Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Đề tài Nghệ thuật chỉ đạo của đảng trong cách mạng tháng tám năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.64 KB, 28 trang )

Nghệ thuật chỉ đạo của Đảng trong cách mạng tháng Tám
năm 1945
MỤC LỤC
I.

II.

Một số khái niệm.
1. Nghệ thuật là gì?
2. Chỉ đạo là gì?
3. Nghệ thuật chỉ đạo là gì?
Nghệ thuật chỉ đạo trong quá trình chuẩn bị về mọi mặt, bài học
qua kinh nghiệm qua các lần tập dượt cho cách mạng từ 1930 –
1945.
1. Nghệ thuật chỉ đạo xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ
trang.

2. Nghệ thuật xây dựng căn cứ địa.
3. Bài học kinh nghiệm qua những lần tập dượt: 1930-1931, 19361939, 1939-1945.
4. Đoàn kết toàn dân, chiến tranh nhân dân, khởi nghĩa toàn dân,
toàn Đảng.
III.

Nghệ thuật xác định đúng thời cơ, chớp thời cơ và tận dụng thời cơ
ngàn năm có một để phát động khởi nghĩa giành chính quyền mau
lẹ, ít đổ máu.

IV.

Nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa từng phần và tiến lên tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945.



V.

Kết Luận.


Lời mở đầu
Cách mạng Tháng Tám diễn ra trong khoảng 15 ngày, nhân dân ta đã
giành được chính quyền trên cả nước mà hầu như không bị tổn thất đáng
kể nào. Nếu chỉ nhìn một cách đơn giản, phiến diện để đánh giá thì sẽ
khơng thể thấy hết tầm vóc của sự kiện này, cũng như tài thao lược của
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thành cơng của Cách mạng Tháng Tám thực chất là kết quả của
nhiều yếu tố hợp thành; đặc biệt là của quá trình xây dựng thực lực cách
mạng, chuẩn bị về mọi mặt trong suốt 15 năm kể từ khi Đảng ta ra đời
năm 1930. Cùng với đường lối cách mạng dân tộc dân chủ đúng đắn,
sáng tạo, đặc biệt là nghệ thuật chỉ đạo chiến lược tài tình, sắc sảo của
Đảng và Hồ Chí Minh.
Nắm và chọn đúng thời cơ phát lệnh tồn dân Tổng khởi nghĩa
là một trong những đỉnh cao của nghệ thuật chỉ đạo cách mạng của Đảng
ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nghệ thuật ấy khơng chỉ góp phần
làm nên thắng lợi vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mà cịn
có ý nghĩa to lớn trong suốt quá trình kháng chiến chống xâm lược giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như quá trình xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc hiện nay.


Phần nội dung
I. Một số khái niệm cơ bản.
1. Nghệ thuật là gì?

Nghệ thuật là sự sáng tạo, là nơi cao nhất tập trung mối quan hệ thẩm
mĩ của con người đối với hiện thực. Nói đến nghệ thuật là nói đến cái
đẹp, sự sáng tạo.
2. Chỉ đạo là gì?
Chỉ đạo là hướng dẫn cụ thể theo một đường lối, chủ trương nhất
định.
3. Nghệ thuật chỉ đạo là gì?
Nghệ thuật chỉ đạo là nói đến sự sáng tạo, đúng đắn trong đường lối,
chủ trương nhất định.
II. Nghệ thuật chỉ đạo trong quá trình chuẩn bị về mọi mặt, bài học
qua kinh nghiệm qua các lần tập dượt cho cách mạng từ 1930 – 1945.
1. Nghệ thuật chỉ đạo xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng
vũ trang.
Hội nghị Trung ương 8 đề ra sự chuyển hướng về chỉ đạo chiến
lược, hình thức đấu tranh cách mạng và chuẩn bị khởi nghĩa, khẳng định:
“Khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi
mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”( 1 - ĐCSVN - Văn kiện
Đảng Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2000, tr.132).
Lực lượng vũ trang khởi nghĩa
Tháng 5 năm 1941, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
(T.Ư) Đảng họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh xác định: “Cuộc
cách mạng Đơng Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang...”.
Do vậy, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh, xây
dựng lực lượng vũ trang, đổi tên các tổ chức trong Mặt trận thành Hội Cứu
quốc, trong đó có Đội tự vệ Cứu quốc. Hội nghị T.Ư 8 đã quán triệt tư tưởng


quân sự của Hồ Chí Minh, xúc tiến mạnh mẽ công tác chuẩn bị khởi nghĩa
vũ trang, cũng là mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển, hoàn thiện những
quan điểm của Đảng về vũ trang khởi nghĩa ở Việt Nam.

Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, coi sự nghiệp cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh cho
rằng, bạo lực cách mạng cũng là bạo lực của quần chúng nên đã chỉ đạo xây
dựng chỗ dựa của bạo lực cách mạng gồm cả dân tộc được tổ chức thành hai
lực lượng cơ bản, lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân
dân.
Theo tinh thần trên, trong những năm 1941-1944, các đội du kích, tự
vệ được xây dựng ở nhiều xã, nhiều huyện thuộc tỉnh Cao Bằng. Đội du
kích Bắc Sơn (thành lập từ khởi nghĩa Bắc Sơn) được củng cố và phát
triển thành các trung đội Cứu quốc quân. Ban Thường vụ T.Ư Đảng trực tiếp
chỉ đạo việc duy trì và phát triển lực lượng, đồng thời cử một số cán bộ tăng
cường cho Đội du kích Bắc Sơn.
Cứu quốc quân
Sau Hội nghị T.Ư 8, các đồng chí Trường Chinh, Hồng Văn Thụ,
Hồng Quốc Việt và một số cán bộ tăng cường cho Bắc Sơn về qua khu căn
cứ Bắc Sơn, Lạng Sơn. Tổng Bí thư Trường Chinh thay mặt T.Ư Đảng phổ
biến Nghị quyết Hội nghị T.Ư 8 cho cán bộ, chiến sĩ du kích Bắc Sơn và
quyết định đổi tên Đội du kích Bắc Sơn thành Đội Cứu quốc quân Bắc
Sơn cho phù hợp với nhiệm vụ cứu nước.
Đây là Trung đội Cứu quốc quân I, được thành lập ngày
14/2/1941 ở Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn, do đồng
chí Phùng Chí Kiên, Ủy viên T.Ư Đảng làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Lương
Văn Chi làm Chính trị viên.
Ngày 15/9/1941 ở khu rừng Khuôn Mánh, thôn Ngọc Mỹ, xã
Tràng Xá (Vũ Nhai, Thái Nguyên), Trung đội Cứu quốc quân II gồm 47
người, trong đó có 3 nữ, chia thành 5 tiểu đội, có Chi bộ Đảng lãnh đạo do
đồng chí Chu Văn Tấn, Xứ ủy viên làm Bí thư Chi bộ và trực tiếp chỉ huy;
đồng chí Nguyễn Cao Đàm làm Chính trị viên. Cuối tháng 10/1941, Trung
đội Cứu quốc quân II phát triển lên 70 người, do đồng chí Đào Văn Trường,
Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ làm Bí thư kiêm Chỉ huy trưởng.



Trung đội Cứu quốc quân III được thành lập chiều ngày
25/2/1944 ở Khuổi Kịch, xóm nhỏ của đồng bào Dao phía bắc thơn Tân Lập,
xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Trung đội gồm 30 đội
viên. Đồng chí Triệu Khánh Phương làm Trung đội trưởng, đồng chí Phương
Cương làm Chính trị viên.
Như vậy, trên cơ sở Đội du kích Bắc Sơn, Đảng ta và lãnh tụ Hồ
chí Minh đã quyết định phát triển thành các trung đội Cứu quốc quân I,
II, III.
Ngày 22/12/1944, theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, thay mặt
“Đồn thể”, đồng chí Võ Nguyên Giáp tuyên bố thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân. Và ngay sau đó đội quân ấy đã liên tiếp
đánh thắng hai trận Nà Ngần và Phay Khắt, viết nên những trang sử đầu tiên
của đội quân nhân dân Việt Nam.
Sự sáng suốt, tài tình của Đảng và Hồ Chủ tịch đã giải quyết hài hòa
giữa xây dựng LLVT cách mạng làm nòng cốt và việc vũ trang cho nhân
dân. Xây dựng LLVT với mục tiêu hàng đầu là vận động quần chúng nhân
dân tự vũ trang để tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Khi nhân dân
được vũ trang rộng rãi thì hình thành nên LLVT ngày càng hùng mạnh để
thúc đẩy cho sự nghiệp vũ trang toàn dân, toàn diện và mạnh mẽ hơn. Chính
vì vậy, tính tồn dân, tồn diện của các LLVT cách mạng không ngừng phát
triển, trở thành sức mạnh vô địch. Chỉ với 5000 đảng viên, Đảng ta đã lãnh
đạo nhân dân tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa Tháng 8-1945, lật nhào sự áp
bức, bóc lột của chế độ thực dân đế quốc và phong kiến, là nhờ vào sức
mạnh vô địch của LLVT cách mạng và sự vũ trang tồn dân đã được dày
cơng chuẩn bị. Đó là bài học vô cùng quý giá mà mỗi người Việt Nam hôm
nay và các thế hệ mai sau cần nắm vững và phát huy lên tầm cao mới.

