Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Binh giang bai tho Tuong tu cua Nguyen Binh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.76 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b> Bình giảng bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính</b>


Trước Nguyễn Bính 150 năm, Nguyễn Cơng Trứ thuở “hàn nho” (?) đã có lần viết:
<i>“Tương tư khơng biết cái làm sao</i>


<i>Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào…”</i>
<i>(Tương tư)</i>


Xuân Diệu – Ông chúa thơ tình - người đồng thời với thi sĩ Nguyễn Bính cũng có bài
“Tương tư chiều” (Thơ thơ – 1938) nồng nàn thương nhớ:


<i> “Anh nhớ tiếng, Anh nhớ hình, Anh nhớ ảnh</i>
<i> Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi!</i>


<i> Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi,</i>
<i> Nhớ đôi môi dang cười ở phương trời</i>
<i> Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm”.</i>


Năm 1939, Nguyễn Bính viết “Tương tư” in trong tập “Lỡ bước sang ngang” xuất bản
tại Hà Nội, năm 1940. Với 20 câu thơ lục bát, Nguyễn Bính đã có một cách nói riêng về
nỗi nhớ, nỗi buồn tương tư. Chàng trai đa tình, mơ mộng khắc khoải chờ mong và
thương nhớ cô gái “chung làng” với một tình yêu chưa được đáp đền… nên mới tương
tư như thế. Nỗi tương tư buồn dịu ấy được đặt vào một khung cảnh bình dị đáng yêu
trong hương đồng gió nội thuần khiết, trong sáng như một mối tình đan díu xưa cũ trong
bài hát giao dun thuở nào.


Có yêu lầm nhớ nhiều nên mới tương. Yêu lắm nhớ nhiều, mà khơng được “người tình”
đáp lại, khơng được gặp mặt người yêu thì mới tương tư, mang nỗi buồn tương tư.
“Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều – Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang” (“Truyện Kiều”
- Nguyễn Du)



Khổ thơ đầu nói lên nỗi “nhớ”, nỗi “mong” của kẻ đang yêu, nỗi nhớ mong đầy ắp trong
lòng, đã thành “bệnh” bởi lẽ “tôi yêu nàng”:


<i> “Thơn Đồi thì nhớ thơn Đơng,</i>


<i> Một người chín nhớ mười mong một người.</i>
<i> Gió mưa là bệnh của giời.</i>


<i> Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

thôn, cả thơn Đơng lẫn thơn Đồi. u nàng tơi tương tư đã thành “bệnh”, thật đáng
thương,… cũng như bệnh nắng mưa của trời vậy. Cách so sánh “bệnh giời” với bệnh
tương tư “của tơi u nàng”, Nguyễn Bính đã diễn tả mọt cách hồn nhiên, thú vị về nỗi
buồn tương tư trong tình yêu là lẽ tự nhiên, là tất yếu. Yêu thì mong được gần nhau, mà
xa thì nhớ; yêu lắm nên nhớ nhiều; càng nhớ mong thì càng tương tư. Tương tư là một
nét đẹp của tình yêu nên khác gì “Nắng mưa là bệnh của giời”....


Mười hai câu tiếp theo nói lên tâm trạng tương tư “bệnh của tôi yêu nang”. Trước hết là
nỗi băn khoăn thắc mắc. Tuy chẳng được ở gần nhau “bên giậu mùng tơi”, “bên giàn
thiên lý”, nhưng tôi với nàng gần gũi biết bao “Hai thơn chung lại một làng”. Có mong
có nhớ… có đi mà khơng có lại, nên băn khoăn thắc mắc biết ngỏ cùng ai bây giờ? Một
câu hỏi cất lên nghe thật là thương, thật là buồn:


<i> “Có sao bên ấy chẳng sang bên này?”</i>


Đã bao lâu rồi chưa được gặp nàng, nỗi buồn tương tư càng da diết, nôn nao:
<i> “Ngày qua ngày lại qua ngày.</i>


<i> Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”.</i>



Ba chữ “ngày” kết hợp với chữ “qua” một chữ “lại” diễn tả nỗi buồn triền miên dằng
dặc. Từ mùa xuân, khi lá xanh nay đã cuối thu “cây lá vàng”, thế mà “bên ấy” chẳng
sang bên này? Làm sao chẳng mỏi mòn mong nhớ? Làm sao chẳng tàn úa như lá vàng
mùa thu? Nguyễn Bính đã học tập cách nói của dân gian lấy cây cỏ sắc màu để diễn tả
thời gian ly cách. Thời gian tâm lí, thời gian tâm trạng: dằng dặc mong nhớ, triền miên
buồn trơng - được nói lên một cách rất thơ, rất đậm đà, ý vị.


Thắc mắc rồi trách móc, rồi hờn tủi. Băn khoăn tự hỏi, tự giày vò mình: “Bảo rằng”,
“khơng … là chẳng… đã đành”, “nhưng”, “có xa xôi mấy…”, hỏi để rồi lại băn khoăn,
hờn dỗi. Và chỉ biết hỏi mình mà thơi, càng hỏi càng cô đơn lẻ loi, hờn tủi:


- “Có xa xơi máy mà tình xa xôi?”
- “Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?”


