực sản xuất công nghiệp. Cơ cấu kinh tế cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng
tích cực.

228


Thứ ba, đầu tư trực tiếp nước ngồi đóng góp đáng kể vào thu ngân sách và các cân
đối vĩ mơ.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngồi đóng góp quan trọng vào kim ngạch xuất nhập
khẩu của Việt Nam.
Thứ năm, đầu tư trực tiếp nước ngồi đóng vai trị nổi bật trong đổi mới và chuyển
giao công nghệ ở Việt Nam. đầu tư nước ngoài đã tác động trực tiếp và gián tiếp đến hoạt
động đổi mới công nghệ, chuyển giao cơng nghệ ở Việt Nam và góp phần vào việc tăng
cường cơ sở vật chất cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ sáu, đầu tư trực tiếp nước ngồi góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng
năng suất lao động, góp phần đào tạo và cải thiện nguồn nhân lực. Tính đến nay, khu vực có
vốn đầu tư nước ngồi đã tạo việc làm cho khoảng 2 triệu lao động trực tiếp và một số lượng
lớn lao động gián tiếp khác.
Thứ bảy, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn vào đời
sống kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ đối ngoại. Cùng với các nhân tố khác, đầu tư nước
ngồi đã góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ tám, bên cạnh những yếu tố có thể lượng hóa được nêu trên, vai trị của đầu tư
nước ngồi cịn thể hiện thơng qua những yếu tố khơng lượng hóa được. Đó là, đầu tư nước
ngồi đã mang đến một phương thức đầu tư kinh doanh mới, từ đó có tác động lan tỏa đến các
thành phần kinh tế khác của nền kinh tế, khơi dậy các nguồn lực đầu tư trong nước. Thông
qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi với các doanh nghiệp trong nước,
công nghệ và năng lực quản lý, kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp đầu tự trực tiếp
nước ngoài sang các doanh nghiệp trong nước.

Mặt khác, các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng tạo động lực cạnh tranh
cho các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh tồn cầu hóa, qua đó nâng
cao được năng lực của các doanh nghiệp trong nước. Ngồi ra, đầu tư nước ngồi đã mở rộng
quy mơ thị trường trong nước, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực
dịch vụ cũng như sản phẩm mới. Đồng thời, đầu tư nước ngoài cũng đóng vai trị quan trọng
trong việc giới thiệu, đưa các sản phẩm hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam vào thị trường quốc
tế; tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam; đẩy nhanh tốc độ mở cửa thương mại;
tăng khả năng ổn định cán cân thương mại của đất nước.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù đã đạt được những kết quả cơ bản quan trọng nêu trên, song việc thu hút, sử
dụng và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập.
Đó là khả năng hấp thụ nguồn vốn còn khiêm tốn, đồng nghĩa với việc chưa tận dụng một
cách có hiệu quả nguồn vốn này trong khi Việt Nam đang có nhu cầu lớn về vốn; chất lượng
của nguồn vốn chưa cao; việc thu hút các dự án đầu tư công nghệ cao cịn hạn chế; chuyển
giao cơng nghệ cịn chậm; cịn có doanh nghiệp đầu tư nước ngồi sử dụng cơng nghệ lạc hậu,
tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường; việc sử dụng tài nguyên đất đai, khoáng sản chưa
thực sự hiệu quả; mối liên kết ngang và dọc giữa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và
doanh nghiệp trong nước chưa cao; tình trạng tranh chấp lao động và đình cơng cịn diễn ra ở
một số nơi, ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư.
229


