Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Luận văn Thạc sĩ Thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng Từ thực tiễn Ban thi đua khen thưởng Trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.14 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

.............../..............

...../.....

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN HỮU THÀNH

THANH TRA TRONG LĨNH VỰC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
- TỪ THỰC TIỄN BAN THI ĐUA - KHEN THƯỞNG TRUNG ƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Quốc Văn

HÀ NỘI - NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, Luận văn “Thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen
thưởng - từ thực tiễn Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương” là công trình
nghiên cứu khoa học của riêng tơi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
TS. Nguyễn Quốc Văn. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong
luận văn là hồn tồn chính xác và trung thực.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Hữu Thành


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THANH TRA TRONG LĨNH
VỰC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG…………………………………...
7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng

7

1.2. Nội dung, nguyên tắc hoạt động thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng

15

1.3. Các yếu tố tác động đến thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng……

21

Chương 2: THỰC TRẠNG THANH TRA TRONG LĨNH VỰC THI ĐUA,

KHEN THƯỞNG CỦA BAN THI ĐUA - KHEN THƯỞNG TRUNG
ƯƠNG…………………………………………..................................
27
2.1. Khái quát về Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương……………………..

27

2.2. Phân tích thực trạng thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng của Ban Thi
đua - Khen thưởng Trung ương…………………………………………….
33
2.3. Đánh giá chung về thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng của Ban Thi
đua - Khen thưởng Trung ương………………….........................................
40
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THANH TRA TRONG
LĨNH VỰC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG - TỪ THỰC TIẾN BAN THI ĐUA KHEN THƯỞNG TRUNG ƯƠNG……………………….
63
3.1. Dự báo về công tác thi đua, khen thưởng và nhu cầu thanh tra trong lĩnh vực này
thời gian tới…………………………………………………………….
63
3.2. Mục tiêu và quan điểm chỉ đạo công tác thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen
thưởng……………………………………………………………………..
64
3.3. Giải pháp bảo đảm thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng…………

66

KẾT LUẬN

79


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

81


DANH MỤC CHỨC VIẾT TẮT
BCH TW

Ban Chấp hành Trung ương

BCT

Bộ Chính trị

CP

Chính phủ

KL

Kết luận



Nghị định

NXB

Nhà xuất bản




Quyết định

QH

Quốc hội

QPPL

Quy phạm pháp luật

TTg

Thủ tướng Chính phủ

TĐKT

Thi đua, khen thưởng

TT

Thơng tư

TW

Trung ương

UBND


Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản
Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng công tác thi đua,
khen thưởng, coi đây là một trong những phương thức lãnh đạo cách mạng, là
nghệ thuật tổ chức và chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách, là phương pháp
giáo dục tổng hợp sinh động và có hiệu quả lớn của Đảng. Dưới sự lãnh đạo
đúng đắn, sự chỉ đạo cụ thể, sát sao của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với
các phong trào “Hũ gạo kháng chiến", "Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc
ngoại xâm", dân tộc ta đã làm nên một Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, sức mạnh
của phong trào thi đua: “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”, “Năm xung phong”,
“Mỗi người làm việc bằng hai, vì miền Nam ruột thịt”, “Nghìn việc tốt” v.v..,
đã tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống xã hội, động viên mọi tầng lớp
nhân dân tích cực lao động, sản xuất, chiến đấu, góp phần làm nên Đại thắng
mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Giai đoạn hiện nay, công tác thi đua, khen thưởng của nhà nước ta tiếp
tục có nhiều chuyển biến tích cực, tạo động lực quan trọng góp phần thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong phát triển kinh tế, các phong trào thi đua đã góp phần ổn định kinh tế vĩ
mơ, kiểm sốt lạm phát, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý và đã được triển
khai trong tất cả các ngành, lĩnh vực. Phong trào thi đua “Cả nước chung sức
xây dựng nông thôn mới”; phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo khơng để ai bị bỏ lại phía sau” được triển khai sâu rộng, đồng bộ, nội dung

phong phú và hình thức đa dạng, trở thành phong trào quần chúng, sâu rộng,
hiệu quả, góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn và nâng cao đời sống
nhân dân; phong trào “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển” đã góp
1


phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh,
phát huy tính sáng tạo, tích cực của người lao động, tiếp tục đẩy nhanh tái cơ
cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trong các
phong trào thi đua yêu nước đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân tiêu biểu xuất
sắc, nhiều điển hình tiến tiến trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…
Trong những năm qua, trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua
yêu nước, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết quan trọng về
công tác thi đua, khen thưởng như: Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 3/6/1998 về
đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay; Chỉ thị số
39/CT-TW ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
phong trào thi đua yêu nước, phát hiện bồi dưỡng, tổng kết nhân điển hình
tiên tiến; Chỉ thị số 34/CT-TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục
đổi mới cơng tác thi đua, khen thưởng[6]… Trên cơ sở đó, Quốc hội đã ban
hành Luật Thi đua, khen thưởng; Chính phủ đã ban hành Nghị định của quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng và các bộ,
ngành, địa phương ban hành hướng dẫn thực hiện các vấn đề liên quan đến
công tác thi đua, khen thưởng.
Hệ thống văn bản QPPL về lĩnh vực TĐKT từng bước được hoàn thiện
đã tạo ra cơ sở pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này
một cách hiệu quả, góp phần thể chế hóa và đưa chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về thi đua, khen thưởng vào cuộc sống, thúc đẩy sự phát
triển của xã hội góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Tuy nhiên, thực tiễn triển khai thực hiện các quy định pháp luật về
TĐKT trong những năm qua còn nhiều vấn đề bất cập, tồn tại cần được xem
2


