Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Vấn đề ly hôn theo pháp luật việt nam và thực tiễn giải quyết tại toà án nhân dân thành phố vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.85 KB, 60 trang )

PHẦN THỨ NHẤT
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CƠ QUAN THỰC TẬP
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH
1. ĐẶC ĐIỂM CỦA THÀNH PHỐ VINH
Thành phố Vinh đô thị loại 1 trung tâm tỉnh Nghệ An,có diện tích
1005km,dân số 29.200.000 người,đơn vị hành chính có 25 phường xã(16
phường, 9 xã) là trung tâm của chuyến du lịch Đông Nam Á, hội tụ đủ các loại
hình giao thơng: có bến cảng, sân bay, các tuyến du lịch đông nam á, các tuyến
đường sắt, đường quốc lộ 1a đi qua lưu thông giữa hai miền bắc- nam với nhau.
Là nơi tập trung đông dân cư nhất tỉnh Nghệ An. Nền kinh tế, văn hóa, xã
hội….ngày càng phát triển. Vì thế đây là địa bàn thuận lợi nên các tội phạm ở
thành phố Vinh ngày càng tăng, đặc biệt là tội trộm cắp tài sản,cướp giật, buôn
bán ma túy, mại dâm, kinh doanh, thương mại…
2.ĐƠN VỊ TỊA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH
1.LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Tòa án nhân dân thành phố Vinh –Nghệ An thành lập ngày 13/9/1945.Từ
khi ra đời và phát triển TAND thành phố vinh có các tên gọi khác nhau. Để bảo
vệ chính quyền cách mạng và trấn áp bọn phản cách mạng.Ngày 13/9/1945,
chính phủ lâm thời đã ban hành sắc lệnh thành lập các tòa án quân sự ở bắc bộ,
trung bộ tại các tỉnh Huế, Quảng Ngãi và Vinh được thành lập. Ngày 04/01/1946
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và ban hành sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các tòa
án và các ngạch thẩm phán. Theo sắc lệnh ngày 09/03/1946 tại một địa điểm
trong dinh thương(thành nghệ an cũ) tòa án sơ cấp thị xã Vinh - Bến thủy được
thành lập và tồn tại đến cuối năm 1947. Toàn quốc kháng chiến, thị xã Vinh thực
hiện tiêu thổ để kháng chiến, triệt để tản cư, nhằm đáp ứng tình hình mới tịa án
Hưng Thịnh được lập ra để tiếp tục công việc của cả 2 khu vực Hưng nguyên và
thị xã Vinh-Bến thủy.Cuối năm 1950 TAND thị xã Vinh được trách ra từ tòa án

1



hưng thịnh hoạt động 1 thời gian thì cải cách ruộng đất và tòa án đặc biệt giải
quyết. Tòa án thị xã Vinh được gọi với tên gọi mới là: Tòa án nhân dân thành
phố Vinh cho đến nay. Tòa án nhân dân thành phố Vinh 65 năm xây dựng và
trưởng thành,ln ln đồn kết và hịan thành tốt mọi nhiệm vụ được giao với
rất nhiều thành tích. Nhiều năm liền là đơn vị dẫn đầu trong các phong trào thi
đua,là cơ sở đảng vững mạnh,là tập thể lao động tiêu biểu, điển hình, là đơn vị
văn hóa của thành phố.
2. CHỨC NĂNG-NHIỆM VỤ THẨM QUYỀN CỦA TAND THÀNH
PHỐ VINH
- Chức năng:
Tòa án nhân dân thành phố Vinh là cơ quan có chức năng xét xử,tịa án
nhân dân và TAND thành phố vinh có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự,dân
sự hơn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc
khác theo quy định cảu pháp luật.
- Nhiệm vụ,thẩm quyền:
TAND thành phố vinh có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN và giáo dục
công dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và trung thành với tổ quốc.
Là 1 đơn vị TAND thành phố thuộc tỉnh-TAND thành phố vinh có thẩm
quyền sơ thẩm những vụ án hình sự quy định hình phạt tù từ 15 năm trở
xuống(trừ các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia,các tội quy
định tại điều 89,90,91,92,93,101(khoản 3),102,179,231,232 BLHS. Sơ thẩm
những vụ án dân sự, vụ án hơn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính
theo quy định của pháp luật)
3. CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN-TAND
THÀNH PHỐ VINH
3.1 Cơ cấu tổ chức:
Qua các năm,cơ cấu tổ chức của tào án nhân dân thành phố vinh có sự
thay đổi,tuy nhiên cơ cấu cảu ngành không vượt quá chỉ tiêu ,số lượng cán bộ
công chức biên chế của pháp luật quy định.
2



TAND thành phố Vinh gồm: Chánh án, phó chánh án, thẩm phán, thư ký,
các bộ cơng tác văn phịng, thi hành án, hội thẩm nhân dân.
Hiện nay, TAND thành phố vinh có 28 biên chế,trong đó có:
+ 01 chánh án:Bà Nguyễn thị Quang
+01 phó chánh án:Đồng chí Trần Anh Sáng
15 thẩm phán,9 thư ký,4 cán bộ làm công tác tại văn phịng và thi hành án
hình sự.
Trong đó có 2 đồng chí đi học thạc sỹ tại Hà Nội,2 đồng chí học tại chức
nâng cao trình độ về chun mơn, nghiệp vụ kế tốn, vi tính,1 đồng chí nghỉ ốm
lâu dài. Do vậy lực lượng thường xuyên có mặt tại tịa là khoảng 23 người.Số
thẩm phán,thư ký đều có trình độ đại hoc luật,có nhiều đồng chí có 2 bằng đại
học,một đồng chí là thạc sỹ luật.
Tập thể cán bộ ln ln nêu cao tinh thần đồn kết nhất trí cùng nhau nỗ
lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc,nhiệm vụ được giao, được viện kiểm sát và
nhà nước và nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý.
b.Đặc điểm hoat động
Đơn vị -TAND thành phố vinh đã tổ chức hoạt động nhiều nội dung công
tác dưới sự lãnh đạo của người đứng đầu-chánh án.
-Về hoạt động lãnh đạo,chỉ đạo:
+ Tập trung hồn thành tốt nhiệm vụ chun mơn đặc biệt là công tác xét
xử các loại án, phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu các loại án về số lượng, đồng thời
nâng cao chất lượng không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân,không để án kéo dài quá hạn luật
định.Các hoạt động công tác khác như thi hành án hình sự, giám đốc kiểm tả,
hướng dẫn nghiệp vụ, giải quyết đơn thư khiếu nại được thực hiện đồng bộ có
hiệu quả.
+ Tăng cường hoạt động cơng tác cơng đồn,Đồn thanh niên,nữ cơng
trong tồn ngành làm nịng cốt cho phong trào thi đua.