Bên cạnh việc xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng ta còn chú trọng xây

dựng lực lượng chính trị:
Ngay từ những năm 1930-1935 Đảng ta đã xác định mối liên minh
công-nông, đến giai doạn 1936-1939 Đảng ta đã xây dựng Mặt trận thống
nhất nhân dân Phản đế Đông Dương đến tháng 3/1938 đổi thành mặt trận
dân chủ Đông Dương nhắm tập hợp mọi lực lượng yêu nước.


Qua đó Đảng ta đã xây dựng được đội quân chính trị hùng hậu bao
gồm hàng triệu người. Mặt trận đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống
phát xít và phản động thuộc địa Pháp đồi tự do dan chủ và cơm áo hịa bình.
Sang đến giai doạn 1939-1945 Đảng ta đã xác định được lực lượng
chính trị và đấu tranh chính trị là bộ phận hợp thành bạo lực cách mạng của
Đảng có vai trị quyết định trong việc tổng khởi nghĩa tháng 8. Đảng ta đã
quyết định thành lập mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương
(11/1939) nhắm tập hợp tất cả các tầng lớp giai cấp các dân tộc tơn giáo
chống phá xít làm cho Đơng Dương hồn tồn độc lập.
Trước tình hình thế giới và trong nước có chuyển biến mau lẹ ngày
28/1/1941 Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh chỉ đạo cách mạng.
Người đã chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh với các hội cứu quốc
quân nhắm tập hợp hết các lực lượng yêu nước. Đảng đã xây dựng được
khối đoàn kết tồn dân trên cơ sở liên minh cơng-nơng. Thơng qua tổng bộ
Việt Minh Đảng đã chủ trương phổ biến chính sách của Đảng đến quần
chúng. Từ đó quần chúng được giáp ngộ trở thành lực lượng hùng hậu trong
cách mạng tháng 8.

Đồng chí Võ Nguyên Giáp tuyên bố thành lập
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân


2. Nghệ thuật xây dựng căn cứ địa.

Ngày 28/1/1941, tại cột mốc 108 đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã trở về
tổ quốc sau 30 năm bn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người
đã chọn Pác Bó (Cao Bằng) là nơi dừng chân đầu tiên sau khi trở về lãnh
đạo, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam.
Trước hết, Cao Bằng là tỉnh giáp với biên giới Trung Quốc, gần thành
phố Long Châu, một trong những trung tâm cách mạng của người Việt ở
Trung Quốc lúc bấy giờ. Phía Nam của tỉnh Cao Bằng giáp với Lạng Sơn và
Bắc Cạn, phía Tây giáp với Hà Giang và Tuyên Quang. Từ vị trí đó, Cao
Bằng có thể “Nam tiến” phát triển về phía Lạng Sơn và Bắc Cạn, có thể
“Tây tiến” xuống Hà Giang và Tuyên Quang. Theo quốc lộ 3 từ Hà Nội qua
Thái Nguyên, Bắc Cạn, lên Cao Bằng (315 km). “Từ trung tâm tỉnh lỵ Cao
Bằng có đường ơ tơ tỏa đi các huyện. Những huyện tiếp giáp biên giới như
Trà Lĩnh, Phục Hòa, Trùng Khánh, Hà Quảng, Bảo Lạc… với đường biên
giới dài trên 300km, có tới hàng chục cửa khẩu và hàng trăm lối mòn sang
Trung Quốc, tiện lợi cho việc liên lạc quốc tế. Trong đó, đường Quảng Uyên
ra Thủy Khẩu, Long Châu (Trung Quốc) trở thành con đường trọng yếu của
nhân dân 2 nước vùng biên, của các chiến sĩ cách mạng đầu thế kỷ XX và
phong trào giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam”. Cao Bằng cịn có quốc lộ sang Lạng Sơn, xuống Thái Nguyên rồi tỏa
xuống đồng bằng Bắc Bộ, tiện lợi cho việc liên kết với các phong trào cách
mạng của cả nước.
Bên cạnh đó, Cao Bằng có địa hình hiểm trở, rừng núi chiếm trên 90%
diện tích, có nhiều núi cao, nhiều sông suối, lắm thác ghềnh như: sông Bằng,
sông Hiến, Sông Gâm, sông Bắc Vọng… Trên mảnh đất đầy núi non, rừng
rậm, sơng suối đó có những vùng thuận lợi cho các đội du kích, các cơ sở
cách mạng hoạt động như Pác Bó (Hà Quảng), Lam Sơn (Hịa An)… Hệ
thống giao thông thủy bộ của Cao Bằng giữ vị trí quan trọng có tầm chiến
lược ở Việt Bắc khơng chỉ trên lĩnh vực kinh tế, xã hội mà cả về chính trị,
qn sự.Do q trình kiến tạo địa chất, cùng với sự tác động của khí hậu,
sơng ngịi ngang, dọc làm cho địa hình Cao Bằng trở thành mn hình,

mn vẻ. Giữa các ngọn núi và khe sâu, thung lũng lịng chảo rộng, hẹp
khác nhau, hết sức kín đáo, vừa thuận lợi cho chăn nuôi, sản xuất, đời sống,
vừa có tác dụng che dấu, bảo vệ lực lượng. “Khi có giặc giã thì hang động,
mái đá ngườm kín đáo là nơi tốt nhất để đồng bào các dân tộc ẩn náu và cất
giấu lương thực, thực phẩm, gia súc. Các làng bản miền núi thường có hang
sâu hay lân, lũng làm “hậu cứ”. Có hang bí mật chỉ có một gia đình biết như


hang Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng), là nơi cất giấu thóc gạo của ơng Máy
Lì ở Sum Đắc, gần cột mốc biên giới. Địa hình hiểm trở của núi, sông, các
thung lũng, hang động, mái đá ngườm… được nhân dân ta phát huy tác dụng
mạnh mẽ trong cách mạng giải phóng dân tộc và trong kháng chiến. Đó là
rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.Trung ương Đảng và Nguyễn Ái Quốc
chọn Cao Bằng làm nơi xây dựng căn cứ địa là một chủ trương hết sức đúng
đắn. Bởi lẽ, Cao Bằng có đầy đủ các điều kiện cần thiết về địa thế, con
người để xây dựng căn cứ địa, trong đó yếu tố con người là quyết định nhất.
Đầu năm 1940, với địa hình đồi núi hiểm trở Bắc Sơn-Võ Nhai trở
thành căn cứ địa cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp của các
cán bộ cao cấp Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc kỳ, như các đồng chí:
Trường Chinh, Võ Ngun Giáp, Hồng Quốc Việt, Hoàng Văn Thụ, Trần
Đăng Ninh, Lương Văn Tri, Lê Xuân Thụ… Sau khi dự Hội nghị Trung
ương lần thứ 8 (tháng 5/1941) của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì
tại Pắc Pó (Cao Bằng), các đồng chí cán bộ Trung ương Đảng đã về Bắc
Sơn và ở lại đây 42 ngày để trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng ở Bắc
Sơn (Lạng Sơn) – Võ Nhai (Thái Nguyên).
Trong suốt thời gian các đồng chí cán bộ Trung ương Đảng và Xứ ủy
Bắc Kỳ hoạt động cách mạng ở Bắc Sơn đã được nhân dân che chở, nuôi
giấu, bảo vệ tuyệt đối an toàn và tạo mọi điều kiện để các đồng chí cơng tác.
Nhiều người đã khơng quản ngại hi sinh, vất vả sẵn sàng giúp đỡ về mọi
mặt, giữ bí mật tuyệt đối cho cán bộ cách mạng, khơng có đồng chí nào bị