Những tồn tại, hạn chế nêu trên của khu vực đầu tự trực tiếp nước ngồi có ngun
nhân từ sự yếu kém nội tại của nền kinh tế cũng như những hạn chế trong việc hoạch định và
thực thi chính sách, pháp luật về đầu tư nước ngoài và đặc biệt là sự quản lý nhà nước đối với
khu vực này. Các nguyên nhân chủ yếu là:
Một là, hệ thống, pháp luật chính sách liên quan đến đầu tư chưa đồng bộ và thiếu
nhất quán, trong 30 năm qua, hệ thống pháp luật về đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nước
ngồi nói riêng khơng ngừng được hồn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển. Tuy nhiên, trên
thực tế, các văn bản pháp luật hiện hành về hoạt động đầu tư nước ngoài chưa thực sự đồng

bộ, rõ ràng, các văn bản pháp luật còn chồng chéo, tạo ra các cách hiểu khác nhau trong quá
trình áp dụng ở các cấp.
Hai là, chính sách ưu đãi đầu tư chưa đủ sức hấp dẫn, tuy các chính sách ưu đãi của
ta thường xuyên được rà soát sửa đổi, bổ sung nhưng còn dàn trải, chưa tập trung đúng mức
vào những ngành, lĩnh vực và địa bàn cần thu hút đầu tư. Ví dụ: chính sách ưu đãi đối với đầu
tư trong lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ chưa có sự khác biệt, đủ sức hấp dẫn so
với các ngành khác; chính sách ưu đãi vào những địa bàn cần thu hút đầu tư còn dàn trải giữa
các địa bàn khác trong cả nước hoặc có khác thì cũng chưa nổi trội, chưa có tính đột phá. Bởi
lẽ, trong 63 tỉnh/thành phố thì hầu hết tỉnh/thành phố nào cũng có địa bàn kinh tế xã hội khó
khăn và đặc biệt khó khăn.
Ba là, sự phát triển của cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh
tế cũng như chưa tạo điều kiện tốt để dịng vốn đầu tự trực tiếp nước ngồi phát huy hiệu quả,
hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam, mặc dù đã được đầu tư nhiều trong những năm gần đây,
nhưng nhìn chung vẫn cịn yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư, đặc biệt là hệ
thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển, hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào
khu công nghiệp.
Bốn là, hạn chế về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực của Việt Nam dồi dào nhưng tỷ lệ
lao động qua đào tạo thấp, nguồn nhân lực có trình độ cao cịn thiếu, chưa đáp ứng được nhu
cầu về lao động của các doanh nghiệp nói chung, trong đó có doanh nghiệp đầu tự trực tiếp
nước ngồi. Đây là hạn chế đã tồn tại từ nhiều năm trước, nhưng trong thời gian gần đây càng
trở nên bức xúc hơn khi thu hút đầu tự trực tiếp nước ngoài các dự án sử dụng công nghệ cao,
hiện đại. Trong một nghiên cứu mới đây do Cục Đầu tư nước ngồi phối hợp với Tổ chức
Phát triển Cơng nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) tiến hành, thì 32% các nhà đầu tư nước
ngồi cho rằng thiếu cơng nhân lành nghề là nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho họ
không sử dụng hết cơng suất. Vì vậy, lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào với chi phí thấp của
Việt Nam đang giảm dần.
Năm là, sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ cịn hạn chế, các ngành cơng
nghiệp hỗ trợ của Việt Nam phát triển chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên liệu đầu
vào cho sản xuất của các doanh nghiệp đầu tự trực tiếp nước ngoài. Do đó, các doanh nghiệp
phải nhập khẩu phần lớn các linh phụ kiện đầu vào, làm tăng chi phí, giảm hiệu quả sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu về việc hình thành chuỗi giá trị.
Sáu là, chưa thực hiện tốt công tác phân cấp quản lý đầu tự trực tiếp nước ngoài, việc
phân cấp cho UBND các địa phương và Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất trong
quản lý đầu tư nước ngoài là chủ trương đúng đắn, tạo thế chủ động và nâng cao trách nhiệm
230