- Về hoạt động giải quyết các vụ án:
3


Tòa án nhân dân thành phố vinh đã thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ án
với các loại án khác nhau.
+ Án hình sự: TAND đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố
tụng nên việc giải quyết nhanh, nghiêm túc, đúng người, đứng tội, đứng pháp
luật, đáp ứng yêu cầu phòng chống tội phạm.Việc thực hiện tổ chức phiên tòa
được đổi mới và dân chủ, tòa án đã tạo điều kiện đảm bảo cho những người
tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình.
+ Án dân sự, hơn nhân , gia đình, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao
động cũng gặp nhiều khó khăn,phức tạp. Lãnh đạo tòa án nhân dân thành phố
Vinh đã tập trung chỉ đạo giải quyết các loại án này và quán triệt tinh thần cải
cách tư pháp,các hội thẩm,cán bộ đã tích cực trong việc xây dựng hồ sơ vụ
án,tăng cường công tác hòa giải,đồng thời việc triển khai thủ tục xét hỏi và tranh
luận tại phiên tòa được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Do vậy, chất
lượng xét xử các loại án đã đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các
đương sự.
- Về hoạt động thi hành án
Tòa án nhân dân thành phố Vinh đã có nhiều cố gắng để hồn thành tốt
nhiệm vụ.Các bản án có hiệu lực đảm bảo thi hành nghiêm túc, đã ra các quyết
định thi hành án, số bị án hưởng án treo, cải tạo không giam giữ được đưa vào
địa phương quản lý, theo dõi, giáo dục. Việc tạm hoãn thi hành án đúng pháp
luật, làm đúng quy định xóa án tích, xét giảm thời hạn thử thách và án treo thơng
qua đó để bảo vệ kịp thời các quyền lợi, hợp pháp của những người bị kết án.
- Về hoạt động giải quyết đơn thư khiếu nại
+ Tòa án thực hiện sổ sách ghi chép rõ ràng,đảm bảo bí mật trong cơng
tác văn thư lưu trữ, tiếp dân tốt. Đã xem xét đơn thư kịp thời đúng quy định của
pháp luật.

+ Công tác báo cáo thống kê xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được
thực hiện đúng thời hạn theo quy định của ngành.

4


+ Xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy chế của ngành: Quy chế dân chủ
cơ sở, quy chế công khai tài chính và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, quy
chế chi tiêu tài chính nội bộ.
- Về hoạt động tổ chức cán bộ
+ Chăm lo đào tạo,bồi dưỡng cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực trách
nhiệm, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơng chức lần lượt đi hoạc trung
học, cao cấp, đại học chính trị và chuyên ngành khác.
+ Chuẩn bị tốt nhân sự để bổ sung cán bộ lãnh đạo, thẩm phán khi có yêu
cầu.
+ Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở là một trong những nhân tố không
thể thiếu được, tạo nên sự đoàn kết thống nhất cao trong cơ quan.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, giữ nguyên kỷ luật của cơ quan, thực
hiện tốt chương trình hành động của cơ qaun đề ra, xây dựng lối sống làm việc,
văn minh hiện đại.
- Hoạt động công tác xây dựng đồn thể
+ Tập thể cán bộ,cơng chức đều đáp ứng yêu cầu,nhiệm vụ công tác của
ngành và địa phương, nội bộ đoàn kết, tập trung dân chủ.
+ Chi bộ cơ quan luôn làm tốt công tác lãnh đạo,giáo dục về chính trị tư
tưởng cho đảng viên,cán bộ cơng chức.
+ Công tác xây dựng Đảng cũng được quan tâm ,nhất là việc phát triển
Đảng viên mới,chi bộ TAND thành phố Vinh là chi bộ trong sạch,vững mạnh
hàng năm kết nạp được thêm nhiều đảng viên mới.
+ Tổ chức cơng đồn thanh niên, phụ nữ cũng có vai trị đáng kể trong
việc chăm lo, động viên cán bộ phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

4. ĐÁNH GIÁ KHÁT QUÁT CHUNG
Tòa án nhân dân thành phố vinh 65 năm xây dựng và trưởng thành, với
chức năng là cơ quan xét xử và nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và
giáo dục công dân, đã trở thành đơn vị tiêu biểu của ngành, đơn vị văn hóa của
thành phố Vinh. Là tòa án xét xử khá nhiều vụ án .Tập thể cán bộ công chức của
5


cơ quan luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, vượt qua mọi khó khăn thử thách,
đồn kết nhất trí cùng nhau nỗ lực phấn dấu haòn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao. Đạt nhiều kết quả cao trong công tác hoạt động, chỉ đạo, xét xử,…và thành
tích nổi bật mang tính chun mơn của ngành là trong lĩnh vực xét xử giải quyết
các loại án với số lượng lớn và nhiều loại án khác nhau như: hình sự, dân sự,
hơn nhân - gia đình, kinh doanh - thương mại…Với việc xét xử những hành vi
phạm tội, tòa án thành phố đã góp phần vào cơng cuộc phịng và chống tội phạm
cũng như giáo dục công dân sống lành mạnh không vi phạm pháp luật. Tịa án
nhân dân đã góp phần sức mình vào việc đảm bảo an ninh trật tự xã hội trên địa
bàn thành phố Vinh. Tòa án nhân dân thành phố Vinh là tập thể lao động xuất
sắc, là tịa án điển hình, xuất sắc của tỉnh Nghệ An. Đơn vị văn hố của ngành
tịa án nhân dân nói chung, được TAND tối cao cơng nhận đơn vị văn hóa.
Trong thời gian thực tập tại cơ quan, bản thân tôi không chỉ rèn luyện
được vốn kiến thức của mình mà cịn học hỏi thêm được rất nhiều kỹ năng
nghiệp vụ làm việc, giải quyết và tiếp xúc với đương sự. Bên cạnh đó, sự nhiệt
tình chỉ bảo và sự thân thiện mà cô chú, anh chị trong cơ quan đã dành cho đồn
thực tâp nói chung và bản thân tơi nói riêng đã tiếp thêm sức mạnh để yêu nghề
và tự hào về ngành mình theo học.
Chia tay với q cơ quan, trong lịng chúng tơi tất cả vừa bùi ngùi xúc
động vừa tự hứa với bản thân phải cố gắng thành công trong cuộc đời để phục
vụ nhân dân, Đảng, Nhà nước và gìn giữ trật tự kỷ cương cho xã hội được cơng
bằng, bình n và hạnh phúc!


6


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơng cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, một trong những
nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân. Muốn xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì cần
phải có con người xã hội chủ nghĩa, đó là địi hỏi tất yếu khách quan. Nhưng
muốn có con người xã hội chủ nghĩa thì phải có một gia đình mẫu mực, bởi gia
đình quyết định một phần rất lớn tới bản chất con người. Gia đình hiện nay cịn
được xem là tế bào của xã hội, do vậy muốn có một xã hội phát triển và lành
mạnh thì cần phải có gia đình tốt – gia đình văn hố mới. Gia đình là nơi sản
sinh ra con người, nuôi dưỡng và giáo dục con người cho xã hội, vì vậy Đảng và
Nhà nước ta trong những năm qua luôn luôn quan tâm tới vấn đề gia đình. Luật
hơn nhân và gia đình có vai trị góp phần xây dựng, hồn thiện và bảo vệ chế độ
hơn nhân gia đình tiến bộ, nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ
hạnh phúc và bền vững. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về gia đình được
ghi nhận tại Điều 64 Hiến pháp 1992: “ Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước
bảo hộ hơn nhân và gia đình theo ngun tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một
chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm ni dạy con thành những
người cơng dân tốt, con cháu có bổn phận chăm sóc ơng bà, cha mẹ. Nhà nước
và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con.”
Mặc dầu đường lối chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của nhà
nước đã đề cập như vậy, song hiện nay có khơng ít gia đình vì những lý do khác
nhau đã không thực hiện tốt chức năng của nó. Một trong số các nguyên nhân đó
là cha mẹ, vợ chồng sống không hạnh phúc, bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ
dẫn tới ly hôn.
Ngày nay, dưới sự tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, cùng