bắt hay giết hại trong thời gian hoạt động tại đây. Lúc đầu những năm 19401941, Đảng mới có chủ trương xây dựng hai trung tâm căn cứ Băc Sơn- Võ
Nhai và Cao Bằng. Các trung tâm này được xây dựng ở những nơi có cơ sở
Đảng, cơ sở quần chúng của Đảng và phong trào cách mạng tương đối mạnh
hơn ở nơi khác. Tới năm 1943, xây dựng thêm một trung tâm căn cứ địa nữa
là Đại Từ- Định Hóa- Sơn Dương- Yên Sơn. Các trung tâm căn cứ địa dần
dần được mở rộng và nối liền nhau, thành căn cứ địa cách mạng rộng lớn
bao gồm 6 tỉnh Cao-Bắc-Lạng,Hà-Tuyên-Thái và một số vùng thuôc địa
phận các tỉnh lân cận. Lúc bắt đầu xây dựng, các trung tâm căn cứ địa mới
có cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng cách mạng và một lực lượng nhỏ tự vệ, du
kích trang bị vũ khí thơ sơ và chưa có chính quyền cách mạng. Dựa trên sự
giác ngộ, sự phát triển của các cơ sở quần chúng cách mạng, phong trào cách
mạng ngày càng lan rộng và mạnh, lực lượng vũ trang cách mạng thốt ly
cũng khơng ngừng lớn mạnh. Trước cao trào kháng Nhật cứu nước, ở trong
căn cứ địa Việt Bắc mới có tổ chức Đảng, mặt trận Việt Minh và một số đơn


vị vũ trang thoát ly. Trong cao trào, nhiều cuộc khởi nghĩa từng phần nổ ra,
chính quyền cách mạng các địa phương ra đời từ xã, huyện cho đến tỉnh.
Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập (4/6/1945)
Trên cơ sở những căn cứ địa cách mạng đã lần lượt thành lập ở Việt Bắc và
căn cứ vào những báo cáo nghị quyết của Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ
(15/4/1945) , Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị “Nay vùng giải phóng ở miền ngược
đã bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà
Giang, Thái Nguyên, đại thể nối liền nhau, nên thành lập một căn cứ lấy tên
là Khu giải phóng”. 4/6/1945 Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập,
lấy Tuyên Quang làm trung tâm, làm nơi An toàn khu Trung ương, nơi đặt
các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến.
Trong khu giải phóng các ủy ban do dân cử được hình thành, tổ chức
thực hiện 10 chính sách lớn của Việt Minh. Với 1 triệu người gồm nhiều dân
tộc khác nhau, khu giải phóng đã thực sự là “hình ảnh nước Việt Nam mới”,

cùng với hệ thống các chiến khu trong cả nước tạo thành hậu phương và bàn
đạp cho thế trận Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945. Khu giải
phóng được xây dựng trên một vùng rộng lớn, địa hình chủ yếu là núi rừng.
Phía Bắc giáp Trung Quốc. Vùng biên giới Việt - Trung là nơi cách mạng
hoạt động rất thuận lợi và qua đây có thể liên lạc với phong trào Cộng sản
quốc tế. Phía Nam là vùng trung du, đồng bằng. Do đó, gặp thời cơ thuận
lợi, lực lượng vũ trang cách mạng có thể tiến nhanh phát huy thắng lợi và
nếu gặp khó khăn có thể lui về để bảo tồn lực lượng. Theo các triền núi
phía Đơng, Khu giải phóng có thể liên lạc với biển và Hải Phịng. Theo các
triền núi phía Tây, có thể liên lạc với khu Tây Bắc và các tỉnh miền núi
Trung bộ. Tóm lại, Khu giải phóng có vị trí rất cơ động, “tiến có thể đánh”,
“lui có thể giữ”.
Trong khi đó, nhân dân các dân tộc Việt Bắc có truyền thống lâu đời
và rất vẻ vang, cùng đoàn kết chặt chẽ bên nhau để đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Nhân dân các dân tộc Việt Bắc cũng như nhân dân cả nước khát
khao độc lập tự do, khát khao một cuộc sống hạnh phúc. Cho nên, khi Đảng
ra đời và lãnh đạo cách mạng thì nhân dân các dân tộc Việt Bắc nhanh chóng
tiếp thu đường lối cách mạng của Đảng, kiên quyết đi theo con đường cách
mạng mà Đảng đã vạch ra. Do vậy, Khu giải phóng được nằm trong sự bảo
bọc, che chở của nhân dân. Đây là một trong những yếu tố quyết định đảm
bảo cho Khu giải phóng được an tồn trong suốt thời kỳ lãnh đạo nhân dân
cả nước tiến hành Tổng khởi nghĩa.


Trong suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, quân địch
liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân lớn vào chiến khu Việt Bắc. Với quyết
tâm và trọng trách được giao, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã
chung sức, chung lòng cùng các đơn vị bộ đội chủ lực làm tròn trách nhiệm
nặng nề trước lịch sử và dân tộc là bảo vệ an toàn lãnh tụ và các cơ quan đầu
não của ta. Vừa phá tan các cuộc tiến công truy quét với quy mô lớn của kẻ

thù, các địa phương trong tỉnh còn thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng hậu
phương vững chắc phục vụ kháng chiến.

3. Bài học kinh nghiệm qua những lần tập dượt: 1930-1931, 1936-1939,
1939-1945.
a. Giai đoạn 1930 – 1931.
Phong trào cách mạng 1930 – 1931 đã để lại cho Đảng ta nhiều bài
học kinh nghiệm quý báu:
- Bước đầu về phương pháp dành chính quyền và bảo vệ chính quyền
bằng bạo lực cách mạng của quần chúng.
- Phong trào cách mạng 1930-1931 đã để lại cho đảng ta những kinh
nghiệm bước đầu về kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược: chống đế quốc và
chống phong kiến.
- Bài học về vai trò lãnh đạo của Đảng; phong trào khẳng định trên
thực tế vai trò lãnh đạo của Đảng. Qua phong trào này, uy tín của Đảng được
xác lập trong quần chúng nhân dân. Phong trào chứng tỏ đường lối cách
mạng của Đảng là đúng đắn, đáp ứng được nguyện vọng cơ bản của quần
chúng nhân dân đó là “Độc lập dân tộc” và “Ruộng đát dân cày”.
Trong cao trào cách mạng 1930 – 1931 : từ tháng 2 đến 4/1930 được
coi là khởi động cho cao trào cách mạng, mở đầu là cuộc bãi công của 3000
công nhân đồn điền cao su Phú Riềng đòi tăng lương giảm giờ làm, chống tư
bản 2/1930, tiếp đó là bãi cơng của 4000 cơng nhân nhà máy diêm – cưa Bến
Thủy, 4000 công nhân nhà máy dệt và sợi Nam Định.
Từ tháng 6 đến tháng 8/1930, cả nước có 121 cuộc đấu tranh. Trên
khắp cả 3 kì từ nơng thơn đến thành thị đều diễn ra các cuộc đấu tranh của
quần chúng dưới nhiều hình thức : bãi cơng, mít tinh, biểu tình, tuần hành
của quần chúng với truyền đơn biểu ngữ và có cờ Đảng dẫn đường. Tháng 9
và 10/1930, cả nước có 362 cuộc đấu tranh (Bắc Kì : 29, Nam Kì : 17, Trung
Kì : 316). Từ tháng 9, phong trào đã dấy lên đỉnh cao ở Nghệ Tĩnh, thu hút



