TÓM TẮT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN VÀ VỊ TRÍ, CHỨC
NĂNG, NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NHIỆM VỤ CỦA DÂN
QUÂN TỰ VỆ VIỆT NAM
MỘT SỐ LOẠI VŨ KHÍ TRANG BỊ CỦA LỰC LƯỢNG DQTV VÀ TRANG
PHỤC, SAO, MŨ, PHÙ HIỆU CỦA LỰC LƯỢNG DQTV
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Trong những năm 1930 - 1931, trong phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh đã xuất
hiện các đội Tự vệ đỏ, đó là mầm mống của các lực lượng vũ trang cách mạng sau này
của nhân dân ta. Ngày 28 tháng 3 năm 1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng được tổ
chức tại Ma Cao (Trung Quốc) đã thông qua “Nghị quyết về Đội tự vệ”. Nghị quyết
xác định bản chất giai cấp, bản chất cách mạng của đội tự vệ, một tổ chức có tính chất
nửa quân sự của quần chúng nhân dân lao động, chủ yếu là của công nông, do Đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo. Thành phần là những người lao động nhiệt tình,
cương quyết, không phân biệt gái, trai, hoặc dân tộc, từ 18 tuổi trở lên. Ngày 28 tháng
3 năm 1935 đã được công nhận là ngày truyền thống lực lượng dân quân tự vệ Việt
Nam
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, các đội du kích Bắc Sơn, du kích Ba
Tơ cùng hàng ngàn đội tự vệ, tự vệ chiến đấu ở khắp các địa phương trên cả nước đã
được thành lập và phát triển lên trong cao trào đấu tranh cách mạng chuẩn bị vũ trang
khởi nghĩa giành chính quyền. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, lực
lượng tự vệ và tự vệ chiến đấu khắp Trung - Nam - Bắc đã đóng vai trò xung kích đắc
lực cùng với Việt Nam giải phóng quân kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính
trị của hàng triệu quần chúng vùng lên dùng bạo lực cách mạng giành chính quyền về
tay nhân dân trong phạm vi cả nước.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dân quân tự vệ và du kích là lực
lượng đông đảo nhất, không phân biệt nam, nữ, tôn giáo, đảng phái, xuất thân, được tổ
chức ở các thôn, xã, làng, bản, không thoát ly sản xuất, luôn luôn bám đất, bám dân để
đánh giặc giữ làng, chống địch càn quét khủng bố, làm thất bại âm mưu “lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của chúng. Dân quân tự vệ
và du kích với những vũ khí thô sơ như giáo, mác, gậy gộc, cung nỏ, súng đạn tự chế,
địa lôi, hầm chông với những cách đánh tài tình, linh hoạt đã khiến cho địch ăn không
ngon, ngủ không yên, bị lọt vào một thứ “lưới thép” không tài nào thoát ra được.
Những đóng góp của lực lượng dân quân tự vệ và du kích đã góp phần đắc lực vào
thắng lợi chung của dân tộc năm 1954, đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, trên miền Bắc, lực lượng
dân quân tự vệ được tổ chức rộng khắp, bao gồm cả nông dân, công nhân, trí thức, học
sinh, sinh viên; được trang bị từ thô sơ đến tương đối hiện đại đã chung sức, chung
lòng tích cực tham gia kiến thiết miền Bắc xã hội chủ nghĩa, anh dũng chiến đấu bắn
máy bay Mỹ, phục vụ chiến đấu, thực hiện công tác phòng không nhân dân, bảo đảm
giao thông vận tải thời chiến, xung kích trong lao động sản xuất, bảo vệ trật tự trị an ở
cơ sở, thực hiện nghĩa vụ của hậu phương đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Ở miền
Nam, các đội tự vệ và du kích ở cả nông thôn, đồng bằng, rừng núi, đô thị đã hỗ trợ
đắc lực cho phong trào đồng khởi góp phần làm thất bại âm mưu của đế quốc Mỹ
nhằm thống trị miền Nam bằng các thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân mới. Bằng mọi
thứ vũ khí kể cả thô sơ và hiện đại, anh dũng chiến đấu cùng với quân giải phóng và
nhân dân lần lượt đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”,
“Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
Đánh giá vai trò, vị trí chiến lược của lực lượng dân quân tự vệ và du kích đối
với công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta, tháng 5
năm 1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân quân tự vệ và du kích là lực lượng của
toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ
địch hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng
phải tan rã”.