những lối sống tiêu cực, ham hưởng thụ hoặc chạy theo đồng tiền làm cho vợ
chồng, cha mẹ, con cái bỏ bê, khơng quan tâm chăm sóc nhau. Tranh chấp về ly
7


hơn ngày càng nhiều trên phạm vi tồn quốc trong những năm gần đây, tình
trạng ly hơn ở nước ta diễn ra rất phổ biến, lý do rất đa dạng, phức tạp cả về chủ
thể lẫn nội dung. Theo báo cáo của ngành Tồ án, những án kiện về hơn nhân gia
đình ln chiếm tỷ lệ cao trong tổng số các án kiện dân sự. Trong các án kiện về
hôn nhân gia đình thì án kiện về ly hơn ln chiếm khoảng 90%.
Ở Thành phố Vinh trong những năm qua, số lượng án về ly hơn có phần
tăng. Đối với loại án này mỗi vụ việc có nội dung đa dạng và tính phức tạp cũng
khác nhau, nên việc giải quyết loại án này gặp khơng ít khó khăn trong nhận
thức vận dụng pháp luật cũng như những khó khăn từ khách quan mang lại. Tuy
vậy, quá trình giải quyết ly hôn ở Thành phố Vinh trong những năm qua đã đạt
được những kết quả nhất định góp phần giải quyết các mâu thuẫn bất hồ trong
hơn nhân, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của các đương sự đặc biệt là quyền và
lợi ích hợp pháp của phụ nữ và trẻ em. Thông qua việc giải quyết ly hôn đã góp
phần làm ổn định các quan hệ trong hơn nhân, giữ gìn kỷ cương pháp luật, giữ
ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội, góp phần tăng cường nền pháp chế trên
toàn tỉnh Nghệ An.
Bên cạnh những mặt đã đạt được, trong hoạt động xét xử ở Toà án nhân
dân Thành phố Vinh cũng đã bộc lộ một số tồn tại như xét xử oan sai, án tồn
đọng, cịn có vụ vi phạm thời hạn tố tụng , một số vụ án bị sửa, …làm ảnh
hưởng đến quyền lợi của các đương sự. Hơn nữa, ảnh hưởng của ly hôn theo
hướng tiêu cực như: sự ly tán gia đình, sự phân chia tài sản, trẻ em thiếu sự
chăm sóc, giáo dục trực tiếp của cha mẹ … đang là những gánh nặng, những hậu
quả để lại cho gia đình và xã hội mà đang là những câu hỏi lớn đặt ra cần được
giải quyết?
Xuất phát từ những lý do trên, người viết chọn đề tài “ Vấn đề ly hôn theo

pháp luật Việt Nam và thực tiễn giải quyết tại Toà án nhân dân Thành phố Vinh
từ năm 2008 đến năm 2011” là rất cần thiết. Qua q trình nghiên cứu, chúng ta
có thể làm rõ những quy định của pháp luật về ly hôn, những điểm cần hoàn

8


thiện nhằm góp phần làm nâng cao cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật
giải quyết các tranh chấp từ các án kiện ly hôn hiện nay.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật về ly hôn, qua việc so
sánh đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật của cơ quan chuyên trách góp
phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến người dân. Qua việc phân tích, tìm ra
những vướng mắc, thiếu sót, đề xuất những kiến nghị phù hợp với yêu cầu tất
yếu khách quan của xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Qua đề tài, chúng tơi muốn góp phần cơng sức nhỏ bé của mình vào
nhiệm vụ chung của tồn xã hội để xây dựng một chế độ pháp lý ngày càng hồn
thiện góp phần nâng cao hiệu lực pháp luật, xây dựng một nhà nước pháp quyền
ngày càng vững mạnh. Hy vọng khoá luận này sẽ là một tài liệu tham khảo và là
gợi ý, hướng dẫn cho việc áp dụng và thực hiện các quy định của pháp luật về ly
hơn.
3. Mục đích và phương pháp nghiên cứu đề tài
Khi đi tìm hiểu nghiên cứu vấn đề này chúng ta không chỉ thấy được thực
trạng ly hôn đang diễn ra như thế nào mà qua đó chúng ta cịn có thể đi sâu tìm
hiểu các ngun nhân dẫn tới ly hôn và sự tác động của vấn đề ly hơn tới tình
hình kinh tế - xã hội của đất nước.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp chúng ta có được cách hiểu
sâu hơn, đúng đắn hơn cơ sở lý luận của vấn đề ly hôn theo pháp luật hơn nhân
và gia đình.
Nghiên cứu đề tài này cịn nhằm thu thập các số liệu tìm ra những vướng

mắc, bất cập khi áp dụng giải quyết để từ đó tìm ra các giải pháp phù hợp, góp
phần xây dựng và hồn thiện pháp luật hơn nhân và gia đình và nhằm bảo vệ chế
độ hơn nhân gia đình tiến bộ, bền vững kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp
của gia đình Việt Nam.
Khi thực hiện đề tài của mình, người viết tuân thủ phương pháp nghiên
cứu chủ đạo là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ
9


nghĩa Mác- Lênin. Trên cơ sở phương pháp luận đó, người viết sử dụng phương
pháp cụ thể như so sánh, phân tích, tổng hợp để hồn thành đề tài của mình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung tìm hiểu, nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện
hành về chế định ly hôn và những văn bản hướng dẫn thi hành đồng thời có sự
so sánh đối chiếu với các quy định về vấn đề ly hôn trong các văn bản pháp luật
về hôn nhân gia đình trước đó để thấy được những điểm khác và điểm mới qua
đó thấy được những bước tiến trong quá trình lập pháp ở nước ta. Bên cạnh đó,
đề tài cịn được tiến hành nghiên cứu, tiếp xúc thực tiễn tại Toà án nhân dân
Thành phố Vinh – cơ quan chuyên trách giải quyết các án kiện hôn nhân trên địa
bàn Thành phố Vinh.
Do lần đầu tiên tiếp cận với việc nghiên cứu một đề tài và có giới hạn về
mặt thời gian nên khoá luận chưa thể đi sâu nghiên cứu các vấn đề khác như về
thủ tục tố tụng của một vụ án ly hôn hay vấn đề ly hơn có yếu tố nước ngồi. Vì
vậy, q trình thực hiện đề tài khơng tránh khỏi những thiếu sót mong q thầy
cơ và các bạn góp ý, bổ sung để khố luận được hồn thiện hơn.
5. Bố cục của đề tài
Cơ cấu của đề tài bao gồm:
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Khái quát chung về ly hôn và cơ sở pháp lý của ly hôn

Chương 2: Thực tiễn giải quyết vấn đề ly hơn tại Tồ án nhân dân Thành
phố Vinh và một số giải pháp nhằm đảm bảo việc giải quyết vấn đề ly hôn tại
Toà án nhân dân Thành phố Vinh
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo

10


B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Khái quát chung về ly hơn và cơ sở pháp lý của nó
1.1

Khái niệm và đặc điểm của ly hôn

1.1.1 Khái niệm
Ly hôn là một mặt của quan hệ hôn nhân . Nếu kết hôn là một hiện tượng
bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng thì ly hơn là một hiện tượng bất
bình thường, là mặt trái của quan hệ hôn nhân nhưng là mặt không thể thiếu
được khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Trong trường hợp đó ly hôn là
một việc cần thiết cho cả vợ chồng và cho xã hội, vì nó giải phóng cho tất cả
mọi người, cho cả vợ chồng, các con cũng như những thành viên trong gia đình
thốt khỏi xung đột, mâu thuẫn bế tắc trong cuộc sống chung. Thực hiện nguyên
tắc hôn nhân tự nguyện và tiến bộ, bảo đảm quyền tự do hôn nhân bao gồm
quyền tự do kết hôn của nam nữ và quyền tự do ly hôn của vợ chồng.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam thì ly hơn là việc hai vợ chồng bỏ quan
hệ vợ chồng chính thức, vì những ngun nhân nào đó mà khơng đạt được mục
đích hơn nhân. Việc ly hơn có thể xảy ra ở hai thời kỳ: sau khi dạm hỏi( trước
khi cưới) và sau khi cưới khi hai vợ chồng đã ăn ở với nhau một thời gian thậm
chí sau khi đã sinh con cái.