hàng chục vạn người tham gia đấu tranh, tiến tới đấu tranh vũ trang và khởi
nghĩa vũ trang cướp chính quyền, thành lập chính quyền Xơ Viết Nghệ Tĩnh.
Tại Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương 10/1930, bên cạnh việc
thơng qua Luận cương chính trị của đồng chí Trần Phú, bầu Ban chấp hành
Trung ương Đảng chính thức, Hội nghị tập trung phân tích về tình hình cách
mạng đang diễn ra. Sau Hội nghị, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã tập
trung lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước, có những đường lối chỉ đạo
cụ thể cho tình hình ở Nghệ Tĩnh trong việc xây dựng và gìn giữ chính
quyền, chống lại sự khủng bố, đà áp của kẻ thù.
- Bài học về công tác tư tưởng, về xây dựng khối liên minh côngnông:
Giai đoạn 1930 – 1931, lực lượng cách mạng chủ yếu là liên minh giai
cấp cơng nhân – nơng dân, trong đó giai cấp cơng nhân nắm vai trị lãnh đạo.
Trong giai đoạn này, chúng ta đã đánh giá không đúng khả năng cách mạng
của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc và phong kiến ở mức độ
nhất định của bộ phận tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo một bộ phận trung,
tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc và tay sai.
Đây là một sai lầm Đảng khi chưa thấy được khả năng cách mạng của các
tầng lớp nhân dân khác để cơ lập và phân hóa kẻ thù, khơng tập hợp được
đơng đảo lực lượng cách mạng. Cũng chính vì điều này nên trong những
năm 1930 - 1931, chúng ta không có mặt trận để tập hợp rộng rãi lực lượng
dưới ngọn cờ cách mạng.
- Hình thức đấu tranh:
Giai đoạn 1930 – 1931, phong trào công nông phát triển tới đỉnh cao.
Các cuộc đấu tranh, biểu tình địi cải thiện quyền lợi của công nhân, nông
dân diễn ra liên tiếp. Từ các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi về kinh tế, đã
chuyển sang kết hợp khẩu hiệu đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị, hình
thức đấu tranh quyết liệt hơn, tự vệ vũ trang, biểu tình thị uy, khởi nghĩa vũ
trang để tiến cơng vào cách cơ quan chính quyền của địch ở nhiều địa
phương, trên cơ sở đó, chính quyền Xơ Viết được thiết lập. Như vậy, hình

thức đấu tranh của giai đoạn này chủ yếu là bãi cơng, biểu tình, và xuất hiện
biểu tình có vũ trang, phương pháp đấu tranh là bí mật, bất hợp pháp.
- Bài học về xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, về tổ chức và lãnh
đạo quần chúng đấu tranh.


- Tuy nhiên do nhấn mạnh một chiều về vấn đề giai cấp mà chưa quan
tâm thích đáng đến vấn đề dân tộc nên trong cao trào 1930-1931, vấn đề
sách lựơc và phương pháp cách mạng chừng nào đó cịn thiếu linh hoạt,
mềm dẻo do đó mặt trận phản đế chưa được phát triển rộng rãi.
Chính vì vậy phong trào cách mạng 1930-1931 được đánh giá như cuộc
tập dượt đầu tiên của Đảng và quần chúng cho Tổng khởi nghĩa tháng
Tám sau này.
b. Giai đoạn 1932-1935.
Đề lại nhiều bài học quý báo về đấu tranh chống mị dân.
c. Giai đoạn 1936-1939.
- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục
tiêu trước mắt, xác định đúng kẻ thù, nhiệm vụ cụ thể và khẩu hiệu sát hợp
để động viên quần chúng lên trận tuyến cách mạng.
-Vai trò lãnh đạo của đảng:
Mở đầu giai đoạn này là phong trào “Đông Dương đại hội”. Hàng
trăm ủy ban hành động đã được thành lập khắp các tỉnh thành từ Bắc vào
Nam để phân phát truyền đơn, ra báo chí, tổ chức mít tinh, hội họp quần
chúng, thảo luận các vấn đề về dân sinh, dân chủ, tập hợp ý kiến, nguyện
vọng của quần chúng nhân dân, thảo ra bản “dân nguyện” gửi tới phái đoàn
của Quốc hội Pháp sang điều tra tình hình Đơng Dương.
Trong giai đoạn 1936 – 1939, mỗi năm có hàng trăm cuộc đấu tranh
của cơng nhân, nông dân ở nhiều nơi trên khắp cả nước. Đặc biệt là cuộc đấu
tranh ngày 1/5/1938, lần đầu tiên trong ngày Quốc tế lao động, nhiều cuộc
mít tinh đã được tổ chức cơng khai ở Hà Nội, Hải Phịng, Sài Gòn và nhiều

nơi khác với hàng vạn quần chúng tham gia, nhân dân ta đã thể hiện sự
hưởng ứng với phong trào đấu tranh của công nhân thế giới trong ngày Quốc
tế lao động.
Công tác quần chúng được Đảng chú trọng. Đảng đã thành lập Cơng
hội, Đồn thanh niên phản đế, Hội cứu tế bình dân… ở nơng thơn, lập Hội
cấy, Hội cày, Hội hiếu hỉ… Những hình thức tổ chức linh hoạt, hoạt động
công khai, nửa công khai, đã tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân tham
gia.
Căn cứ vào tình hình thế giới nói chung, tình hình nước Pháp nói
riêng và thực tiễn cách mạng trong nước, Đảng đã hoàn thiện đường lối đấu
tranh và lãnh đạo cách mạng theo xu hướng dân chủ trong giai đoạn 1936 –
1939. Đảng phát động phong trào “Đông Dương đại hội”. Đảng tổ chức lãnh


đạo hàng trăm cuộc bãi công trong giai đoạn này. Đảng tham gia đấu tranh
công khai trên nghị trường, đưa các ứng viên của Đảng và vận động những
người tiến bộ trong hàng ngũ trí thức ra ứng cử vào các cơ quan dân cử. Mục
đích của Đảng nhằm mở rộng lực lượng của Mặt trận Dân chủ và vạch trần
chính sách phản động của bọn thực dân và tay sai, bênh vực quyền lợi của
nhân dân lao động. Đảng cịn triệt để sử dụng báo chí cơng khai, lập ra nhiều
tờ báo làm vũ khí đấu tranh cách mạng, giác ngộ nhân dân về con đường
cách mạng của Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, có thể nói chưa bao giờ ở Việt Nam lại có
một phong trào rộng lớn với sức mạnh to lớn của quần chúng như trong giai
đoạn 1936 - 1939. Điều này đã khắc phục được nhược điểm của phong trào
công nông 1930 - 1931 trước đây.
Trong q trình đấu tranh, Đảng Cộng sản Đơng Dương tích lũy được nhiều
bài học kinh nghiệm:
-Hình thức đấu tranh:
+ Biểu tình, mít tinh, bãi cơng địi quyền lợi, hội họp bàn bạc các vấn đề dân

sinh dân chủ, đấu tranh kinh tế, chính trị. Phong trào “Đơng Dương đại hội”.
+ Chủ yếu là đấu tranh chính trị, khơng có đấu tranh vũ trang. Từ năm 1930
đến 1945, đây là giai đoạn duy nhất hồn tồn đấu tranh bằng chính trị,
khơng có đấu tranh vũ trang. Đó cũng là một nét độc đáo của phong trào dân
chủ 1936 - 1939. Sở dĩ chúng ta có thể làm được điều đó vì đã có sự chỉ đạo
chung của Quốc tế cộng sản.
+ Hình thức đấu tranh nghị trường là một lĩnh vực đấu tranh mới mẻ của
Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng đưa các ứng viên của Đảng ra ứng cử
vào các cơ quan dân cử để đấu tranh mở rộng quyền tự do dân chủ cho nhân
dân, cải thiện các điều kiện kinh tế xã hội.Trong các cuộc bầu cử vào nghị
viện và các tổ chức khác, người của mặt trận dân chủ đều giành được thắng
lợi lớn.
+ Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí là được Đảng ta sử dụng triệt để như một
vũ khí lợi hại. Các tờ báo tiến bộ bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp được xuất
bản rộng rãi ở cả ba miền như báo Thời báo, Tân xã hội, Tiến lên, Lao động,
Nhân dân, Tiền phong… Báo chí cách mạng trở thành mũi xung kích trong
những phong trào lớn và hoạt động của cuộc vận động dân chủ, dân sinh
thời kì 1936 – 1939 như Đơng Dương đại hội, đón Gơđa và Brêviê, những
cuộc bầu cử và đấu tranh nghị trường.
Trong giai đoạn này, phương pháp đấu tranh là kết hợp hình thức hợp pháp,
nửa hợp pháp; công khai, nửa công khai.