xét và giải quyết triệt để như: Buông lỏng quản lí nhà nước, xem nhẹ việc
tuân thủ, thực hiện pháp luật trong thi đua, khen thưởng; chưa công bằng,
thiếu dân chủ, chưa chính xác, chưa đúng người đúng việc, chưa đảm bảo
thành tích đến đâu khen thưởng đến đó; bệnh thành tích, hình thức, bệnh vụ
lợi, tập trung khen lãnh đạo là chính, chưa quan tâm tới người lao động trực
tiếp và đặc biệt là chưa quan tâm đến công tác thanh tra, kiểm tra nhằm phát
hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật về TĐKT, phát hiện và
xử lý hành vi vi phạm pháp luật về TĐKT góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen
thưởng của Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương cho thấy, bên cạch các
văn bản quy định về thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng chưa đầy
đủ và đồng bộ, đội ngũ làm thanh tra công tác thi đua, khen thưởng hiện cịn
thiếu về số lượng, hạn chế về chun mơn, điều kiện đảm bảo hoạt động
thanh tra chưa tương xứng đã ảnh hưởng đến kết quả hoạt động thanh tra.
Xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra trong lĩnh
vực TĐKT thời gian tới, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài “Thanh tra trong
lĩnh vực thi đua, khen thưởng - từ thực tiễn Ban Thi đua - Khen thưởng
Trung ương”.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Liên quan đến vấn đề nghiên cứu trong Luận văn này, tại Việt Nam
hiện có khá nhiều cơng trình nghiên cứu như: Đề tài khoa học cấp Nhà nước
“Những vấn đề lý luận chung về thi đua, khen thưởng” của tác giả Nguyễn

Thế Thắng, năm 2012; Luận văn Thạc sĩ “Quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta hiện nay” của tác giả Phùng
Ngọc Tấn, năm 2015; Luận văn Thạc sĩ “Thanh tra thực hiện pháp luật ưu
3


đãi người có cơng với cách mạng ở nước ta hiện nay” của tác giả Lê Thị
Thảo, năm 2015; Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật về thi đua, khen thưởng - Từ
thực tiễn thành phố Hà Nội” của tác giả Lương Trường Giang, năm 2018;
Luận văn Thạc sĩ “Hoạt động thanh tra chuyên nghành của thanh tra Bộ Xây
dựng” của tác giả Hoàng Thị Hường, năm 2015; Luận văn Thạc sĩ “Tổ chức
và hoạt động thanh tra chuyên ngành tại Tổng cục đường bộ Việt Nam” của
tác giả Phan Thị Ninh, năm 2013; Luận văn Thạc sĩ “Thanh tra chuyên ngành
trong lĩnh vực Nội vụ ở tỉnh Nam Định của tác giả Nguyễn Thanh Thủy, năm
2017. Một số bài tham luận được đăng trên các Tạp chí Thanh tra, tạp chí Thi
đua - Khen thưởng, website của Ban Thi đua - Khen thưởng, được đọc trong
các Hội nghị tổng kết... và thể hiện ở các văn bản quy phạm pháp luật, các
văn bản dưới luật của các Bộ, Ngành liên quan.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu của các tác giả với các góc độ,
mục tiêu và phạm vi khác nhau đã đề cập đến công tác thanh tra của một số
ngành cụ thể hoặc một phần nội dung về mơ hình tổ chức và hoạt động của
các cơ quan thanh tra. Đây là các tư liệu quan trọng để tác giả tiếp tục kế thừa
nghiên cứu đề tài “Thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng - từ thực
tiễn Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương” góp phần đưa ra cách tiếp cận
mới; những luận cứ khoa học và cơ sở thực tiễn cho việc đổi mới tổ chức,
hoạt động thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng ở điều kiện nước ta
hiện nay nói chung, ở Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là làm rõ những vấn đề lý luận về thanh tra trong
lĩnh vực thi đua, khen thưởng; đánh giá thực trạng thanh tra trong lĩnh vực thi

đua, khen thưởng ở Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương; đề xuất, kiến
nghị nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra trong lĩnh vực thi đua,
khen thưởng ở nước ta hiện nay.
4