Trước năm 1945, vợ chồng muốn ly dị phải trình làng, làng xử khơng
được phải đến cửa quan( quan huyện, quan phủ). Đàn ông muốn bỏ vợ phải viết
tờ ly dị. Vợ cầm tờ giấy ấy trình làng, trình quan xong mới được lấy vợ khác.
Dưới các chế độ phụ quyền, đặc biệt là xã hội phong kiến phương Đông, với tư
tưởng trọng nam khinh nữ, trong ly hơn nữ giới chịu nhiều thiệt thịi hơn nam
giới.
Hệ thống pháp luật về hơn nhân và gia đình của Nhà nước ta từ năm 1945
đến nay quy định về vấn đề ly hôn với quan điểm vừa tôn trọng, bảo vệ quyền tự
do ly hon chính đáng của vợ chồng, vừa quy định giải quyết ly hơn có lý, có

11


tình. Bằng pháp luật nhà nước kiểm sốt quyền tự do ly hơn của vợ chồng vì lợi
ích của gia đình và xã hội.
Tại khoản 8 Điều 8 luật hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Ly
hơn là chấm dứt quan hệ hơn nhân do tồ án cơng nhận hoặc quyết định theo
yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, hơn nhân( trong đó có ly
hơn) là hiện tượng xã hội, mang tính giai cấp sâu sắc. Pháp luật của Nhà nước
phong kiến, tư sản thường quy định hoặc là cấm vợ chồng ly hôn, hoặc là đặt ra
các điều kiện hạn chế quyền ly hôn của vợ chồng, hoặc quy định giải quyết ly
hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ chồng. Hệ thống pháp luật hơn nhân và gia đình ở
nước ta dưới thời phong kiến, thực dân đã thể hiện luận điểm trên. Dưới chế độ
cũ, quyền yêu cầu ly hôn và các duyên cớ ly hôn theo luật định thường dựa trên
quan hệ “ bất bình đẳng” giữa vợ và chồng. Ly hơn là một hiện tượng xã hội
phức tạp, vì nó ảnh hưởng đến quyền lợi, hạnh phúc của vợ chồng, đến lợi ích
của gia đình và xã hội. Trong những năm gần đây, các việc ly hôn ở nước ta và
các nước trên thế giới gia tăng đáng kể. Những nguyên nhân, lý do ly hôn cũng
rất đa dạng và phức tạp. Vì vậy, muốn giải quyết ly hơn chính xác, vừa đảm bảo

quyền tự do ly hơn chính đáng của vợ chồng, vừa đảm bảo lợi ích gia đình và xã
hội, cán bộ thẩm phán cần nắm vững quy định của pháp luật, điều tra, tìm hiểu
kỹ lưỡng nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng, tâm tư tình cảm, nguyện
vọng của mỗi đương sự, đồng thời phải lưu ý đến các đặc điểm về tình hình kinh
tế - chính trị và xã hội tác động vào quan hệ hôn nhân trong thời điểm giải
quyết ly hôn, để kết hợp đúng đắn đường lối chính sách cụ thể của Đảng và Nhà
nước đối với việc giải quyết từng loại án kiện về ly hôn.
Nhà nước bảo hộ hôn nhân, bảo đảm quyền tự do ly hơn của vợ chồng
khơng có nghĩa là giải quyết ly hôn tuỳ tiện, theo ý chí, nguyện vọng của vợ
chồng muốn sao làm vậy mà bằng pháp luật, Nhà nước kiểm soát việc giải quyết
ly hơn. Bởi vì, trong quan hệ hơn nhân khơng phải chỉ có lợi ích riêng tư của vợ
chồng mà cịn có lợi ích của Nhà nước và xã hội thể hiện qua những chức năng
12


của gia đình - tế bào của xã hội và lợi ích của con cái – thành viên của gia đình
và xã hội. Vì vậy vợ chồng khơng thể chỉ chú ý đến hạnh phúc cá nhân mà xin ly
hôn một cách tuỳ tiện.
1.1.2 Đặc điểm của ly hôn
Xuất phát từ khái niệm ly hôn được quy định tại khoản 8 Điều 8 luật
HNGĐ năm 2000, ly hơn có hai đặc điểm sau đây:
Thứ nhất: Việc ly hôn phải theo ý muốn của một hoặc của cả hai vợ
chồng( khi còn sống), hoặc theo ý muốn của một bên khi bên kia bị tồ án tun
bố là mất tích. Xuất phát từ đặc trưng quan hệ hơn nhân gia đình là một quan hệ
đặc biệt gắn liền với nhân thân của cả hai vợ chồng, do đó chỉ có họ mới quyết
định việc tồn tại hay chấm dứt quan hệ vợ chồng mà khơng ai có quyền u cầu
hoặc can thiệp. Luật hơn nhân và gia đình năm 1959, 1986( Điều 40), luật
HNGĐ năm 2000( khoản 1 Điều 85) cũng chỉ quy định vợ hoặc chồng mới có
quyền ly hơn. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 cũng quy định đối với việc ly
hôn, đương sự không được uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố

tụng ( khoản 3 Điều 73 BLTTDS 2004).
Thứ hai: Việc ly hôn do TAND giải quyết bằng việc ra quyết định cơng
nhận thuận tình ly hơn hoặc bằng bản án. Vì việc kết hôn là xác lập quan hệ hôn
nhân do cơ quan hành chính thực hiện cụ thể là Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc
UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương( đối với trường hợp kết hôn có
yếu tố nước ngồi) nhưng ly hơn để chấm dứt quan hệ vợ chồng thì thuộc cơ
quan tư pháp, cụ thể là Toà án nhân dân. Cho dù thực tế họ đã chấm dứt quan hệ
vợ chồng, trên thực tế họ khơng cịn chung sống với nhau nữa hoặc chính quyền
địa phương đã có quyết định khác như biên bản hồ giải đồn tụ khơng thành
của Uỷ ban nhân dân cấp xã, nhưng về mặt pháp lý, quan hệ hôn nhân vẫn cịn
tồn tại, khi chưa có quyết định hoặc bản án của Tồ án có thẩm quyền giữa
người vợ và người chồng vẫn còn ràng buộc pháp lý về quan hệ nhân thân, quan
hệ tài sản và quan hệ con cái. Chỉ khi Toà án xem xét giải quyết và quyết định
cho họ chấm dứt hay tiếp tục tồn tại quan hệ hơn nhân đó, quyết định của Tồ án
13


là quyết định cuối cùng. Trường hợp Toà án xử cho ly hôn bằng một bản án hay
ra một quyết định cơng nhận thuận tình ly hơn, khi đó giữa người vợ và người
chồng khơng cịn sự ràng buộc về mặt pháp lý cả về quan hệ nhân thân lẫn quan
hệ tài sản. Quyết định của Toà án là quyết định có giá trị cao nhất.
1.2