của các cơ quan quản lý địa phương trong công tác quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài. Tuy
nhiên, việc phân cấp phải đi kèm với luật pháp chính sách rõ ràng, hệ thống quy hoạch đồng
bộ; năng lực của các cơ quan được phân cấp phải được nâng cao; công tác báo cáo, cung cấp
thông tin của địa phương lên trung ương phải kịp thời; công tác thanh, kiểm tra và xử lý vi
phạm phải được thực hiện triệt để; tăng cường sự phối hợp hàng ngang và hàng dọc giữa các
cơ quan quản lý chung và cơ quan quản lý chuyên ngành, giữa cơ quan quản lý ở Trung ương
với cơ quan quản lý ở địa phương.
Nhưng trên thực tế, những công tác này chưa được thực hiện tốt trong thời gian qua,
đồng thời có hiện tượng một số địa phương trong q trình xử lý cịn thiên về lợi ích trước
mắt mà chưa tính đến lợi ích lâu dài, vì lợi ích địa phương mà bỏ qua lợi ích tổng thể quốc gia.
Điều này, đã có những ảnh hưởng không tốt đến các cân đối tổng thể của nền kinh tế, ví dụ,
có địa phương cấp phép nhiều dự án thép, xi măng làm mất cân đối nguồn cung cấp điện và
gây ô nhiễm môi trường.
Bảy là, công tác kiểm tra, giám sát về việc thực hiện các quy định về bảo về môi
trường của các doanh nghiệp cịn nhiều bất cập, thời gian qua, cơng tác này tuy đã được quan
tâm hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Bên cạnh những doanh nghiệp chấp
hành tốt các quy định về bảo vệ mơi trường vẫn cịn nhiều doanh nghiệp, dự án đầu tư nước
ngoài chưa chấp hành tốt các quy định này, dẫn đến tình trạng gây ơ nhiễm mơi trường, sinh
thái, ảnh hưởng lâu dài tới đời sống của dân và làm xấu hình ảnh của đầu tư nước ngồi.
Tám là, công tác xúc tiến đầu tư chưa hiệu quả, trong thời gian qua, công tác vận
động xúc tiến đầu tư đã có nhiều cải tiến, được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở trong
nước và nước ngoài bằng các hình thức đa dạng. Tuy nhiên, hiệu quả của cơng tác này chưa
cao, hoạt động xúc tiến đầu tư còn giàn trải, phân tán nguồn lực, chưa tập trung vào các đối

tác, lĩnh vực trọng điểm; chưa có sự thống nhất điều phối để đảm bảo sự tập trung thực hiện
đúng mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài trong từng thời kỳ, từng địa bàn, từng đối tác.
3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
3.1. Mục tiêu và phương hướng quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
Việt Nam đã bước sang nhóm các nước thu nhập trung bình thấp, nền kinh tế đang
đứng trước những nhu cầu phát triển mới. Để đạt được mục được những mục tiêu phát triển
mới, Việt Nam đã xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 và Chiến
lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2011-2020.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2011-2020 khẳng định, khu vực đầu tư
trực tiếp nước ngoài là một thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển lâu dài và bình
đẳng với các thành phần kinh tế khác. Theo đó, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cần
tập trung vào một số lĩnh vực ưu tiên. Đó là, chọn lọc các dự án có cơng nghệ hiện đại, thân
thiện với môi trường và tăng cường sự liên kết giữa các khu vực; các ngành, lĩnh vực tạo ra
các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi
giá trị tồn cầu, như cơng nghệ cao, cơ khí, công nghệ thông tin và truyền thông, dược, công
nghiệp sinh học; công nghiệp môi trường và các ngành sử dụng năng lượng sạch, năng lượng