Để đạt được mục đích trên, Luận văn có các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về thanh tra nói chung và thanh tra
chuyên ngành trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng nói riêng; vị trí, vai trị của
hoạt động thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng; các yếu tố tác động
đến thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng.
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng tổ chức hoạt động thanh
tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng ở Ban Thi đua - Khen thưởng Trung
ương; chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân.
- Đưa ra các khuyến nghị khoa học nhằm góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả công tác thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng ở Ban Thi đua
- Khen thưởng Trung ương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận pháp lý
và thực tiễn về thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng ở Ban Thi đua Khen thưởng Trung ương.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Luận văn nghiên cứu về thanh tra trong lĩnh vực thi
đua, khen thưởng ở Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương.
+ Về thời gian: Luận văn nghiên cứu với các số liệu từ năm 2014 đến
năm 2018.
5. Phương pháp luận nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được dựa trên phương pháp luận duy vật
của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp
quyền, về cải cách nền hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,


5


thanh tra viên đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu phân tích, tổng hợp, lịch sử để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu
được đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Về lý luận, Luận văn góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận pháp
lý và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen
thưởng.
Về thực tiễn, Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
nhà nước có chức năng về thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng và
các cơ sở nghiên cứu, đào tạo.
Ngoài các ý nghĩa nêu trên, kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là
tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy liên quan đến công tác
thanh tra và công tác thi đua, khen thưởng.
7. Kết cấu của luận văn gồm:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo, luận văn
có 03 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thanh tra trong lĩnh vực thi đua,
khen thưởng
Chương 2: Thực trạng thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng
của Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm thanh tra trong lĩnh vực thi
đua, khen thưởng - từ thực tiễn Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương.

6



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THANH TRA
TRONG LĨNH VỰC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
1. 1. Khái niệm, đặc điểm, vài trò thanh tra trong lĩnh vực thi đua,
khen thưởng
1.1.1. Khái niệm thanh tra
Theo Từ điển tiếng Việt, thanh tra là: “kiểm soát xem xét tại chỗ việc
làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”[32,tr.312]. Với nghĩa này, thanh tra
bao hàm việc kiểm soát, xem xét và phát hiện ngăn chặn những gì trái với quy
định. Thanh tra là hoạt động của một chủ thể có thẩm quyền: Người làm
nhiệm vụ thanh tra, đoàn thanh tra và đặt trong phạm vi quyền hành của một
chủ thể nhất định.
Theo từng giai đoạn lịch sử, khái niệm về thanh tra cũng được nhận
thức khác nhau. Đó là sự phản ánh về mơ hình tổ chức các cơ quan nhà nước;
về sự kiểm soát đối với hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước:
Trong thời phong kiến Việt Nam, khái niệm thanh tra chưa được sử
dụng nhưng các triều đại Lý, Trần, Lê có cơ quan gọi là “Ngự sử đài” với
chức năng gần giống như cơ quan Thanh tra nhà nước hiện nay và có chức
“Quan ngự sử” đứng đầu Ngự sử đài. Ngự sử đài có chức năng giúp Vua
trong việc theo dõi, xem xét các công việc hệ trọng của triều đình.
Ngày 23/11/1945, sau ba tháng từ khi Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64-SL thành lập Ban
Thanh tra đặc biệt. Sắc lệnh nêu rõ: “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh
tra đặc biệt, có ủy nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên
của ủy ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”[22], từ đây thuật ngữ
“thanh tra” xuất hiện, quyền thanh tra được xác định và chính thức giao cho

7



Chính phủ.
Điều 1, Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 quy định: “Thanh tra là một
chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước, là phương thức đảm bảo
pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân
chủ xã hội chủ nghĩa”[19].
Luật Thanh tra năm 2010 khơng đưa ra khái niệm “thanh tra” nói
chung mà mà đưa ra khái niệm “thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân”
(trong phạm vi nội dung luận văn này chỉ đề cập đến khái niệm thanh tra nhà
nước). Theo đó, Thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền về việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm
pháp luật để xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử
lý, phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính sách pháp luật để kiến nghị việc
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Thanh tra là một chức năng không thể thiếu của
hoạt động quản lý, là một khâu của chu trìnhquản lý của Nhà nước. Thanh tra
nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành[44].
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật,
quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó.
1.1.2. Khái niệm thi đua, khen thưởng
1.1.2.1. Khái niệm thi đua
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Thi đua” được hiểu là: “Tác động kích thích
8