Các căn cứ ly hơn theo pháp luật Việt Nam

1.2.1 Khái niệm
Căn cứ ly hôn được định nghĩa là những tình tiết( điều kiện) được quy
định trong pháp luật và chỉ khi có những tình tiết, điều kiện đó, Tồ án mới được
xử cho ly hôn. Như vậy “ căn cứ ly hôn” ở đây cần được hiểu theo nghĩa của
một thuật ngữ pháp lý, theo đó khi một đề nghị xin ly hơn đã hội đủ các điều

kiện quy định trong luật, Toà án khơng dựa vào bất cứ lý do nào ngồi những
điều kiện ấy để bác đơn xin ly hôn của đương sự. Chính trong ý nghĩa pháp lý
của thuật ngữ này mà lý luận pháp luật Việt Nam phân biệt “ căn cứ” ly hôn với
“ động cơ” ly hôn, hay “ mục đích” ly hơn, hai khái niệm này đồng nghĩa nhưng
không được coi là những điều kiện ly hôn quy định trong luật.
Trong xã hội có giai cấp, ly hơn cũng thể hiện tính giai cấp. Việc quy định
về ly hôn và căn cứ cho ly hôn thể hiện ý chí và quan điểm của giai cấp thống trị
xã hội.
Quan điểm của những nhà làm luật tư sản cho rằng hôn nhân thực chất là
một “khế ước” , một hợp đồng do hai bên nam nữ tự do, tự nguyện xác lập, vậy
thì chỉ được xố bỏ hơn nhân, khế ước đó trên cơ sở lỗi của các bên. Bộ luật dân
sự Pháp quy định: “ Vợ chồng có thể xin ly hôn do những sự việc bên kia gây ra,
vi phạm nghiêm trọng và liên tục bổn phận và nghĩa vụ hôn nhân khiến cho đời
sống chung không thể duy trì được”(Điều 242 mục III Thiên VI). Theo đó, việc
giải quyết các hậu quả của ly hơn cũng như quyền lợi về tài sản, trách hiệm đối
với con cái, cũng dựa trên căn cứ này.
Luật hôn nhân và gia đình các nước Xã hội chủ nghĩa quy định giải quyết
ly hôn theo đúng thực chất của vấn đề, hồn tồn khơng dựa vào lỗi của vợ

14


chồng, trên cơ sở nhìn nhận khách quan, đánh giá đúng thực chất của quan hệ
hôn nhân thực sự tan vỡ.
Ở nước ta căn cứ ly hôn được quy định trong các văn bản pháp luật ở từng
giai đoạn khác nhau.
Trong cổ luật Việt Nam, các căn cứ ly hôn thường được biết tới với tên
gọi “ duyên cớ” ly hôn hay “ các trường hợp ly hôn”. Các duyên cớ ly hôn trong
cổ luật cũng thấm nhuần sâu sắc tư tưởng nho giáo, nghĩa là chúng dựa trên sự
bất bình đẳng giữa vợ - chồng và nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi gia đình, gia

tộc hơn là quyền lợi cá nhân. Chính trong ý nghĩa này mà duyên cớ ly hôn trong
cổ luật được chia làm ba loại: rẫy vợ, ly hôn bắt buộc và ly hôn thuận tình.
Rẫy vợ là việc người chồng được đơn phương bỏ vợ ngồi tầm kiểm sốt
của tất cả các thiết chế xã hội. Điều 310 Bộ luật Hồng Đức quy định, nếu người
vợ phạm vào một trong các điều “ thất xuất” thì chồng phải bỏ vợ, khơng bỏ sẽ
bị tội biếm. Theo Hồng Đức Thiện chính thư( đoạn 164) và bộ luật Gia Long
(Điều 108) đã nêu rõ đó là bảy trường hợp sau: khơng có con, dâm đãng, khơng
thờ bố mẹ chồng, lắm điều, trộm cắp, ghen tuông và bị ác tật.
Ly hôn bắt buộc là trường hợp khi việc kết hôn vi phạm các điều kiện
thiết yếu của hơn nhân thì vợ chồng bị buộc phải ly dị. Chẳng hạn Điều 308 Bộ
luật Hồng Đức quy định: “ Chồng bỏ lửng vợ 5 tháng thì mất vợ”, Điều 108 Lệ
thứ hai luật Gia Long cũng quy định : “ Nếu người chồng mất tích hoặc bỏ trốn
3 năm khơng về thì người vợ được trình quan xin phép cải giá và nhà vợ khơng
phải hồn lại đồ sính lễ”.Đặc biệt Điều 108 luật Gia Long quy định khi vợ chồng
phạm phải điều “nghĩa tuyệt” thì buộc phải ly hơn. “ Nghĩa tuyệt” có thể là do
lỗi của vợ ( mưu sát chồng), hoặc lỗi của chồng ( chồng bán vợ, cho thuê vợ hay
cầm vợ), nhưng cũng có thể là do lỗi của cả hai vợ chồng ( người chồng đem vợ
bán cho nhân tình của vợ).
Thuận tình ly hơn là việc hai vợ chồng bất hồ tự nguyện xin ly dị [9,55]
Căn cứ ly hôn trong pháp luật chính quyền nguỵ quyền Sài Gịn trước
1975 ( ở Miền Nam): Luật gia đình 1959 của Ngơ Đình Diệm quy định cấm ly
15


hôn chỉ cho ly thân, trừ một số trường hợp phải có tổng thống xét là tối đặc biệt
mới cho ly hôn. Để biện hộ cho quy định này Trần Lệ Xuân nêu lý do: Cấm cho
ly hôn nhằm bảo vệ và củng cố gia đình dành thời gian xoa dịu các mối bất hồ,
cho đơi bạn có cơ hội đoàn tụ, làm cho thanh niên lựa chọn bạn đời thận trọng
hơn.
Đến năm 1964, sau khi chính quyền bị lật đổ lúc này mới đề nghị xét lại

quy định trên. Do vậy, Bộ Dân luật 1972 của chính quyền Thiệu đã quy định vợ
chồng có thể xin ly hơn vì ba duyên cớ: và sự ngoại tình của bên kia, bên kia bị
kết án trọng hình về thượng tội, vợ chồng bị ngược đãi không thể ăn ở được với
nhau.
Căn cứ ly hôn các văn bản sau năm 1945: Sau khi nước nhà độc lập, nhà
nước ta đã ban hành sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950, sắc lệnh 159/SL ngày
17/11/1950. Theo sắc lệnh 159, xố bỏ các dun cớ ly hơn được quy định trong
các bộ dân luật của thực dân phong kiến trước đó và đề ra năm căn cứ ly hơn
cho cả và chồng bao gồm: ngoại tình, một bên can án phạt giam, một bên bị
bệnh điên, hoặc một bệnh khó chữa khỏi, vợ chồng tính tình khơng hợp hoặc đối
xử với nhau đến nỗi không thể chung sống được ( Điều 2).
Luật hơn nhân và gia đình 1959 (Điều 6), luật HNGĐ 1986 ( Điều 40), và
luật HNGĐ năm 2000 ( Điều 89) đã quy định căn cứ ly hôn dựa trên quan điểm
chủ nghĩa Mác – Lênin, theo đó khơng quy định căn cứ riêng biệt mà quy định
thống nhất về căn cứ ly hôn dù là trường hợp hai bên thuận tình ly hơn hay một
bên vợ hoặc chồng yêu cầu: “ Tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể
kéo dài, mục đích hơn nhân khơng đạt được thì Tồ án quyết định cho ly hơn”.
Ngồi ra, cịn quy định: “ Trong trường hợp vợ hoặc chồng bị Tồ án tun bố
mất tích xin ly hơn thì Tồ án giải quyết cho ly hơn”.
1.2.2 Nội dung các căn cứ ly hôn
Khi vợ chồng hay cả hai vợ chồng có u cầu ly hơn, sau khi thụ lý vụ
kiện, Toà án phải tiến hành điều tra và hồ giải, nếu hồ giải khơng thành và xét