231


tái tạo, vật liệu mới.... Những dự án tiết kiệm nhiên liệu, không sử dụng nhiều lao động giá rẻ
cũng sẽ được ưu tiên.
Bên cạnh đó, một số lĩnh vực khác cũng sẽ được tập trung thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngồi, như khuyến khích đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế đi liền với dịch vụ
phụ trợ; công nghiệp nông nghiệp; chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp, gồm cả thủy,
hải sản; các lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, điện, cảng biển,
sân bay cũng như các ngành dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn như y tế, giáo dục, đào tạo
cũng sẽ được ưu tiên, khuyến khích thu hút đầu tư.
Trên tinh thần đó, tại Chỉ thị 1617/CT-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế

hoạch và Đầu tư tiến hành đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
giai đoạn vừa qua và định hướng cho giai đoạn 2011-2020. Việc xây dựng định hướng đầu tư
trực tiếp nước ngồi giai đoạn 2011-2020 được hình thành trên cơ sở đánh giá khách quan
thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua, đặc biệt là thời kỳ 2001-2010 và
phải gắn với định hướng, mục tiêu Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020.
Một điều rõ ràng, từ thực trạng việc có những dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được
cấp chứng nhận đầu tư ngay những ngày đầu năm 2016 không chỉ là sự khởi đầu tốt đẹp cho
riêng Bắc Ninh, hay Thành phố Hồ Chí Minh, mà cịn cho cả Việt Nam trong thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài năm 2016 - năm được dự báo có nhiều thuận lợi lớn để Việt Nam “đón
sóng” đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA)
thế hệ mới tiếp tục được ký kết và có hiệu lực, trong đó có TPP. Vậy năm 2016 và các năm
tiếp theo, Việt Nam sẽ có kỳ vọng ở đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cụ thể: Trông chờ lớn nhất
đã từng được đặt ở Dự án Lọc hóa dầu Victory Nhơn Hội (Bình Định), vốn đầu tư dự kiến 22
tỷ USD. Chỉ cần dự án này được cấp giấy chứng nhận đầu tư, khơng cịn bất cứ lo ngại vào về
chuyện có hay khơng hồn thành kế hoạch thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi tính theo năm.
Theo Báo Đầu tư đã đề cập, số phận Dự án còn bấp bênh, bởi chủ đầu tư là Tập đồn Dầu khí
Thái Lan (PTT) và Saudi Aramco cịn đang th chun gia tính tốn, nghiên cứu để cơ cấu
lại dự án cho phù hợp với biến động giá dầu hiện nay. Kỳ vọng còn lại đang được đặt vào các
dự án BOT ngành điện, mà quy mơ từng dự án đều ít nhất trên dưới 2 tỷ USD, đã nhiều năm
nay nghiên cứu mà chưa được cấp chứng nhận đầu tư. Chính phủ mới đây đã hối thúc các bộ,
ngành, địa phương nhanh chóng xem xét, đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án BOT ngành
điện và điều này nếu trở thành hiện thực, sẽ đóng góp một ngân khoản lớn cho thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong năm 2016 và các năm tiếp theo. Ngồi các dự án
này, có thể nhắc tới các kế hoạch đầu tư các dự án của Amata (Thái Lan) ở Quảng Ninh và
Đồng Nai, với quy mô vốn cũng lên tới hàng tỷ USD. Bên cạnh đó, là kế hoạch mở thêm một
nhà máy 500 triệu USD nữa ở Việt Nam của Hyosung (Hàn Quốc), hay dự án nâng thêm 500
triệu USD vốn đầu tư tại Việt Nam của Jabil Circuit (Mỹ)…
Trong lúc chờ đánh giá để có thêm định hướng mới sát thực tế hơn, chúng ta cần tập
trung thực hiện tốt 3 khâu đột phá mà Đảng, Chính phủ đã đề ra:
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là

tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; cải thiện môi trường đầu tư
theo hướng ngày càng minh bạch, thơng thống và hấp dẫn nhằm huy động mạnh mẽ mọi
nguồn lực cho đầu tư phát triển.