lẫn nhau trong quá trình cùng nhau hoạt động nhằm phát huy tài năng của
từng người và nhiều người để đạt được kết quả cao hơn” [32,tr.345].
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng năm
2013, khoản 1 Điều 3 quy định: “ Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham
gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"[43]. Khái niệm đã nêu được những dấu
hiệu đặc trưng của thi đua như là một hoạt động có tổ chức; là một hoạt động
dựa trên nguyên tắc tự nguyện; là hoạt động có mục tiêu, tính hướng đích rõ
rệt và có kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong các dấu hiệu này, dấu hiệu “hoạt
động có tổ chức” là dấu hiệu bản chất nhất, khác biệt nhất khi so với thi đua
có tổ chức và thi đua tự phát. Như vậy, theo khái niệm thì thi đua phải bao
gồm 3 thành tố là:
- Là hoạt động có tổ chức: Thi đua là hoạt động có tổ chức vì các
phong trào thi đua là do người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phát
động để thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương. Hoạt động có tổ
chức của thi đua được thể hiện từ khi lập kế hoạch, xác định mục tiêu, hình
thức, đối tượng, tổ chức phát động, ký giao ước thi đua, kiểm tra, sơ kết, tổng
kết phong trào thi đua, biểu dương, nhân rộng điển hình tiên tiến;
- Là hoạt động tự nguyện: Có tự nguyện thì mới khơi dậy được sự sáng
tạo của con người, người lao động. Mặt khác tự nguyện còn cho thấy mức độ
nhận thức và phát triển của thi đua trên cơ sở tự nguyện, tự giác của mỗi cá
nhân trong tổ chức;
- Là hoạt động có mục tiêu và hướng đích rõ rệt: Mục đích để xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc; thi đua sẽ giúp cho hiệu quả, chất lượng và năng suất lao
động, học tập và công tác không ngừng được nâng lên, từ đó thúc đẩy xã hội
phát triển về mọi mặt.

9



1.1.2.2. Khái niệm khen thưởng
Khen thưởng là một trong những công cụ quản lý quan trọng của Nhà
nước; là một lĩnh vực quan trọng trong quá trình thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị
của địa phương, cơ quan tổ chức và đơn vị; là biện pháp cơ bản để đánh giá
kết quả công việc, đánh giá những cố gắng, những thành tích q trình hoạt
động đóng góp của tập thể và cá nhân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khen là sự nhận xét đánh giá tốt về một con người nào đó; tổ chức nào
đó, về cái gì, việc gì đó với ý nghĩa hài lịng. Còn thưởng là tặng cho bằng
hiện vật hoặc tiền... Khen thưởng là hình thức ghi nhận cơng lao, thành tích
của Nhà nước bằng quyết định của cơ quan có thẩm quyền do luật định. Như
vậy, khen thưởng là một vấn đề thuộc phạm trù xã hội. Khen thưởng và trừng
phạt được hình thành phát sinh và tồn tại trong quá trình phát triển của con
người, là vấn đề thuộc tâm lý xã hội, sinh hoạt tinh thần của con người, do đó
khen thưởng phải thể hiện quan điểm quần chúng, phải có trách nhiệm cao
trong q trình phát hiện, xét khen thưởng. Khen thưởng tồn tại cùng với sự
tồn tại của Nhà nước. Còn Nhà nước là còn khen thưởng, khen thưởng vừa có
ý nghĩa động viên về tinh thần và khích lệ bằng vật chất.
Trên quan điểm đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi
đua, khen thưởng năm 2013 tại khoản 2 Điều 3 đã định nghĩa: “Khen thưởng
là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh cơng trạng và khuyến khích bằng lợi
ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”[43].
1.1.2.3. Khái niệm thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng
Thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng là hoạt động thanh tra
chuyên ngành, do Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương thực hiện theo

10



trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để kiểm tra, xem xét việc làm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình tổ chức và thực hiện pháp luật về thi
đua, khen thưởng, nhằm phát hiện những vấn đề khó khăn vướng mắc trong
tổ chức chỉ đạo, thực hiện công tác thi đua khen thưởng; kết luận đúng sai,
đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phịng ngừa, xử lý các vi
phạm; đề xuất những nội dung cần sửa đổi trong các quy chế, các chính sách,
các quy định pháp luật hiện hành cho phù hợp góp phần hồn thiện cơ chế
quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước,
các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
1.1.3. Đặc điểm thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng
1.1.3.1. Chủ thể của hoạt động thanh tra
Chủ thể tiến hành thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực thi đua, khen
thưởng là Thanh tra Bộ Nội vụ, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương và
Thanh tra Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Quy định tại
Điều 3 Nghị định số 90/2012/NĐ-CP ngày 05/11/2012 của Chính phủ quy
định về tổ chức và hoạt động thanh tra ngành Nội vụ)[16].
- Thanh tra Bộ Nội vụ là tổ chức thuộc Bộ Nội vụ, thực hiện chức năng
giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, tiếp cơng dân, phịng chống tham nhũng và phòng chống tội
phạm; tiến hành thanh tra hành chính đối với tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi
quản lý của Bộ Nội vụ; tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ
chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ; theo dõi, đôn
đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra
của Bộ Nội vụ và Thanh tra Bộ Nội vụ; giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp cơng
dân, phịng, chống tham nhũng và phòng, chống tội phạm theo quy định của
pháp luật. Thanh tra Bộ Nội vụ chịu sự chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng Bộ