-Bài học về xây dựng mặt trận thống nhất.
Giai đoạn 1936- 1939, lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta đã thiết lập
được Mặt trận dân tộc thống nhất. Đó là Mặt trận thống nhất nhân dân phản
đế Đông Dương, sau đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương (tháng
3/1938). Thông qua Mặt trận, Đảng ta đã tập hợp được rộng rãi các tầng lớp
nhân dân, không phân biệt các khuynh hướng chính trị, đảng phái, dân tộc,
đấu tranh vì quyền lợi của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngồi liên

minh giai cấp cơng nhân - nơng dân là lực lượng chủ yếu của cách mạng,
Mặt trận Dân chủ Đơng Dương cịn có sự tham gia rộng rãi của tầng lớp trí
thức, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung tiểu địa chủ có cảm tình với cách
mạng, kể cả những người Pháp dân chủ ở Đông Dương. Lực lượng cách
mạng đơng đảo đã đem lại những hình thức đấu tranh mới, sự phát triển
mạnh mẽ và những thắng lợi nhất định cho phong trào dân chủ 1936 – 1939.
 Một đội quân chính trị hùng hậu đã được hình thành để chuẩn bị cho
Cách mạng tháng Tám sau này.
-Bài học về tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp
pháp.
- Bài học về đấu tranh tư tưởng trong nội bộ Đảng và với đảng phái
chính trị phản động.
-Đồng thời, Đảng thấy được những hạn chế của mình trong cơng tác
mặt trận, vấn đề dân tộc…
Có thể nói, phong trào dân chủ 1936 – 1939 như cuộc diễn tập thứ 2,
chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.
d. Giai đoạn 1939-1945.
- Bài học về vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin vào thực tiễn Việt
Nam, nắm bắt được tình hình thế giới và cách mạng trong nước để thay đổi
chủ trưởng chủ đạo chiến lược cho phù hợp.
- Bài học về việc giải quyết đúng đắn giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đề
cao vấn đề dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
-Bài học về tập hợp, tổ chức đoàn kết lực lượng cách mạng trong Mặt trận
dân tộc thống nhất rộng rãi, trên cơ sở liên minh cơng nơng, tạo nền sức
mạnh tồn dân, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù rồi tiến hành đánh bại
chúng.


- Bài học về sự linh hoạt kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang,
kết hợp với chiến tranh du kích, đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần,

khởi nghĩa ở nông thôn và thành thị tiến tới tổng khởi nghĩa.
- Bài học về việc kết hợp giữa đấu tranh và xây dựng để ngày càng vững
mạnh về tổ chức, tư tưởng chính trị.
4.

Đồn kết tồn dân, chiến tranh nhân dân, khởi nghĩa toàn dân, toàn
Đảng.

Đảng nhận định: thời cơ giành thắng lợi đã tới! Đêm 13-8-1945, Ủy
ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1: Hiệu triệu tồn dân đứng lên tổng khởi
nghĩa giành chính quyền. Ngày 14-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng
họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) nhận định thời cơ đã đến, quyết định tổng
khởi nghĩa trong tồn quốc, giành chính quyền trước khi quân đồng minh
vào Đông Dương. Ngày 16 và 17-8-1945, Quốc dân Đại hội họp tại Tân
Trào, tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng. Trong thư kêu gọi
đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự
giải phóng cho ta”.
Thực hiện lời kêu gọi của Bác, cả dân tộc muôn người như một, vùng
lên, tạo thành ưu thế áp đảo, giáng một đòn quyết định vào các cơ quan đầu
não, làm tê liệt mọi sự kháng cự của phát xít Nhật và bọn tay sai, giành
chính quyền về tay nhân dân. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã
thành cơng rực rỡ. Thắng lợi của cuộc cách mạng này đã chứng tỏ nghệ
thuật lãnh đạo, chỉ đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt
là, Đảng ta đã xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết
tồn dân tộc. Đó là, khối đại đồn kết tồn dân, nịng cốt là liên minh cơng nơng - trí thức; trên cơ sở lợi ích, nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân để tổ
chức, tập hợp họ vùng lên đấu tranh “lấy sức ta giải phóng cho ta”.
Vì thế, Cách mạng Tháng Tám đã tạo nên một cao trào cách mạng
rộng khắp, mạnh mẽ chưa từng thấy với đông đảo lực lượng tham gia, không
phân biệt dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, mọi thành phần kinh tế, mọi

giới và mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.
Sức mạnh khối ĐĐKTDT trong Cách mạng Tháng Tám là sức mạnh
của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối
cách mạng đúng đắn. Đường lối đó ln thể hiện tư tưởng xuyên suốt của
Đảng: cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Như vậy, quan điểm “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, một mặt khẳng định


sức mạnh nội lực, mặt khác kế thừa, phát triển tư tưởng “lấy dân là gốc” của
dân tộc ta. Mục tiêu của Cách mạng Tháng Tám là đem lại lợi ích tối cao
cho dân tộc, vì lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con
người; đó là: đánh đổ thực dân phong kiến, giải phóng dân tộc, giành chính
quyền về tay nhân dân, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân,... Vì
thế, trước lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh,
toàn dân đã nhất tề đứng lên giành chính quyền.
Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 khẳng định vai trò và
sức mạnh của quần chúng nhân dân trong cách mạnh, với các hình thức vận
động, tậphợp và quy tụ quần chúng phù hợp, hoạt động hiệu quả. Đặc biệt,
các hình thức Mặt trận, trong đó Mặt trận Việt Minh "coi quyền lợi dân tộc
cao hơn hết thảy, Việt Minh sẵn sàng giơ tay đón tiếp những cá nhân hay
đồn thể khơng cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia, miễn thành thực
muốn đánh đuổi Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do độc lập”,
với các tổ chức quần chúng như Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc,
Nông dân cứu quốc… đã khơng chỉ quy tụ, mà cịn là nơi các tầng lớp nhân
dân tham gia tham đóng góp sức mình vào cơng việc của của nước nhà. Với
ý nghĩa đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay phải tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phải đổi mới
phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức tổ chức, để phát huy vai
trò, nhất là giám sát và phản biện xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.

Thấm nhuần sâu sắc quan điểm cách mạng, khoa học của Học thuyết
Mác-Lê-nin về vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong lịch sử và liên
minh công nông-nguyên tắc chiến lược của cách mạng vô sản, ngay từ rất
sớm, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan điểm đúng đắn về vai trò,
sức mạnh của quần chúng nhân dân và khối liên minh công nông trong cách
mạng. Năm 1927, trong cuốn “Đường Kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc cho
rằng, cách mạng là việc chung của dân chúng chứ không phải việc của một,
hai người. Người chỉ rõ: “Cách mệnh thì phải đồn kết dân chúng bị áp bức
để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ khơng phải chỉ nhờ 5, 7 người
giết 2, 3 anh vua, 9, 10 anh quan mà được”. Nguyễn Ái Quốc còn khẳng
định: “Dân khí mạnh thì qn lính nào, súng ống nào cũng khơng chống lại”.
Đồng thời, Người cịn chỉ rõ: "Cơng, nơng là gốc cách mạng, cịn học trị,
nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn của cách mạng". Cách mạng giải
phóng dân tộc “là sự nghiệp của cả dân chúng chứ khơng phải việc của một
hai người”. Vì thế, cơng tác vận động quần chúng địi hỏi mọi cán bộ, đảng


viên, nhất là tổ chức đảng các cấp đều phải tham gia “...vận động tất cả lực
lượng của mỗi một người dân, khơng để sót một người dân nào, góp thành
lực lượng tồn dân...”
Tài liệu:
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Tập 2 Nxb CTQG, Hà Nội 2002.
2. Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, H. 2011.
3. Hồ Chí Minh - Tồn tập, Tập 6, Nxb CTQG, H. 2011.
4. Phùng Hữu Phú (chủ biên) (1996), Chiến lược Đại đồn kết Hồ
Chí
Minh Nxb CTQG, Hà Nội.
III. Nghệ thuật xác định đúng thời cơ, chớp thời cơ và tận dụng thời
cơ ngàn năm có một để phát động khởi nghĩa giành chính quyền mau
lẹ, ít đổ máu.