232


Hai là, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn lao động chất lượng cao, tập
trung đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục và dạy nghề. Tập trung đào tạo nguồn
nhân lực có chất lượng cao, đặc biệt là những ngành nghề lĩnh vực mới, hiện đại.
Ba là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số cơng trình hiện đại, tập
trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn, gồm rà soát quy hoạch phát triển hệ
thống hạ tầng giao thông, xây dựng các tuyến đường bộ cao tốc, giao thông đô thị; xây dựng
một số cảng biển, cảng hàng không hiện đại; đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng điện lực; phát
triển kết cấu hạ tầng các đô thị lớn; xử lý nước thải, chất thải rắn, khí thải…
3.2. Các giải pháp hồn thiện quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
Việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, trước mắt các
Bộ ngành, các địa phương cần tập trung thực hiện tốt các nhóm giải pháp nêu tại Chỉ thị
1617/CT-TTg ngày 19/9/2011của Thủ tướng Chính phủ và các giải pháp khác, đó là:
3.2.1. Mở rộng quan hệ quốc tế
Không ngừng củng cố và mở rộng quan hệ chính trị đối ngoại, kinh tế đối ngoại, tạo
thế chính trị vững vàng của Việt Nam trên trường quốc tế và sự hội nhập của Việt Nam trong
kinh tế thế giới và khu vực.
3.2.2. Đảm bảo môi trường chính trị - xã hội tốt cho đầu tư
Để có được mơi trường chính trị - xã hội thuận lợi cho đầu tư cần tiếp tục giữ vững ổn
định tình hình chính trị xã hội, kiên trì và phấn đấu đạt kết quả tốt hơn trong tiến trình đổi mới
và mở cửa ngày càng sâu và rộng. Trên cơ sở thống nhất nhận thức về đặc điểm, mục tiêu của
đầu tư trực tiếp cần tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của mọi tầng lớp trong xã hội.
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư
Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tiếp tục được hoàn thiện theo các hướng sau:

- Đầy đủ và đồng bộ hơn: Sớm thực hiện các luật kinh doanh bất động sản, khai thác
khoáng sản; các quy chế về khu công nghiệp cao, khu thương mại tự do; đầu tư ra nước ngoài;
các quy chế về thế chấp, cầm cố, thực hiện nguyên tắc không hồi tố...
- Cụ thể và hấp dẫn hơn trong các chính sách về thuế, tiền thuê đất; chính sách xuất
nhập khẩu, chính sách đền bù, giải toả mặt bằng xây dựng; chính sách khuyến khích xây dựng
cơ sở hạ tầng; xây dựng các ngành cơng nghiệp mũi nhọn; chính sách khuyến khích đầu tư
trồng rừng, trồng cây công nghiệp dài ngày, đầu tư vào các vùng miền núi...
- Phù hợp hơn với kinh tế thị trường và thông lệ tập quán quốc tế: Xu hướng phát triển
tất yếu của q trình đổi mới, hồn thiện hệ thống pháp luật đầu tư là quá trình đi đến thống
nhất Luật đầu tư nước ngoài và Luật đầu tư trong nước; hình thức tổ chức của các xí nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi sẽ được mở rộng hơn, bao gồm cả các xí nghiệp có bán cổ phần cho
người nước ngoài. Tất cả các tiêu chuẩn, cơ chế của kinh tế thị trường thế giới và thông lệ, tập
quán quốc tế được nghiên cứu trong quá trình hồn thiện hệ thống luật đầu tư của Việt Nam.
- Có hiệu lực thống nhất trong phạm vi cả nước: Công tác pháp chế cần được tăng
cường trên cơ sở đảm bảo tính chính xác, phù hợp với quy luật; tuyên truyền, giáo dục ý thức
tôn trọng pháp luật, cưỡng chế thi hành pháp luật, xố bỏ tình trạng "Phép vua thua lệ làng".