11



Nội vụ và chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của
Thanh tra Chính phủ.
- Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương là cơ quan tương đương Tổng
cục trực thuộc Bộ Nội vụ, thực hiện chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ
Nội vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực thi đua, khen thưởng và được giao thực
hiện chức năng, nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành về lĩnh vực thi đua, khen
thưởng. (Theo quy định tại khoản 12 Điều 2 Quyết định số 29/2018/QĐ-TTg
ngày 16/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương trực
thuộc Bộ Nội vụ)[56].
- Thanh tra Sở Nội vụ là cơ quan thuộc Sở Nội vụ, giúp Giám đốc Sở
Nội vụ tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
1.1.3.2. Đối tượng thanh tra
Đối tượng thanh tra về thi đua, khen thưởng có phạm vi rộng, tức là
quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng đến đâu thì phạm vi thanh
tra đến đó.
Đối tượng thanh tra về thi đua, khen thưởng là các cơng dân, các cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế, đơn vị thuộc lực
lượng vũ trang nhân dân, người Việt Nam ở nước ngoài, người nước ngoài ở
Việt Nam, các tổ chức quốc tế hoạt động tại Việt Nam.... chịu sự điều chỉnh
của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
1.1.3.3. Hình thức thanh tra
Thanh tra theo kế hoạch: Hằng năm, theo kế hoạch đã được Bộ trưởng
Bộ Nội vụ, Giám đốc Sở Nội vụ phê duyệt, Trưởng ban, Ban Thi đua - Khen
12


thưởng Trung ương, Chánh thanh tra Sở Nội vụ ra quyết định thanh tra và

thành lập Đoàn thanh tra để thực hiện quyết định thanh tra.
Thanh tra đột xuất: Khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu
hiệu vi phạm pháp luật liên quan đến công tác thi đua, khen thưởng; theo yêu
cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, Trưởng
ban, Ban Thi đua- Khen thưởng Trung ương, Chánh Thanh tra Bộ Nội vụ,
Chánh Thanh tra Sở Nội vụ ra quyết định thanh tra đột xuất và báo cáo Bộ
trưởng, Giám đốc sở. Đối với vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm
quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị, nhiều cấp, nhiều ngành thì Bộ trưởng ra
quyết định thanh tra đột xuất.
1.1.4. Vai trò của thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng
Cơng tác thanh tra có vai trị rất quan trọng, nó là chức năng thiết yếu
của quản lý, là công cụ phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước. Hoạt động thanh tra nói chung, thanh tra lĩnh vực thi đua, khen thưởng
nói riêng luôn gắn liền với quản lý, là một nội dung của quản lý nhà nước.
Công tác thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về thi đua, khen
thưởng có vai trị sau:
Thanh tra giúp hồn thiện cơ chế, chính sách về kiểm sốt quyền lực
trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng:
Đây là một vai trò quan trọng của cơng tác thanh tra góp phần hồn
thiện cơ chế chính sách, kiểm sốt quyền lực nhà nước, đảm bảo quyền lực
nhà nước được sử dụng một cách đúng mục đích, có hiệu lực, hiệu quả. Cơng
tác thanh tra khơng chỉ giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận thức đúng
pháp luật, sửa chữa những sai sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cơng cụ
mà cũng thơng qua công tác thanh tra, người cán bộ thanh tra cung cấp thơng
tin phản hồi về những thuận lợi, khó khăn của các cơ quan, tổ chức trong việc

13


triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng, kiến nghị,

phản ánh tới người có trách nhiệm để có biện pháp tháo gỡ khó khăn, sửa đổi,
cơ chế chính sách góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng; đảm bảo phát huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức và công dân, từ đó thúc đẩy cơ chế kiểm sốt quyền lực
của cơng dân đối với các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính
nhà nước nói riêng.
Thanh tra đảm bảo việc thực thi chính sách pháp luật về thi đua, khen
thưởng một cách thống nhất, nhất quán:
Sau quy trình ban hành chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng là
việc tuyên truyền, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật. Thông qua công
tác thanh tra các cơ quan thanh tra giúp các chủ thể có trách nhiệm tổ chức
thực hiện pháp luật, nhận thức đúng chủ trương, chính sách, giúp cơ quan, tổ
chức, cá nhân nhận thức chưa đúng hoặc làm chưa đúng thì sửa chữa, khắc
phục để từ đó đảm bảo việc thực thi chính sách được thông suốt, đồng bộ,
thống nhất từ trên xuống, đảm bảo quyền, lợi ích của cơng dân, từ đó đảm bảo
ngun tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thanh tra bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, chỉ đạo điều hành và tổ chức
thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng:
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực Nội vụ trong đó có thi
đua, khen thưởng gồm nhiều cơ quan, được tổ chức theo thứ bậc nhất định từ
Chính phủ, Bộ Nội vụ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (Sở Nội vụ) đến Ủy ban
nhân dân cấp huyện (Phòng Nội vụ) và Ủy ban nhân dân cấp xã. Với bộ máy
các cơ quan nhà nước được tổ chức như trên, một trong những yêu cầu đảm
bảo nền hành chính mạnh đó là bộ máy hành chính phải thơng suốt, việc chỉ
đạo, điều hành được thực hiện nhanh chóng, hệ thống hành chính có kỷ luật,
cấp dưới tn thủ cấp trên, mệnh lệnh hành chính được ban hành cần phải
14