Từ sau khi đất nước được thống nhất đến nay, lực lượng Dân quân tự vệ đã
cùng với các lực lượng khác vẫn luôn giữ vững và phát huy vị trí chiến lược của mình
trong sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý,
điều hành của chính quyền xung kích trong lao động sản xuất, tham gia giữ gìn anh
ninh chính trị, trật tự an toàn ở địa phương, cơ sở, phòng chống và khắc phục hậu quả
thiên tại, tìm kiếm cứu nạn; được cấp ủy, chính quyền và nhân dân tin cậy.
Để ghi nhận những công lao và thành tích Dân quân tự vệ qua các thời kỳ, đã
có hàng trăm tập thể và cá nhân Dân quân tự vệ được Đảng và Nhà nước phong tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, huân chương, huy chương các loại;
Cục Dân quân tự vệ được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân thời kỳ chống Mỹ và Huân chương Hồ Chí Minh năm 2009.
II. VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG, NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG VÀ
NHIỆM VỤ CỦA DÂN QUÂN TỰ VỆ VIỆT NAM HIỆN NAY
Với vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước những năm
qua; trong giai đoạn cách mạng mới, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới, đồng thời bảo đảm tính pháp lý đối với chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của Dân
quân tự vệ; Pháp lệnh Dân quân tự vệ đã được nâng lên thành Luật Dân quân tự vệ và
ngày 23/11/2009 đã được Quốc hội khoá XII tại kỳ họp thứ 6 thông qua và có hiệu lực
thi hành từ 01/7/2010; trong đó quy định:
Vị trí, chức năng:
Dân quân tự vệ Việt Nam là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản
xuất, công tác là thành phần của lực lượng vũ trang nhân dân Nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; là lực lượng bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng,
tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước, làm nòng cốt cùng toàn dân đánh giặc ở
địa phương cơ sở khi có chiến tranh. Lực lượng này được tổ chức ở xã, phường, thị
trấn gọi là Dân quân; được tổ chức ở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế gọi là Tự vệ.
Nguyên tắc tổ chức hoạt động:
1. Dân quân tự vệ Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam,
sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý điều hành của Chính phủ mà trực tiếp là
sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương các cấp; sự chỉ huy thống
nhất của Bộ trưởng Bộ quốc phòng và sự chỉ huy trực tiếp của chỉ huy trưởng cơ quan
quân sự địa phương.
2. Tổ chức và hoạt động của DQTV phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; dựa
vào dân và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị để thực hiện nhiệm vụ.
3. Tổ chức biên chế của DQTV phải căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh gắn với địa bàn và nhiệm vụ của đơn vị sản xuất, công tác; bảo đảm cho thuận
tiện cho chỉ đạo, quản lý, chỉ huy và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng
địa phương.
Nhiệm vụ của Dân quân tự vệ gồm:
1. Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và phục vụ chiến đấu để bảo vệ địa phương,
cơ sở, phối hợp với các đơn vị Bộ đội Biên phòng, Hải quân, Cảnh sát biển và các lực
lượng khác bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia và chủ quyền, quyền chủ
quyền trên các vùng biển Việt Nam.
2. Phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân Công an nhân dân và các lực
lượng khác trên địa bàn tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu
vực phòng thủ, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, chính
quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước.
3. Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh,
tìm kiếm, cứu nạn, bảo vệ và phòng, chống cháy rừng, bảo vệ môi trường và một số
nhiệm vụ phòng thủ dân sự khác theo quy định của pháp luật.
4. Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, tham gia xây dựng cơ sở
vững mạnh toàn diện; xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, cơ sở.
5. Học tập chính trị, pháp luật, huấn luyện quân sự và diễn tập.
6. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.