1. Dự báo chuản xác tình hình cách mạng trong nước cũng như
thế giới của Đảng.
Đứng trước tình hình chính trị thé giới có nhiều bến động , tuy nhiên
trong lúc này chúng ta có thề thấy được khả năng dự báo một cách chuẩn
xác về tình hình cách mạng của Đảng và Hồ Chủ tịch để chủ động trong việc
xây dựng đường lối cũng như kế hoạch cụ thể cho cách mạng nước nhà, kịp
thời nắm bắt thời cơ một cách chuẩn xác , cụ thể :
Đến cuối năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ II nổ ra và lan rộng
khắp châu Âu. thực dân Pháp đàn áp rất khốc liệt phong trào cách mạng do
Đảng ta lãnh đạo, đồng thời ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người,
cướp của tại chỗ để cung cấp cho chiến tranh đế quốc của chúng. Chiến
tranh đã đặt đát nước ta trong tình hình mới.Chính sách vơ vét, cướp bóc
và chính sách khủng bố phát xít của đế quốc trong chiến tranh sẽ đẩy
mau tốc độ cách mạng hoá nhân dân, đẩy mau tình thế tới một thời
điểm mà giai cấp thống trị không thể thống trị như cũ, và giai cấp bị trị
cũng không thể sống như cũ được nữa. Chiến tranh đã đặt nhiệm vụ đánh


đổ chính quyền của đế quốc và tay sai thành nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt
của cách mạng. Đấu tranh hợp pháp giành chính quyền dân chủ, dân sinh
khơng cịn khả năng mà cũng không phải là mục tiêu trực tiếp của cách
mạng lúc ấy nữa.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 (11-1940) đã được tổ chức tại
Đình Bảng (Bắc Ninh), Hội nghị vạch rõ nguy cơ của các dân tộc Đơng
Dương bị “một cổ hai trịng”. Đơng Dương bị hai bọn đế quốc phát xít Nhật
- Pháp dày xéo, kẻ thù chính của nhân dân Đơng Dương lúc này là đế quốc
phát xít Nhật – Pháp. Hội nghị nhận định về thời cơ của cách mạng Việt
Nam: Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để
gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: Lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông
Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập Hội nghị quyết định

duy trì lực lượng vũ trang của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, đơn vị tập trung đầu
tiên của lực lượng vũ trang cách mạng do Đảng ta lãnh đạo, làm nòng cốt
cho việc xây dựng cơ sở chính trị và xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Năm 1940, phát-xít Đức tiến cơng nước Pháp, Pa-ri đã thất thủ rơi vào
tay quân Đức, còn ở Việt Nam, Nhật nổ súng đánh chiếm Lạng Sơn, hai đế
quốc Nhật - Pháp tranh nhau miếng mồi Đơng Dương. Phân tích về diễn
biến cuộc chiến tranh giữa phe phát-xít và Đồng minh, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc khẳng định, thắng lợi cuối cùng sẽ thuộc về phe dân chủ và nhận định
thời cơ giải phóng dân tộc đang đến rất gần, tình thế cách mạng sắp xuất
hiện
Trên tinh thần đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (51941)nhận định: Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước (ý nói cuộc chiến
tranh thế giới thứ nhất) đã đẻ ra Liên Xơ - một nước xã hội chủ nghĩa…
thì cuộc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do
đó mà cách mạng nhiều nước thành cơng. đánh giá, tình hình thế giới,
tình hình trong nước sẽ có những biến chuyển theo chiều hướng Liên Xơ và
các nước Đồng minh sẽ chiến thắng chủ nghĩa phát-xít, chính quyền của
phát-xít Nhật lung lay, đổ nát; nhân dân ta bị bọn thực dân, phát-xít xơ đẩy
vào thảm họa diệt vong, sẽ bước vào đường khởi nghĩa vũ trang và giành
thắng lợi bằng tổng khởi nghĩa. Hội nghị nhận định: Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được độc lập, tự
do cho tồn thể dân tộc thì chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc chịu mãi
kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng khơng
địi lại được.


Mặc dù các cuộc nổi dậy cuối năm 1940, đầu năm 1941 không thành công
nhưng Hội nghị Trung ương 8 đánh giá cao tinh thần các chiến sĩ cách
mạng trong các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương và phản
đối mọi cuộc bạo động non khi thời cơ chưa chín muồi.
Hội ngị cũng chỉ rõ chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của

Đảng và dân ta trong giai đoạn hiện tại. Căn cứ vào khởi nghĩa của Xô viết
Nghệ tĩnh và khởi nghĩa của các cuộc khởi nghĩa ở Bắc Sơn, Nam Kỳ, Hội
nghị nhận định khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một
cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, cũng có thể giành sự
thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”.
Tháng 12-1941 Trung ương ra thông cáo về “Cuộc chiến tranh Thái
Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng” vạch rõ khi quân đồng minh
kéo vào đất ta tới đâu thì nơi đó nổi cậy lập chính quyền cách mạng lâm thời
của địa phương rồi nhân danh chính quyền đó giao tiếp với họ.
Như vậy chúng ta có thể thấy Nhận định của Đảng dựa trên cơ sở
phân tích khoa học và lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lê-nin một
cách biện chứng, khách quan, toàn diện, toàn cục.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì thời cơ trong cách mạng
hay tình thế cách mạng có ba nhân tố chủ yếu sau:
Thứ nhất: Giai cấp thống trị đã suy yếu, khủng hoảng đến mức không
thể tiếp tục thống trị bằng những phương thức cũ được nữa.
Thứ hai: Các giai cấp và tầng lớp bị trị bên dưới cũng rơi vào tình
trạng cơ cực, bị bần cùng khơng thể chịu đựng được nữa, không thể sống nổi
nữa. Mâu thuẫn đã gay gắt đến cực độ và quần chúng đã sẵn sàng đi tới hành
động giải phóng.
Thứ ba: Tầng lớp, bộ phận trung gian, những người tri thức yêu nước
có tư tưởng dân chủ tiến bộ, những người có tinh thần dân tộc, kể cả một bộ
phận trong giai cấp hữu sản nhưng gần với quần chúng, nhận thức được xu
thế lịch sử, ngã về phía cách mạng, tương quan lực lượng có lợi cho phía
cách mạng. Đội tiên phong của cách mạng.
Thể hiện tư duy nhạy bén của Đảng trong việc đánh giá thời cơ, đánh
giá về so sánh lực lượng cách mạng giữa ta và địch, nắm vững quy luật vận


động của chiến tranh; tính quy luật tất yếu có áp bức dân tộc, có đấu tranh

cách mạng giải phóng dân tộc.Tuy nhiên, tầm vóc tư duy chiến lược của
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ: Sớm nhìn thấy quy
luật vận động cách mạng, dự báo thời cơ cách mạng, nhanh chóng triển
khai thực hiện để thúc đẩy tiến trình cách mạng.
Nhận định chính xác
Đánh giá chính xác xu thế phát triển của thời cuộc, tháng 10/1944,
Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào tồn quốc, nêu rõ: “Phe xâm lược gần
đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối
cùng.Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi
nữa.Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”.
Cũng vào thời điểm này (mùa thu năm 1944) Thường vụ Trung ương
dự kiến cuộc xung đột Nhật-Pháp trước sau sẽ nổ ra. Tổng Bí thư Trường
Chinh cho rằng sự “hịa hỗn” Nhật-Pháp “có khác gì một cái nhọt bọc, chứa
đầy bên trong biết bao nhiêu vi trùng và máu mủ, chỉ chờ dịp chín mõm là
vỡ tung ra”. Cuộc đảo chính Nhật-Pháp đêm 9/3/1945 đã chứng minh dự
kiến đúng đắn của Đảng, chứng minh sự nhạy bén trong việc “bắt mạch”
tình hình để kịp thời đề ra chủ trương thúc đẩy phong trào tiến tới.
2. Đảng ta đã tận dụng đúng thời cơ “ngàn năm có một” để tiến hành
cuộc tổng khởi nghĩa tháng tám năm 1945.
Ngày 9-3-1945, phát-xít Nhật đảo chính Pháp, kéo theo đó là tình
trạng khủng hoảng chính trị ở Việt Nam. Ngay lập tức Ban Thường vụ Trung
ương Đảng đã họp và đưa ra những nhận định khách quan về thời cơ khởi
nghĩa đang đến rất gần: "Những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện
khởi nghĩa mau chín muồi"; và ra Chỉ thị: "Nhật - Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta"(12-3-1945). Đảng quyết định phát
động cao trào chống Nhật cứu nước. Bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính
của Nhật ở Đơng Dương đã tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc,nhưng
điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi, tuy vậy cũng đã tạo ra những
tiền đề cần thiết thúc đẩy cuộc khởi nghĩa chóng tới. Trong Chỉ thị, Ban
Chấp hành Trung ương, ngoài việc xác định kẻ thù mới và đề ra khẩu hiệu