16


thấy giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc, tình cảm u thươg khơng cịn nữa,
mục đích của hơn nhân khơng đạt được, Tồ án mới giải quyết cho ly hơn”.
Điều 89 luật hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“ 1. Toà án xem xét yêu cầu ly hơn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng,

đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được thì
Tồ án quyết định cho ly hơn.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tun bố mất tích
xin ly hơn thì Tồ án giải quết cho ly hơn.”
“ Tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài” ở đây cần
được hiểu là giữa vợ chồng có nhiều lục đục, mâu thuẫn sâu sắc đến mức vợ
chồng không thể chịu đựng được nhau nữa, các thành viên trong gia đình khơng
thể nào sống chung bình thường, quan hệ vợ chồng khơng thể tồn tại được, sự
tan vỡ của hôn nhân và ly tán của gia đình là khơng thể tránh khỏi. Vì thế khơng
thể hiểu đơn thuần “ tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài”
chỉ là biểu hiện tình u giữa vợ chồng khơng cịn nữa. Khi nói đến tình u
trong quan hệ vợ chồng cịn hay hết là mới chỉ nói đến quan hệ tình cảm có tính
chất riêng tư của vợ chồng mà chưa thấy hết mọi mặt khác trong đời sống vợ
chồng nói riêng và đời sống gia đình nói chung. Và như vậy, khi giải quyết việc
ly hơn, Tồ án cần phải thẩm tra, xem xét lợi ích của vợ chồng, của con cái, của
gia đình và xã hội trong quan hệ hơn nhân đó ra sao? Có nhìn nhận một cách
tồn diện như vậy thì giải quyết ly hơn chính xác mới mang lại kết quả tích cực
thúc đẩy các quan hệ hơn nhân và gia đình phát triển phù hợp với đạo đức Xã
hội chủ nghĩa, phù hợp với lợi ích chung tồn xã hội.
Mục 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Luật hô nhân gia đình năm 2000 đã nêu rõ:
a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 thì Tồ án quyết định cho ly hơn nếu
xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài được, mục
đích hơ nhân không đạt được.
17


a.1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như

người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc chồng muốn sống
ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của ho hoặc cơ quan, tổ chức nhắc
nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng ln có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường
xuyên đánh đập hoặc có hành vi xúc phạm khác đến danh dự, nhân phẩm và uy
tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể
nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã
được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan,
tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại
tình.
a.2 Để có cơ sở nhận định đời sống chung không thể kéo dài được, thì
phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như
hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở
nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly
thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm
nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng khơng thể
kéo dài được.
a.3 Mục đích của hơn nhân khơng đạt được có nghĩa là khơng có tình
nghĩa vợ chồng; khơng bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng; khơng
tơn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không giúp đỡ tạo điều
kiện cho nhau phát triển mọi mặt”.
Khi thực tế quan hệ vợ chồng ở trong “tình trạng trầm trọng, đời sống
chung khơng thể kéo dài” thì thường dẫn tới “ mục đích hơn nhân khơng đạt
được”. Mục đích hơn nhân dưới chế độ XHCN là nhằm mục đích xây dựng gia
đình ấm no, bình đẳng , tiến bộ, hạnh phúc và bền vững ( Điều 1 Luật HNGĐ
2000). Tờ trình về dự luật hơn nhân gia đình 1959 của Chính phủ trước Quốc
18



hội đã chỉ rõ: “ Mục đích của hơn nhân trong chế độ ta là xây dựng những gia
đình hạnh phúc, dân chủ và hồ thuận, trong đó mọi người thương yêu, tương
trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và bảo đảm cho nòi giống được lành mạnh,
tương lai con cái được tốt đẹp, cho xã hội được phát triển thịnh vượng và làm
cho mọi người trong gia đình đều phấn khởi lao động, cùng nhau cải thiện đời
sống và kiến thiết tổ quốc.”Điều đó thể hiện mối liên hệ hài hồ, gắn bó giữa
mặt riêng tư và mặt xã hội trong quan hệ hôn nhân. Nếu hạt nhân của xã hội tồn
tại khơng bình thường và lành mạnh, quan hệ vợ chồng tồn tại khơng có lợi cho
gia đình và cho xã hội thì ly hơn là tất yếu không tránh khỏi.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 89 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000:
“ Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly
hơn thì Tồ án giải quyết cho ly hơn”. Quy định này đã cụ thể hố hậu quả của
việc Tồ án tun bố cơng dân bị mất tích trong Bộ luật dân sự của Nhà nước ta.
Trong quan hệ hơn nhân và gia đình việc chồng hoặc vợ bị mất tích đã ảnh
hưởng sâu sắc đến quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Cần phải
giải phóng cho vợ hoặc chồng thốt khỏi “ hồn cảnh đặc biệt” này, khi họ có
u cầu được ly hôn với người chồng ( vợ) đã bị Tồ án tun bố mất tích.
Như vậy căn cứ ly hơn trong luật hơn nhân gia đình Việt Nam năm 2000
của Nhà nước ta được quy định dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin
có cơ sở khoa học và thực tiễn kiểm nghiệm trong mấy chục năm qua. Từ khi
Nhà nước ta ban hành Luật HNGD năm 1959, khi giải quyết ly hôn không thể
hiểu đơn thuần “ tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục
đích hơn nhân khơng đạt được” là tình u giữa vợ chồng khơng cịn nữa mà
điều đó nói lên một thực trạng hôn nhân đã tan vỡ, quan hệ vợ chồng khơng thể
tồn tại được nữa vì “ sự tồn tại của nó chỉ là bề ngồi và giả dối” và ly hơn là
một giải pháp tích cực để giải phóng cho vợ chồng cũng như các thành viên
khác trong gia đình khỏi cảnh “bất bình thường” đó, bảo đảm lợi ích của vợ
chồng, của gia đình và xã hội.