được tổ chức đồng bộ, cán bộ làm hết chức trách, nhiệm vụ được giao, tận tụy

với công việc. Với chức năng của mình, các cơ quan thanh tra về thi đua,
khen thưởng có nhiệm vụ kiểm tra tính thơng suốt, đồng bộ, kỷ luật của bộ
máy hành chính, phát huy nhân tố tích cực, khen thưởng cơ quan, đơn vị, cá
nhân thực hiện tốt, xem xét xử lý trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân
thực hiện không tốt chức năng, nhiệm vụ, từ đó giúp cho thủ trưởng cơ quan
quản lý nhà nước cùng cấp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước.
Thanh tra hạn chế lạm dụng quyền lực, phòng ngừa vi phạm pháp luật
về thi đua, khen thưởng của các chủ thể nhà nước và xã hội:
Để kiểm sốt tính hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước mà cụ thể
là thủ trưởng cơ quan hành chính kiểm sốt chính bộ máy hành chính dưới
quyền của mình, của cán bộ, cơng chức do mình quản lý là một yêu cầu quan
trọng để đảm bảo tính chính đáng của bộ máy hành chính nhà nước. Muốn
vậy, thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước ngồi việc thường xun kiểm
sốt các cơ quan thuộc quyền quản lý của mình, cán bộ, cơng chức do mình
quản lý, cịn phải có bộ phận, cơ quan chun trách thường xuyên kiểm tra,
đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ công vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc
quyền quản lý của mình để từ đó kịp thời phòng ngừa những vi vi phạm pháp
luật của cán bộ, công chức đồng thời cũng kịp thời uốn nắn những cơ quan, tổ
chức, cá nhân có hành vi vi phạm, cần thiết thì xử lý những vi phạm làm
gương cho những người khác không vi phạm, không lạm dụng quyền lực của
nhà nước vì mục đích riêng.
1.2. Nội dung, ngun tắc của hoạt động thanh tra trong lĩnh vực
thi đua, khen thưởng
1.2.1. Nội dung thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng
Căn cứ Luật thi đua, khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành,

15


cơ quan thanh tra tiến hành xem xét, đánh giá việc chấp hành các quy định

của pháp luật về thi đua, khen thưởng, gồm các nội dung sau:
- Lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện về thi đua, khen thưởng.
+ Ban hành các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy và văn bản quản lý,
hướng dẫn về thi đua, khen thưởng và triển khai, phổ biến xuống các cơ sở.
+ Thành lập và hoạt động của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các
cấp.
+ Quán triệt, tuyên truyền phổ biến, học tập và tổ chức thực hiện các
chủ trương chính sách về thi đua, khen thưởng; luật và các văn bản hướng dẫn
thi hành; các chỉ thị, nghị quyết về công tác thi đua, khen thưởng; các hoạt
động kiểm tra, giám sát về công tác thi đua, khen thưởng.
+ Tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác
thi đua, khen thưởng.
- Công tác thi đua.
+ Công tác chỉ đạo, tổ chức, thực hiện các phong trào thi đua; đăng ký
thi đua; phát động phong trào thi đua chuyên đề, đột xuất cho tập thể, cá nhân
trong địa bàn.
+ Công tác tuyên truyền; đôn đốc, kiểm tra, giám sát, đánh giá các phong
trào thi đua; việc tổ chức sơ kết và tổng kết các phong trào thi đua của địa
phương, cơ quan.
+ Quy trình bình xét các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng
(tiêu chuẩn, đối tượng, thủ tục).
+ Công tác phát hiện, bồi dưỡng, lựa chọn những tập thể, cá nhân tiêu
biểu xuất sắc, xây dựng, nhân rộng điển hình tiên tiến; những điển hình tiên
tiến, nhân tố mới, cách làm hay tiêu biểu, xuất sắc của địa phương, cơ quan,
đơn vị.
16


- Cơng tác khen thưởng.
+ Thực hiện các quy trình, thủ tục trong công tác khen thưởng.