233


3.2.4. Lành mạnh hố mơi trường kinh tế vĩ mơ cho đầu tư
Ổn định, phát triển của nền kinh tế theo chiều hướng tích cực ln là tiền đề cho việc
mở rộng và nâng cao hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngồi. Mơi trường kinh tế vĩ mơ tốt
cho đầu tư bao hàm sự lành mạnh về giá cả của hàng hoá nguyên vật liệu, về giá trị của đồng
tiền và tỉ giá hối đoái, hoạt động của hệ thống ngân hàng, về thị trường vốn, về thị trường
cung ứng và tiêu thụ, về cơ chế tổ chức quản lý nền kinh tế quốc dân...
3.2.5. Cải tiến thủ tục đầu tư theo hướng đơn giản, mở cửa
Cải tiến trình tự và thủ tục hình thành dự án, xét duyệt dự án: Các thủ tục về cấp đất,
cấp giấy phép xây dựng; các thủ tục về nộp thuế, hoàn thuế, xuất nhập cảnh và hải quan... Các
địa phương cũng cần rà soát lại các thủ tục theo tinh thần đơn giản, đặc biệt phải tăng cường

kiểm tra để bảo đảm các cấp dưới được thực hiện đúng quy định.
Về cơ chế phối hợp bao gồm trách nhiệm các vấn đề liên quan đến chính sách, tạo mơi
trường đầu tư thuận lợi, được phân công hợp lý, phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan hữu quan là
điều kiện quan trọng giúp tăng cường tính gắn kết trong thực thi chính sách.
3.2.6. Cải tiến quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nội dung cải tiến quản lý nhà nước tập trung trước hết vào một số công tác sau đây:Rà
sốt các văn bản hiện có nhằm xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn và quan hệ công tác giữa
các cơ quan nhà nước theo tinh thần vừa phát huy chức năng của các cơ quan, vừa quản lý tập
trung thống nhất khắc phục hiện tượng chia cắt, phân tán; Phân biệt rạch ròi quản lý nhà nước
với quản lý sản xuất kinh doanh, xoá bỏ cơ chế “cơ quan chủ quản” đối với doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài; Thực hiện chế độ kiểm tra định kỳ nhằm đôn đốc các doanh nghiệp
thực hiện nghiêm chỉnh giấy phép đầu tư, kịp thời hướng dẫn doanh nghiệp giải quyết các
vướng mắc, nhất là kiên quyết xử lý nhanh những vụ việc phát sinh do bên Việt Nam gây ra.
Nội dung kiểm tra giới hạn ở các vấn đề nêu trong giấy phép và luật định; Hoàn thiện bộ máy
tổ chức thực hiện, hoàn thiện và cải cách bộ máy quản lý nhà nước, điều chỉnh chức năng,
nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp nhằm đáp ứng
yêu cầu quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tình hình mới. Thay đổi
quan điểm và phương thức quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
3.2.7. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các hoạt động xúc tiến đầu tư
Công tác xúc tiến đầu tư cần tập trung cho các hướng hoạt động sau:Đẩy mạnh quy
hoạch, kế hoạch thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, Bộ kế hoạch đầu tư, các bộ chuyên
ngành kinh tế kỹ thuật và các địa phương có trách nhiệm xây dựng các loại quy hoạch, kế
hoạch về các loại sản phẩm đang có nhiều ý kiến khác nhau trên giác độ quy hoạch; về các
khu vực tập trung tại ba vùng trọng điểm quốc gia; về địa bàn trọng điểm của địa phương; về
quan hệ giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếp...; Danh mục dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư theo ngành, lĩnh vực và địa bàn trọng điểm mà
theo đó, nếu nhà đầu tư nước ngồi đề xuất thực hiện thì đương nhiên được hiểu là đã được
Nhà nước Việt Nam chấp nhận về chủ trương; Tổ chức thực hiện tốt hơn các chương trình
vận động đầu tư; Trên cơ sở có định hướng đúng về thị trường và đối tác đầu tư nước ngồi,
cần có sự phát triển liên ngành giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với các bộ chuyên ngành kinh tế