19



1.3

Quyền ly hôn

Ly hôn thực chất là mặt trái của quan hệ hôn nhân. Việc ly hôn là bất đắc
dĩ khi quan hệ vợ chồng đã đổ vỡ không thể hàn gắn được.
Trước đây, do ảnh hưởng của những quan niệm cũ lạc hậu thì việc ly hơn
bị coi là hiện tượng khơng bình thường, phần nào bị xã hội lên án và bị hạn chế
nhất là đối với phụ nữ việc chủ động ly hơn là điều khó có thể chấp nhận.
Tuy nhiên những năm gần đây cách nhìn nhận vấn đề ly hơn có xu hướng
thống hơn và ly hơn được xem như là một hiện tượng bình thường, một quyền
dân sự của cá nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ
Bộ luật dân sự 1995 ( Điều 38) và BLDS 2005 ( Điều 42) đã quy định “
vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền u cầu Tồ án cho chấm dứt
quan hệ hơn nhân khi có lý do chính đáng”. Ly hơn là mặt trái của quan hệ hôn
nhân chỉ đặt ra khi hạnh phúc gia đình khơng cịn tồn tại, cuộc sống chung nảy
sinh nhiều mâu thuẫn, mục đích của việc kêt hôn không đạt được. Với đặc điểm
của quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình, quyền kết hơn, ly hơn là quyền
nhân thân khơng thể chuyển giao, chỉ có chủ thể của quan hệ pháp luật mới có
quyền yêu cầu giải quyết. Nên cha mẹ bên vợ hoặc bên chồng hay bất cứ người
nào khác không thể yêu cầu Tồ án giải quyết việc ly hơn, mà chỉ có vợ chồng
hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu ly hơn khi có lý do chính đáng.
Theo khoản 1 Điều 85 Luật hơn nhân gia đình năm 2000 quy định: “…đối với
việc ly hôn đương sự không được uỷ quyền thay cho người khác thay mặt mình
tham gia tố tụng”. Như vậy, quyền yêu cầu Toà án giải quyêtts cho ly hôn là
quyền của vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng. Quyền này gắn liền với nhân thân
của vợ chồng, không thể chuyển gia. Nhưng hiện nay bàn về vấn đề quyền ly
hơn đã xó một số vướng mắc giữa quy định của luật nội dung và luật hình thức.

Cụ thể là sự khơng phù hợp giữa luật hơn nhân và gia đình, Bộ luật dân sự và Bộ
luật tố tụng dân sự.
Thứ nhất: đó là trường hợp bố mẹ có quyền đại diện cho người con bị tâm
thần khởi kiện xin ly hôn hay không? Trong thời gian qua có một vài vụ việc bố
20


hoặc mẹ viết đơn gửi Toà án với tư cách là người đại diện xin ly hôn thay cho
người con của mình mắc bệnh tâm thần, các Tồ án đã lúng túng trong xử lý? Có
Tồ án trả lại đơn kiện, có Tồ án thụ lý vụ án và xem xét yêu cầu mà người đại
diện đưa ra. Thực tế cũng có trường hợp trong hồ sơ đơ xin ly hôn do người bị
bệnh tâm thần đứng tên, và bố hoặc mẹ có đơn gửi Tồ án xin là người đại diện
cho con đang bị tâm thần đã mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết ly hôn
cho con.
Đối với loại việc này nên xử như thế nào hiện cịn có nhiều quan điểm
khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 85 Luật
hơn nhân gia đình, Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 62, 67, 139 Bộ luật
dân sự thì việc xin ly hơn là một loại quan hệ nhân thân gắn liền với mỗi chủ
thể, không thể tách rời. Do đó, khơng ai có thể uỷ quyền cho người khác thay
mặt mình trước Tồ án để giải quyết việc ly hơn; nếu người đó mất năng lực
hành vi dân sự thì cũng khơng ai có thể đại diện họ để khởi kiện xin ly hôn và
đại diện cho họ trước Toà để giải quyết quan hệ nhân thân này. Do đó, Tồ án
phải trả lại đơn khởi kiện của bố hoặc mẹ đứng đơn với tư cách là người đại diện
cho người con mất năng lực hành vi dân sự trong vụ án ly hơn, vì những người
này khơng có quyền khởi kiện để xin ly hơn hay chia tài sản chung thay cho
gười mất năng lực hành vi dân sự.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Khi người vợ hoặc người chồng của người
mất năng lực hành vi dân sự mà thiếu trách nhiệm vi phạm nghiêm trọng nghĩa
vụ vợ chồng với người đang mất năng lực hành vi dân sự, thì bố hoặc mẹ sẽ là

người giám hộ, người đại diện đương nhiên cho con mình khởi kiện xin ly hơn,
chia tài sản, con cái… Tồ án phải thụ lý giải quyết đơn của họ. Nếu Toà án thấy
khơng thể duy trì được quan hệ vợ chồng thì Tồ án cho người vợ hoặc người
chồng bị mất năng lực hành vi dân sự ly hôn và giải quyết các quan hệ khác kèm
theo nếu người đại diện yêu cầu.

21


Quan điểm thứ ba cho rằng bố hoặc mẹ của người mất năng lực hành vi
dân sự khơng có quyền đại diện thay con để xin ly hơn, vì đó là quan hệ nhân
thân không được uỷ quyền, không được đại diện. Bố hoặc mẹ của người đó chỉ
có quyền đại diện cho con để khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết quan hệ con
cái, tài sản, yêu cầu buộc bên kia cấp dưỡng và Toà án phải thụ lý, giải quyết
quan hệ con cái, tài sản khi bố mẹ đại diện yêu cầu.
Như vậy, để xác định bố mẹ có quyền đại diện cho người con bị bệnh tâm
thần khởi kiện xin ly hơn hay khơng thì cần phải nghiên cứu chế định đại diện
và chế định giám hộ được quy định trong Bộ luật dân sự. Tại khoản 2 Điều 24
Luật hơn nhân gia đình quy định rõ: “ vợ chồng đại diện cho nhau khi một bên
mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ”.
Nhưng nếu người vợ ( hoặc chồng) mất năng lực hành vi dân sự mà người
chơng ( hoặc vợ) khơng chăm sóc, khơng chung thuỷ, thậm chí cịn đánh đập
hành hạ họ và lấy tài sản chung cho người tình hoặc tẩu tán tài sản chung thì
trong trường hợp này người chồng ( hoặc vợ) khơng làm được vai trị là người
giám hộ, là người đại diện mà pháp luật đã trao cho họ, vậy ai có quyền đại diện
cho người vợ ( hoặc chồng) mất năng lực hành vi dân sự để khởi kiện bảo vệ
quyền nhân thân như quyền ly hôn, quyền tài sản cho họ không? Vấn đè này
đang đặt ra nhiều vướng mắc mà vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể.
Thứ hai: Về vấn đề người đại diện theo pháp luật trong vụ án ly hôn. Căn
cứ vào quy định của pháp luật về hôn nhân và thực tế trong đời sống xã hội, đã

có nhiều nam nữ vừa câm, vừa điếc hoặc nam nữ đều mù hai mắt mà đã kết hôn
với nhau. Hoặc khi kết hôn, nam nữ đều là người bình thường, nhưng trong quá
trình chung sống, lao động, sản xuất, làm việc, sinh hoạt thì một bên vợ ( chồng)
trở thành người mắc bệnh tâm thần hoặc là người có nhược điểm về thể chất
hoặc là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và họ lại có u cầu Tồ án
giải quyết ly hơn. Như vậy, trong thực tế đã có các trường hợp ly hôn đối với
người mắc bệnh tâm thần hoặc đối với có nhược điểm về thể chất. Vấn đề đặt ra
là trongg các trường hợp ly hôn này, thì đương sự có đại diện tham gia tố tụng
22