đấu tranh mới, còn dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ cho nhân dân
ta vùng dậy giành chính quyền trên cả nước, đó là: 1. Qn Đồng minh vào
Đơng Dương đánh Nhật; và 2. Nhật đầu hàng Đồng minh.
Cũng chính vì dự kiến thời cơ thuận lợi đang đến gần mà Thường vụ Trung
ương đã kịp thời triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, ra nghị
quyết thành lập Ủy ban quân sự miền Bắc Đông Dương, thống nhất lực


lượng vũ trang, mở trường đào tạo cán bộ, đẩy mạnh chiến tranh du kích
phát triển rộng khắp, lập xưởng vũ khí, tích trữ lương thực, khẩn trương đón
thời cơ tiến tới Tổng khởi nghĩa.
Hội nghị quân sự diễn ra đúng vào những ngày Hồng quân Liên Xô
tiến công Berlin.Ngày 2/5, Berlin thất thủ; một tuần sau, phát xít Đức đầu
hàng. Trong khi cuộc chiến tranh thế giới chuyển sang mặt trận phía Đơng,
Liên Xơ tun chiến với Nhật, thì lãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng hành dinh
của cách mạng Việt Nam chuyển từ căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng về Tân Trào
(Sơn Dương-Tuyên Quang). Tình hình thế giới đang chuyển biến hết sức
mau lẹ cũng là lúc các nước lớn họp Hội nghị Potsdam (một thành phố Tây
Nam thủ đô Berlin của Đức-từ 17/7 đến 2/8/1945). Hội nghị sớm để lộ âm
mưu nham hiểm của các nước lớn về những vấn đề “hậu chiến” có quan hệ
bất lợi đối với vận mệnh của dân tộc Việt Nam.
Đó cũng là thời điểm câu nói đã đi vào lịch sử của lãnh tụ Hồ Chí
Minh nói với đồng chí Võ Ngun Giáp (Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù
hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết
giành cho được độc lập), thể hiện sâu sắc tư duy nhạy bén trước tình hình,
thể hiện nghệ thuật chớp thời cơ chiến lược và tinh thần tiến cơng cách mạng
của Đảng. Ít ngày sau đó, khi nghe tin Nhật đầu hàng, việc lãnh tụ Hồ Chí
Minh chỉ đạo khẩn trương tranh thủ thời gian tiến hành Hội nghị toàn quốc
của Đảng và Quốc dân đại hội ở Tân Trào (để cán bộ kịp về chỉ đạo khởi
nghĩa giành chính quyền ở các địa phương), càng cho thấy sự nhạy bén của

lãnh đạo trong những giờ phút có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân
tộc.
Các cấp bộ đảng từ trung ương đến địa phương đã theo dõi sát sao
diễn biến mặt trận Thái Bình Dương. Sau khi Hồng quân Liên Xô tiêu diệt
một triệu quân Quan đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc và Mỹ ném hai
quả bom nguyên tử xuống Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki, ngày 9-8-1945, Hội
đồng tối cao chiến tranh của Nhật Bản đã họp bàn về các điều kiện đầu hàng
theo Tuyên bố Pô-xđam. Sau những cuộc thương lượng giữa Nhật Bản và
Đồng minh, ngày 14-8-1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và nội các Nhật
Bản với sự hiện diện của Nhật hồng đã nhóm họp và thơng qua quyết định
đầu hàng Đồng minh. Đúng giữa trưa ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố
đầu hàng các lực lượng Đồng minh trên sóng phát thanh của Nhật Bản
Khi phát-xít Nhật đầu hàng Đồng minh (13-8-1945), Đảng ta khẳng
định, tình thế cách mạng đã xuất hiện, đây là cơ hội giải phóng dân tộc ngàn
năm có một: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc
đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Cả dân tộc theo


tiếng gọi của Người, nhất tề đứng lên khởi nghĩa, chỉ trong chưa đầy nửa
tháng, các địa phương trong cả nước đã giành thắng lợi
=>Chọn thời điểm 13 tháng 8 để phát động Tổng khởi nghĩa là vô
cùng sáng suốt, bởi vào thời điểm đó, cách mạng đã lên tới cao trào, lực
lượng cách mạng đã lôi kéo được những tầng lớp trung gian, lừng
chừng. Đây cũng là thời điểm mà Phát xít Nhật hoang mang; Chính phủ
Trần Trọng Kim yếu thế; quân Đồng minh chưa vào nước ta; quân
Pháp có tham vọng quay trở lại Việt Nam song chưa có lực lượng...Đó là
việc lựa chọn thờì điểm tiến hành phát động tổng khởi nghĩa một cách
chính xác.
Khơng chỉ việc lựa chọn thời cơ phát động tổng khởi nghĩa một
cách chuẩn xác. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn đúng thời cơ

để tiến hành tổng khởi nghĩa tháng Tám .Thời cơ xuất hiện và tồn tại
trong một khoảng thời gian nhất định.Trong Cách mạng Tháng Tám, thời cơ
tồn tại một cách khách quan trong vịng hai mươi hơm, bắt đầu từ khi Nhật
hoàng tuyên bố đầu hàng (ngày 15/8) và kết thúc khi quân Đồng minh vào
tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta theo Hiệp định Pô-xđam (ngày 5/9).
Nếu như cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra sớm hơn, trước ngày 15-8-1945
khi mà Nhật Hoàng chưa tuyên bố đầu hàng thì sẽ gặp vơ vàn khó khăn.Phát
xít Nhật tuy suy yếu nhưng chúng còn đủ lực lượng để chống lại cách mạng
một cách quyết liệt, và như vậy cuộc khởi nghĩa chắc chắn sẽ không thể dễ
dàng thành cơng trong cả nước một cách nhanh chóng.
Mặt khác nếu cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra muộn hơn khi quân Anh,
quân Tưởng đã vào đất nước ta, khi mà thực dân Pháp đã phục hồi lại lực
lượng, và viện binh của chúng từ Pháp sang xâm lược lại nước ta một lần
nữa, và chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim đã tiếp xúc được với bọn đế quốc
thì thời cơ thuận lợi nhất sẽ trôi qua, quân ta sẽ mất đi thế chủ động và gặp
nhiều khó khăn khác.
Đảng ta đã nắm vững những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin về
thời cơ cách mạng, phải bám sát tình hình, nhạy bén trước thời cuộc, để dự
kiến chính xác, biết phải làm gì và làm như thế nào, nhất là phải ra sức
chuẩn bị thực lực từ trước để một khi thời cơ đến có thể tung ra mà giành lấy
thắng lợi. Chọn đúng thời cơ là một khoa học, là một nghệ thuật, nhờ thế sức
mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, tiến tới khởi nghĩa giành chính
quyền trong cả nước một cách nhanh, gọn, ít đổ máu và thành công triệt để.