234


kỹ thuật, Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại, các địa phương về hệ thống ở bên ngoài để xây
dựng, thực hiện các chương trình vận động đầu tư trong và ngoài nước.
3.2.8. Đổi mới hệ thống tổ chức dịch vụ tư vấn đầu tư
Hệ thống các tổ chức công ty dịch vụ, tư vấn đầu tư cần được mở rộng phạm vi và nội
dung hoạt động, không dừng lại ở các dịch vụ về thị thực, thủ tục đơn giản, mà gồm cả các
dịch vụ tư vấn, kỹ thuật nghiệp vụ, pháp luật, trước và sau giấy phép đầu tư. Để nâng cao chất
lượng dịch vụ có đủ năng lực và có cơ chế hoạt động vừa hợp tác, vừa cạnh tranh để cải tiến
các hoạt động dịch vụ bảo đảm phục vụ tốt các yêu cầu của nhà đầu tư với giá cả hợp lý và
với phong cách tiến bộ.
3.2.9. Tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực
Công tác tổ chức cán bộ về đầu tư phải được tăng cường ở cả tầm vĩ mô lẫn vi mô. Tổ
chức và cán bộ của các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư phải đủ mạnh để hoàn thiện hệ
thống pháp luật, chính sách về đầu tư và quản lý các hoạt động đầu tư theo đúng mục tiêu đã
định. Tổ chức, cán bộ của các doanh nghiệp Việt Nam phải thực sự trở thành những đối tác
tương xứng trong quan hệ hợp tác đầu tư với các cơng ty, tập đồn tư bản lớn và các nhà đầu
tư nước ngồi có tiềm lực về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý và giao dịch làm ăn trên
trường quốc tế.
3.2.10. Các giải pháp khác
Nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài; Tăng cường hiệu lực và
hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài; Nâng cao chất
lượng, hiệu quả thực hiện của các dự án đầu tư.
Tuy nhiên, về lâu dài, để môi trường đầu tư của Việt Nam có tính cạnh tranh, phát huy
tối đa hiệu quả của dịng vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi cho sự phát triển kinh tế đất nước,
các Bộ, ngành trung ương, các địa phương và cộng đồng doanh nghiệp cần cùng nhau bàn lại
để tìm ra những giải pháp thiết thực, mang tính đột phá, đơn đốc, giám sát quá trình thực hiện
một cách mạnh mẽ ở tất cả các khâu thì mới có thể nâng cao chất lượng, hiệu quả của nguồn

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài làm tăng tính cạnh tranh của mơi trường đầu tư Việt Nam.
KẾT LUẬN
Hiện nay, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã xuất hiện ở hầu hết các địa
phương trên cả nước Việt Nam, song tính hiệu quả của nguồn vốn này không đồng đều giữa
các vùng. Việt Nam là đất nước mở cửa cho đầu tư, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngồi có
bầu khơng khí tốt và điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, để biến những lợi thế
này thành thực tế, theo chúng tơi cần phải đơn giản hóa và làm nhanh các thủ tục đầu tư, thủ
tục hải quan… Như vậy, Việt Nam trong suốt 30 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã
đạt được kết quả tích cực, song cũng xuất hiện các bất trắc trong quản lý nhà nước đối với khu
vực này. Vì vậy, để môi trường đầu tư Việt Nam ngày càng hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu
tư và họ có thể trụ vững trên thị trường, kiếm được nhiều lợi nhuận, khơng cịn cách nào khác
là tìm mọi cách để hoàn thiện, đổi mới quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài./.

235


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các Mác – Ph. Ăng ghen, Toàn tập, tập 23, trang 23.
2. Nguyễn Cúc (2010), Tập bài giảng quản lý nhà nước về kinh tế, Học viện Chính trị hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh.
3. Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam,
(1988 đến tháng 6/2015).
4. Học viện hành chính quốc gia (2011), Giáo trình quản lý hành chính nhà nước, tập 1, Hà
Nội.
5. Đỗ Hồng Tồn, Mai Văn Bưu (2008), Giáo trình quản lý nhà nước về kinh tế, NXB ĐH
Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
6. Tổng cục Thống kê, Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam,2015.

236




×