+ Công tác thẩm định hồ sơ.
+ Công tác khen thưởng đối với các tập thể nhỏ, cá nhân trực tiếp lao
động sản xuất và cơng tác.
- Trích lập, sử dụng quỹ thi đua, khen thưởng.
+ Các nguồn kinh phí để hình thành quỹ thi đua, khen thưởng (ngân
sách cấp, ủng hộ của các tổ chức khác v.v...).
+ Việc trích lập, sử dụng và quản lý quỹ thi đua, khen thưởng.
- Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và kết quả giải quyết.
1.2.2. Nguyên tắc của hoạt động thanh tra trong lĩnh vực thi đua,
khen thưởng
Trong hoạt động thanh tra, các nguyên tắc được hiểu là những quy
định khách quan được ghi nhận trong Luật Thanh tra mà các cơ quan quản lý
nhà nước, cơ quan thanh tra, cán bộ, thanh tra viên và các chủ thể có liên
quan phải tuân theo trong quá trình thực hiện thanh tra, gồm: Tuân theo pháp
luật; bảo đảm chính xác, khách quan; cơng khai; dân chủ, kịp thời; không
trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra; không làm cản
trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh
tra.
Nguyên tắc tuân theo pháp luật: Là nguyên tắc chung được thể hiện
trong tất cả các giai đoạn của hoạt động thanh tra. Mục đích của nguyên tắc
này là nhằm đảm bảo tính pháp chế xuyên suốt trong hoạt động thanh tra.
Hoạt động thanh tra phải tuân thủ về trình tự, thủ tục; về thời hạn
thanh tra; tuân thủ việc sử dụng đúng quyền trong hoạt động thanh tra; về thời
hạn báo cáo kết quả thanh tra; về thời hạn ra kết luận thanh tra.
17


Nguyên tắc đảm bảo chính xác, khách quan:
Nguyên tắc bảo đảm chính xác: u cầu Đồn thanh tra hay thanh tra
viên ngay từ khi tiến hành khảo sát để thu thập thông tin, tài liệu để lập kế

hoạch thanh tra, cần chọn đúng đối tượng để khảo sát, đó là đơn vị có lưu giữ
những hồ sơ, tài liệu có liên quan tới nội dung của vấn đề cần thanh tra,
không lựa chọn đơn vị khảo sát một cách tuỳ tiện, thể hiện ý chí chủ quan của
người xây dựng kế hoạch; thời gian khảo sát và nơi tiến hành khảo sát cũng
cần cụ thể, rõ ràng, ngắn gọn đảm bảo vừa đủ để thu thập thông tin, tài liệu
cần cho việc lập kế hoạch. Trong giai đoạn tiến hành thanh tra, nguyên tắc
chính xác được thể hiện rõ nét nhất là trong việc áp dụng các văn bản pháp
luật vào việc nhận định, đánh giá thông tin, tài liệu thu thập được. Trong giai
đoạn kết thúc thanh tra, nguyên tắc này thể hiện ở việc Báo cáo, Dự thảo Kết
luận thanh tra đầy đủ và chính xác các nội dung: tài liệu, chứng cứ; kết quả
giám định, thẩm định, kiểm tra hiện trạng; các biện pháp xử lý, căn cứ pháp
luật áp dụng để kết luận, kiến nghị, ý kiến khác nhau của các thành viên Đoàn
thanh tra, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đã để xảy ra tham
nhũng trong Báo cáo (nếu có). Bảo đảm tính chính xác trong việc đánh giá
việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của đối tượng thanh tra; kết
luận về nội dung được thanh tra; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm,
nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm;
các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã áp dụng; kiến nghị các biện pháp xử
lý trong Dự thảo kết luận thanh tra.
Đây cũng là vấn đề có tính ngun tắc cao, nó đảm bảo phản ánh đúng
sự thật, khơng thiên lệch và bóp méo sự thật. Nếu như tính chính xác nhấn
mạnh đến khả năng, năng lực chun mơn của hoạt động thanh tra thì tính
khách quan, trung thực địi hỏi người làm cơng tác thanh tra phải có quan
điểm và thái độ đúng đắn.
18


Trước khi kết thúc thanh tra tại đơn vị, Trưởng Đồn thanh tra cần
đánh giá tình hình hết sức cơng tâm, rõ ràng về những vấn đề đã thanh tra và
những vấn đề chưa làm rõ để xác định thời điểm kết thúc thanh tra, hay cần

tiếp tục gia hạn thời gian thanh tra, cần tránh việc cố tình kéo dài cuộc thanh
tra vì sự chủ quan, duy ý chí. Sau khi kết thúc thanh tra, báo cáo thanh tra
phải nêu đầy đủ những tài liệu, những vấn đề, những thơng tin mà trong q
trình thanh tra Đồn thanh tra thu thập hay phát hiện (kể cả những vấn đề,
thông tin, tài liệu mang tính phản biện); khi báo cáo trực tiếp, các thành viên
Đoàn thanh tra cần báo cáo đầy đủ, rành mạch, chi tiết, cụ thể kể cả những
suy nghĩ của mình về những vấn đề phát hiện trong quá trình tiến hành thanh
tra với người ra quyết định thanh tra.
Nguyên tắc công khai: Yêu cầu khi tiến hành thanh tra, Đồn thanh tra
phải thơng báo đầy đủ nội dung thanh tra cho đối tượng thanh tra biết; công
khai trong việc thu thập hồ sơ, tài liệu (việc cung cấp thông tin, tài liệu được
thể hiện bằng văn bản của cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp hoặc Đoàn
thanh tra lập biên bản về việc cung cấp thông tin, tài liệu); công khai khi tiếp
xúc với đối tượng thanh tra và những người có liên quan ở nơi thanh tra. Khi
kết thúc thanh tra, Đoàn thanh tra thông báo kết thúc việc thanh tra tại nơi
được thanh tra với đối tượng thanh tra; công khai về những đánh giá, kết luận
của đoàn sau khi kết thúc thanh tra (thông qua làm việc trực tiếp với đối
tượng thanh tra) để đối tượng thanh tra có cơ hội giải trình, bổ sung thơng tin,
tài liệu, chứng cứ.
Ngun tắc dân chủ: Được thể hiện trong mối quan hệ giữa các thành
viên Đoàn thanh tra với nhau và giữa Đoàn thanh tra với đối tượng thanh tra
khi đưa ra kết luận thanh tra. Đó là việc các thành viên Đồn thanh tra thảo
luận, đưa ra ý kiến của mình về từng vấn đề cụ thể khi xây dựng báo cáo kết
quả thanh tra, dự thảo kết luận thanh tra; ý kiến khác nhau giữa thành viên
19