Trải qua những “chín nhớ mười mong”, hết trách móc hờn dỗi rồi lại trơng đợi cầu
mong. Thật chân tình, thật chân thành, tha thiết:


<i> “Bao giờ bến mới gặp đò,</i>


<i> Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

hạnh phúc của lứa đơi rất thiết tha. Cái tơi trữ tình của chàng trai đa tình, nỗi buồn tương
tư, nỗi khát khao ước mong về hạnh phúc “của tôi yêu nàng”, trở thành “cái chung” của
nhiều chàng trai, cơ gái khác. Vì thế đã 60 năm qua, tiếng thơ “Tương tư” vẫn được bao
thế hệ độc giả trân trọng coi nó như tâm hồn mình, tiếng lịng mình. Có một số người
cho rằng trong “tương tư” đâu phải là anh trai cày “tát nước đầu đình” mà có thể là một
chàng trai đang học trường tổng, trường huyện và đã từng đọc “Hồn bướm mơ tiên”…
thích mơ mộng. Nguyễn Bính khơng chỉ làm cho vần thơ mang vẻ đẹp mộc mạc như ca
dao mà lại cũng khác ca dao, là ở chỗ ấy.



Ở phần hai là bài thơ, chàng trai lúc thì trách móc, lúc thì nhắn hỏi liên tiếp mà “nàng”
vẫn hững hờ, biệt tăm. Kẻ thì đa tình mơ mộng.. mà đối tượng yêu đến tương tư kia lại
mơ hồ, vơ định, nhớ thương mong đợi, có đi mà chẳng bao giờ có lại. Chỉ là chuyện hão
huyền, vơ vọng vì đó là một tình u đơn phương. Bởi vậy, nhớ và mong, trách và hỏi
đâu mơ hồ, vu vơ. Ở đời vẫn có những mối tình u như thế, lãng mạn như thế: “Ai biết
tình ai có đậm đà?” (Hàn Mặc Tử). Năm 1921 thi sĩ Tản Đà viết trong bài thơ “Thử
trách người tình khơng quen biết”:


<i> “Nhớ mình ra ngẩn rào ngơ</i>


<i> Trông mây trông nước, nay chờ mai mong”.</i>
Và năm 1926, ơng cịn viết:


<i> “Mong ai mỏi mắt chân trời,</i>
<i> Nhớ ai, đi, đứng, ăn, ngồi thẩn thơ”.</i>


<i> (“Thư trách người tình khơng quen biết”)</i>


Qua đó, ta mới có thể cảm nhận được tình tương tư “một người chín nhớ mười thương
mong một người” trong thơ Nguyễn Bính. Và đó chỉ là u vụng dấu thầm mà thơi.
Bốn câu thơ cuối bài nói lên niềm mơ ước muôn đời của lứa đôi. Và ở đây là của “anh”.
u nhau đâu chỉ có “chín nhớ mười mong”, đâu chỉ có tương tư mà cịn ước mơ hạnh
phúc:


<i> “Nhà em có một giàn giầu,</i>


<i> Nhà anh có một hàng cau liên phịng.</i>
<i> Thơn Đồi thì nhớ thơn Đơng,</i>


<i> Cau thơn Đồi nhớ giầu khơng thơn nào?”</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

lứa sắt son, bền chặt. Cấu trúc song hành gợi tả mối quan hệ gắn bó của một đơi trai gái
trong một tình u đẹp: nhà tơi và nhà em, thơn Đồi và thơn Đơng, trầu và cau. Tình
u là chuyện muôn đời của lứa đôi, của trai gái. Nguyễn Bính đã khép lại bài thơ bằng
một lối diễn đạt tinh tế, đậm đà, nhiều man mác, bâng khuâng. Mơ ước về trái ngọt hạnh
phúc sẽ làm lịm môi, mơ ước về con thuyền tình sẽ cập bến hạnh phúc… đó là mơ ước
đẹp rất nhân văn. Vần thơ, câu thơ của tác giả “Lỡ bước sang ngang” được tuổi trẻ thời
áo trắng u thích là vì thế.


“Tương tư” vượt lên thời gian, đã sống trong lòng người, trong trái tim, tâm hồn bao
chàng trai, cô gái. Ngôn ngữ và chất thơ dung dị, hồn nhiên, dân dã và không kém phần
lãng mạn thơ mộng. Một hệ thống ẩn dụ ước lệ: thơn Đồi, thơn Đơng, bến đị, hoa
-bướm, cau - trầu… - với cách nói ví von bình dị đã tạo nên một khơng gian nghệ thuật
gần gũi, thân quen là làng xóm, quê nhà, là “hồn xưa đất nước”. Cái mới trong thơ lục
bát của Nguyễn Bính là chất biểu cảm nồng nàn, là niềm khao khát về tình u hạnh
phúc, là cái tơi trữ tình, là “của tôi yêu nàng”, là cảm xúc của tuổi trẻ bấy lâu nay.


Trong “Tương tư” có mong nhớ và buồn, có trách móc và giận hờn, nhưng chủ yếu là
vươn tới, là mơ ước, khát khao để anh và em, để cau thơn Đồi và giầu khơng thơn
Đơng thắm lại, son sắt, thuỷ chung. Mọi mơ ước đều đẹp. Mơ ước về tình duyên hạnh
phúc lại càng đẹp. “Tương tư” thể hiện hồn thơ Nguyễn Bính: lãng mạn chân quê, man
mác hương đồng gió nội một thời quá vãng.


</div>

<!--links-->

×