Có thể khẳng định, thành cơng lớn nhất của nghệ thuật khởi nghĩa
trong Cách mạng Tháng Tám: “Đảng ta đã chọn đúng thời cơ "nổ ra đúng
lúc". Đó là lúc 16 nghìn quân Anh chưa vào miền nam và 200 nghìn quân
Tưởng chưa vào miền bắc để giải giáp quân Nhật; cũng là lúc quân Nhật bại
trận mất tinh thần, ngồi chờ Đồng minh đến tước vũ khí; ngụy quyền tay sai

bỏ trốn hoặc đầu hàng chính quyền cách mạng.
(Nghệ thuật chớp thời cơ)
Thực tế cho thấy, nghệ thuật nắm bắt tình hình và nghệ thuật chỉ đạo
chớp thời cơ cách mạng của Đảng thể hiện trong hai bối cảnh khác nhau:
Khi nhận thấy điều kiện chưa chín muồi thì kiên quyết phản đối mọi chủ
trương manh động để bảo tồn lực lượng cách mạng; nhưng khi phát hiện
“tình thế trực tiếp cách mạng” đã xuất hiện thì kịp thời động viên quần
chúng nhân dân quyết tâm vượt mọi khó khăn để đánh đòn quyết định, giành
thắng lợi cho cách mạng.
Nét đặc sắc nhất của nghệ thuật đánh giá tình hình và chớp thời cơ của
Đảng trong Cách mạng Tháng Tám là ở chỗ: Cuộc Tổng khởi nghĩa không
nổ ra trước ngày Nhật Bản đầu hàng-để quân đội Thiên hoàng khơng cịn vị
thế để can thiệp vào nội tình Việt Nam; Cuộc Tổng khởi nghĩa cũng không
nổ ra sau ngày quân Tưởng đã vào miền Bắc, buộc tướng lĩnh Quốc dân
đảng Trung Hoa phải “nói chuyện” với Chính phủ lâm thời, đại diện cho
nước Việt Nam đã có chủ sau khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Cùng với việc kiên trì xây dựng lực lượng và kịp thời phát huy sức
mạnh của toàn dân theo phương châm “đem sức ta giải phóng cho ta” và
khẩn trương, thận trọng chuẩn bị chu đáo, tồn diện, Trung ương Đảng ln
nhấn mạnh yếu tố nắm bắt thời cơ cách mạng.
Trung ương Đảng đã thực hiện cả một quá trình kiên trì giáo dục giác
ngộ và tổ chức quần chúng, dựa vào sức mạnh đoàn kết của tồn dân đã
được giác ngộ để khơng ngừng chủ động chuẩn bị, nhằm tạo thế mới và lực
mới cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thúc đẩy điều kiện chủ quan chín
muồi, làm cơ sở để khi điều kiện khách quan thuận lợi xuất hiện thì kịp thời
chớp thời cơ động viên toàn dân nổi dậy giành chính quyền trong cả nước.
Điều đó giải thích vì sao chỉ trong vòng hai tuần (từ trung tuần đến cuối
tháng 8/1945), Tổng khởi nghĩa nổ ra dồn dập và giành thắng lợi nhanh gọn
từ địa phương này đến địa phương khác, từ thành thị đến nông thôn, trong cả
nước. Nhờ có sự chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại nổ ra đúng thời cơ, Cách

mạng tháng Tám đã giành được thắng lợi “nhanh, gọn, ít đổ máu”. Đó là một
điển hình thành cơng về nghệ thuật tạo thời cơ, dự đốn thời cơ, nhận định
chính xác thời cơ, đồng thời kiên quyết chớp thời cơ phát động toàn dân nổi
dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền.


Chớp đúng thời cơ để khởi nghĩa là một đặc điểm, một ưu điểm
sáng tạo của Dảng, của dân tộc ta. Điều này không phải ngẫu nhiên, ăn
may mà là kết quả của sự chuẩn bị lâu dài, của dự đoán chiến lược
đúng và kịp thời hành động khi điều kiện khởi nghĩa đã xuất hiện.
Chọn đúng thời cơ là một khoa học, là một nghệ thuật, nhờ thế sức
mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, tiến tới khởi nghĩa giành chính
quyền trong cả nước một cách nhanh, gọn, không đổ máu và thành công triệt
để. Cuộc Cách mạng Tháng Tám mà Đảng và Mặt trận Việt Minh phát động,
như cơn sóng thần, đã cuốn phăng chính quyền phát-xít Nhật và tay sai.
Ngày 30-8, vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị và tuyên bố “thà làm dân một
nước tự do, cịn hơn làm vua một nước nơ lệ”.
Có thể nói cuộc cách mạng tháng tám vĩ đại thành công là một minh
chứng hùng hồn về nghệ thuật quân sự và tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc
của Việt Nam ta , có thể thấy rằng có rất nhiều quốc gia khác vào cùng thời
điểm đó như Lào , Camphuchia cũng có chung những điều kiện thuận lợi
như Việt Nam ta nhưng không dành được thắng lợi một cách triệt để . Điều
dó càng minh chứng hùng hồn hơn nữa cho thành công của cuộc cách mạng
tháng Tám của dân tộc ta.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 chứng tỏ, Đảng ta, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn vượt trước thời gian, xác định
đúng thời cơ, cho nên đã chuẩn bị tốt lực lượng, sẵn sàng chủ động, chớp
thời cơ lãnh đạo nhân dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Đây
là sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa và cách
mạng, khôn khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi.

IV. Nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa từng phần và tiến lên tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945.
Với tư tưởng quân sự “thượng sách của việc dùng binh là dùng mưu
lược để giành thắng lợi, sau mới đến việc dùng ngoại giao để giành thắng
lợi, sau nữa mới đến dùng lực lượng quân sự để giành thắng lợi, hạ sách là
đánh thành”, khởi nghĩa từng phần được tiến hành rất đa dạng, phong phú, ít
tổn thất nhưng giành thắng lợi triệt để.


Hà Nội là địa phương tiêu biểu về sự chủ động kết hợp đấu tranh
chính trị, quân sự và ngoại giao để giành chính quyền. Xuất phát từ cuộc mít
tinh chiều 17-8-1945 do Tổng hội viên chức của chính quyền bù nhìn Trần
Trọng Kim tổ chức tại quảng trường Nhà hát Lớn, có lực 3 lượng bảo an,
cảnh sát giữ gìn trật tự, nhưng Việt Minh đã khéo léo dùng kế “Phản khách
vi chủ” (đổi khách thành chủ). Ủy ban khởi nghĩa quyết định biến cuộc mít
tinh ấy thành cuộc mít tinh của quần chúng ủng hộ cách mạng. Chiều hơm
đó, đơng đảo quần chúng trong các tổ chức cứu quốc thuộc nội thành, ngoại
thành, tự vệ chiến đấu, tuyên truyền xung phong được giữ bí mật huy động
đến nhà hát thành phố. Cuộc mít tinh vừa khai mạc thì cờ đỏ sao vàng xuất
hiện trước đám động. các đôi viên tuyên truyền xung phong Việt Minh xông
lên giành lấy diễn đàn, thông báo tin Nhật đầu hàng và kêu gọi nhân dân ủng
hộ Việt Minh khởi nghĩa. Sau đó, cuộc mít tinh biến thành cuộc tuần hành
ủng hộ Việt Minh. Cuộc tuần hành này làm cho quân Nhật và tay sai hoang
mang cực độ, Khâm sai Bắc Kỳ Phan Kế Toại lập tức xin từ chức.
Nhận thấy đây là thời điểm có thể dùng kế “Thuận thủ khiên
dương” (tiện tay dắt dê), nên dù chưa nhận được Quân lệnh số 1, nhưng Ủy
ban Quân sự Cách mạng Hà Nội đã mạnh dạn căn cứ vào Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” để quyết định khởi nghĩa vào
ngày 19-8 bằng lực lượng quần chúng đơng đảo, có các đội tự vệ chiến đấu,
đội tun truyền xung phong làm nòng cốt.
Vấn đề quan trọng đặt ra lúc này là phải cô lập và vô hiệu hóa lực

lượng phát-xít Nhật, vì tuy chúng đã đầu hàng Đồng Minh nhưng đến ngày
21-8 lệnh ngừng bắn mới có hiệu lực. Do đó, Ủy ban cách mạng vừa sử
dụng truyền đơn, vừa dùng lời lẽ ơn hịa, khéo léo thuyết phục quân đội Nhật
muốn yên ổn về nước, không nên can thiệp vào công việc nội bộ của người
Việt Nam, tránh đổ máu vô.
Nhờ vậy, sáng 19-8, hàng chục vạn nhân dân nội, ngoại thành xuống
đường biểu dương lục lượng. tất cả tập trung trước nhà hát Lớn. Đúng 11
giờ, Ủy ban khởi nghĩa đọc lới kêu gọi khởi nghĩa. Sau đó, cuộc mít tinh
biến thành cuộc biểu tình vũ trang giành chính quyền. quần chúng cách
mạng, có sự hỗ trợ của các đội tự vệ chiến đấu, lần lượt chiếm các cơ quan
đầu não của địch: Phủ khâm sai Bắc Bộ, Sở mật thám, Sở cảnh sát Trung
ương,…tối cùng ngày, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội kết thúc
và giành thắng lợi hoàn toàn. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa này có ý nghĩa
với cả nước, làm cho chính quyền tay sai Nhật ở các nơi bị tê liệt, cỗ vũ


×