Đoàn thanh tra với Trưởng đoàn thanh tra về nội dung báo cáo kết quả thanh
tra. Với đối tượng thanh tra, họ có quyền đưa ra quan điểm của mình về
những đánh giá, kết luận của Đoàn thanh tra dựa trên những thông tin, tài

liệu, chứng cứ, quy định của pháp luật và những ý kiến của đối tượng thanh
tra phải được thảo luận, xem xét một cách khách quan, dân chủ.
Nguyên tắc kịp thời: Giúp hoạt động thanh tra hướng đến đúng nội
dung trọng tâm, điểm nóng cần thanh tra để kịp thời chấn chỉnh những sai sót
hoặc phịng ngừa những sai sót có thể xảy ra cũng như xử lý kịp thời những
hành vi vi phạm.
Nguyên tắc không trùng lặp: Nguyên tắc này chỉ liên quan đến người
ra quyết định thanh tra bởi việc xác định phạm vi, đối tượng, nội dung, thời
gian, thời hạn thanh tra thuộc thẩm quyền của người ra quyết định thanh tra
và là cơ sở để tiến hành hoạt động thanh tra.
Để không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá
nhân là đối tượng thanh tra thì Đồn thanh tra phải có kế hoạch rõ ràng, trao
đổi cụ thể với đối tượng thanh tra về nội dung, thời gian làm việc; kế hoạch
làm việc với những người có trách nhiệm phải giải trình với Đồn thanh tra;
có kế hoạch làm việc với những tổ chức, đơn vị có liên quan đến nội dung
thanh tra để tiến hành xác minh thông tin, tài liệu... để đối tượng thanh tra
chuẩn bị, sắp xếp chương trình làm việc với Đồn thanh tra trên ngun tắc
thảo luận bình đẳng để khơng làm cản trở đến hoạt động bình thường của đối
tượng thanh tra.
Nguyên tắc không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian
thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra là một yêu cầu đòi
hỏi từ thực tiễn, khi có nhiều hoạt động thanh tra bị trùng lắp về đối tượng,
thời gian gây lãng phí nguồn lực và ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả công
tác thanh tra.
20


Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra chi phối tồn bộ q trình
thực hiện hoạt động thanh tra, từ khi ra quyết định thanh tra, thực hiện thanh
tra và kết thúc hoạt động thanh tra. Các nguyên tắc được phản ánh vào các

quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra, về thẩm
quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động thanh tra như trưởng đoàn,
thanh tra viên, đối tượng thanh tra... Vai trò của từng nguyên tắc trong các
giai đoạn thực hiện hoạt động thanh tra là khác nhau. Có nguyên tắc xuyên
suốt quá trình thực hiện hoạt động thanh tra, có nguyên tắc chỉ chi phối một
giai đoạn nào đó của hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, chúng đều tác động vào
kết quả chung của hoạt động thanh tra.
1.3. Các yếu tố tác động đến thanh tra trong lĩnh vực thi đua, khen
thưởng
1.3.1. Yếu tố chính trị
Pháp luật về thi đua, khen thưởng là thể hiện ý trí của Đảng cầm quyền
và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Khen thưởng mang tính giai cấp,
phải phục vụ mục đích chính trị và thực hiện theo chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
Pháp luật về thanh tra lĩnh vực thi đua, khen thưởng phải thể chế quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác cán bộ, công tác kiểm tra,
thanh tra của Đảng; về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về
cải cách hành chính hướng tới phục vụ con người, nên pháp luật thanh tra
phải hợp lý, khơng gây khó khăn, phức tạp, phiền hà cho đối tượng thanh tra
và các chủ thể có liên quan.
Thông qua công tác thanh tra lĩnh vực thi đua, khen thưởng sẽ xây
dựng, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen
thưởng; các chính sách về thi đua, khen thưởng được thực hiện; việc tuyên

21


×