khơng? Nếu có thì người đại diện nào? Thủ tục giải quyết như thế nào là hợp
pháp?
Ví dụ 1: Vợ chồng đều mù cả hai mắt mà một bên có u cầu ly hơn. Anh
Lê Đình M ( mù hai mắt) kết hôn với anh Nguyễn Thị H ( mù hai mắt) đã hơn
10 năm, vào tháng 6 năm 2008, anh M có đơn u cầu Tồ án giải quyết ly hôn
với chị H ( đơn nhờ người khác viết, anh M chỉ điểm chỉ vào đơn). Khi giải
quyết vụ ly hơn giữa anh M với chị H, Tồ án huyện P tỉnh H đã có ý kiến khác
nhau. Có ý kiến cho rằng: nguyên đơn và bị đơn đều phải có người đại diện theo
pháp luật để tham gia tố tụng. Ý kiến khác lại cho rằng: giải quyết ly hôn theo
thủ tục tố tụng thông thường mà không cần có người đại diện theo pháp luật. Vì
những người mù trong vụ án ly hôn không thuộc trường hợp có người đại diện
theo pháp luật tham gia tố tụng.
Ví dụ 2: Ly hôn đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Chị
Nguyễn Thị L kết hơn anh Trần Văn P từ năm 1998 đã có một con chung. Sau
khi ly hôn, chị L mới biết anh P là người nghiện ma tuý. Anh P đã vào trại cai
nghiện một thời gian được trở về nhà, nhưng anh P bị nghiện lại.Hậu quả của
việc tái nghiện là anh P khơng phụ giúp gì cho vợ con trong sinh hoạt gia đình
mà bán hết tài sản của gia đình để lấy tiền mua ma tuý. Anh P nói năng như
người hun thun như người khơng biết gì, thỉnh thoảng lại đánh chưởi vợ

con thậm tệ, vợ chồng không thể sống chung được với nhau.
Năm 2007, chị L có đơn u cầu Tồ án giải quyết ly hơn đối với anh P.
Khi giải quyết vụ ly hôn này, oà án huyện C, tỉnh H đã có ý kiến khác nhau. Có
ý kiến cho rằng: yêu cầu chị L có đơn u cầu Tồ án tun bố anh P là người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự, nếu Toà án chấp nhận yêu cầu của chị L và ra
quyết định tuyên bố anh P là người hạn chế năng lực hành vi dân sự thì sau đó
Tồ án sẽ chỉ định người đại diện theo pháp luật theo quy định tại khoản 3 Điều
414 của Bộ luật dân sự để người đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng. Ý kiến
khác lại cho rằng: thực hiện theo cơng văn số 57/KHXX ngày 21/9/1996 của Tồ
án nhân dân tối cao yêu cầu phía anh P cử người đại diện để tham gia tố tụng và
23


giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục thông thường mà không cần phải tiến hành
thủ tục tuyên bố anh P là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Vấn đề thứ ba: Đó là về vấn đề có được giải quyết việc ly hơn cho người
vợ chưa thành niên không? Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật hơn nhân gia
đình năm 2000 thì “ Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên có thể đăng ký
kết hơn”,và theo các văn bản hướng dẫn Luật hơn nhân gia đình năm 2000 đó là:
Nghị định số 70/2001/ND – CP của Chính phủ ngày 3/10/2001; công văn số
268/TP – HT của Bộ tư pháp ngày 19/4/2001; Nghị quyết số 02/2000/NQ –
HDTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ngày 23/12/2000 thì
khơng buộc nam nữ phải đủ 20 tuổi, nữ phải đủ 18 tuổi trở lên mới được kết
hôn, mà chỉ cần nam bước sang tuổi 20, nữ bước sang tuổi 18 là đủ điều kiện về
độ tuổi kết hôn. Như vậy, đối với nữ “ bước sang tuổi 18” có nghĩa là từ đủ 17
tuổi + 1 ngày là có thể đăng ký kết hơn. Trong khi đó, theo Điều 20 Bộ luật dân
sự thì người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Từ đó nảy sinh một vướng
mắc là: khi có sự kiện xin ly hôn mà người vợ vẫn chưa đên tuổi thành niên thì
Tồ án có thụ lý giải quyết khơng?
Về ngun tắc, khi vợ chồng đã đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm

quyền thì có thể xin ly hơn ngay sau ngày đăng ký nếu có lý do chính đáng. Ví
dụ: Chị B 17 tuổi 5 ngày kết hơn với anh A 25 tuổi. Đăng ký kết hôn được 5
ngày thì anh A và chị B đến Tồ án xin thuận tình ly hơn. Lúc này chị B mới 17
tuổi 10 ngày. Tuy nhiên nếu thụ lý giải quyết việc xin ly hôn của chị B( người vợ
chưa thành niên) Toà án sẽ gặp vướng mắc về pháp luật tố tụng. Cụ thể theo quy
định tại khoản 3 Điều 57 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì đương sự phải là người
từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Nghĩa là từ
đủ 18 tuổi trở lên họ mới có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết các vụ
việc dân sự ( trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 57 đối với tranh chấp lao
động). Như vậy, theo các quy định trên thì có thể thấy rằng, người vợ chưa thành
niên khơng thể tự mình tham gia tố tụng để giải quyết việc ly hôn của chính
mình, đồng thời pháp luật cũng khơng cho phép người khác đại diện thay cho
24


người vợ chưa thành niên trong vụ án ly hôn (khoản 3 Điều 73 BLTTDS 2004).
Rõ ràng ở đây có sự “ xung đột” giữa luật nội dung( luật HNGD) và luật hình
thức ( Luật TTDS). Việc quy định khơng thống nhất giữa luật nội dung và luật
hình thức đã dẫn đến những cách hiểu và xử lý khác nhau giữa các cơ quan xét
xử. Thiết nghĩ, nếu Toà án để cho đương sự đủ 18 tuổi mới giải quyết thì sẽ
khơng đảm bảo quyền lợi cho các bên, đặc biêt là lợi ích của người vợ. Trong
khoảng thời gian đó sẽ khơng lường trước được bao nhiêu quyền lợi, lợi ích của
người vợ bị xâm phạm, khơng biết bao nhiêu hậu quả sẽ phát sinh. Như vậy,
nguyên tắc bảo vệ quyền lợi cho người vợ và con không bảo đảm. Do đó, cần
phải có một thủ tục tố tụng quy định riêng đó là: “ Vợ chồng đã kết hơn hợp
pháp thì có quyền u cầu Tồ án giải quyết cho ly hôn”.
1.4

Hạn chế quyền ly hôn


Xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em, bảo vệ phụ nữ có thai và
thai nhi Luật hơn nhân gia đình năm 2000 tại khoản 2 Điều 85 quy định: “ Trong
trường hợp vợ có thai hoặc đang ni con dưới 12 tháng tuổi thì chồng khơng
có quyền u cầu xin ly hôn”.
Cần hiểu rằng, trong quan hệ vợ chồng, việc sinh đẻ không phải đơn thuần
là việc riêng của người vợ, đó là việc chung, là trách nhiệm chung của cả hai vợ
chồng. Mặt khác, sinh đẻ là chức năng xã hội của gia đình. Vì vậy, phải thấy
được trách nhiệm chung đó để giải quyết vấn đề ly hơn cho thoả đáng, hợp lý,
hợp tình nhằm đảm bảo quyền lợi của phụ nữ và của con cái, bảo vệ lợi ích gia
đình và xã hội.
Theo nghị quyết số 02/2000/NQ – HDTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp
dụng một số quy định của luật hơn nhân gia đình năm 2000 thì luật chỉ quy định
“ vợ đang có thai hoặc đang ni con dưới 12 tháng tuổi”. Do đó, khi người vợ
đang thuộc một trong các trường hợp này ( khơng phân biệt người vợ có thai với
ai hoặc bố của đứa trẻ dưới 12 tháng tuổi là ai), mà người chồng lại có u cầu
ly hơn thì giải quyết như sau:

25


×