Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Con người và nhân tố con người trong sự phát triển nền KT tri thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.29 KB, 12 trang )

Lời mở đầu
Trong lịch sử t tởng nhân loại đà từng tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau
xung quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất của con ngời. Trớc Các Mác, vấn đề
bản chất con ngời cha đợc giải đáp một cách khoa học. Khi hình thành quan niệm
duy vật về lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đà khẳng định vai trò cải tạo
thế giới, làm nên lịch sử của con ngời. Bằng sự phát triển sự phát triển toàn diện
thì con ngời vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển lực lợng sản xuất. Khi lực lợng sản xuất càng phát triển thì khả năng chiếm lĩnh và sử dụng các lực lợng tự
nhiên ngày càng cao hơn, con ngời tạo ra ngày càng nhiều hơn cơ sở vật chất cho
bản thân mình, đồng thời từ đó thúc đẩy con ngời tự hoàn thiện chính bản thân họ.
Với quan điểm nh vậy thì chủ nghĩa Mác đà kết luận: con ngời không chỉ là
chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển
của lực lợng sản xuất, mà nó còn là chủ thể của quá trình lịch sử, của tiến bộ xÃ
hội. Đặc biệt khi xà hội loài ngời phát triển đến trình độ nền kinh tế tri thức thì vai
trò của con ngời đặt biệt quan trọng, vì con ngời tạo ra tri thøc míi, chøa dùng
nh÷ng tri thøc míi.
ë níc ta, tõ đại hội Đảng lần thứ III đến nay Đảng ta luôn xác định công

nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ.Muốn thoát khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu, nâng cao đời sống nhân dân...thì không còn con đờng nào
khác là chúng ta phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa -hiện đại hóa. Để làm
đợc nh vậy thì một vấn đề cần đợc đặt lên hàng đầu đó là vấn đề phát triển lực lợng sản xuất, nâng cao kỹ thuật, công nghệ, và trong đó đặc biệt là phát triển
nguồn nhân lực.
ĐÃ có rất nhiều ngành, môn khoa học nghiên cứu về vấn đề con ngời đây đợc
coi là vấn đề thiết thực nhất đòi hỏi sự phát triển toàn diện nhất trên nhiều lĩnh
vực, tuy nhiên trong khuôn khổ bài viết này chúng ta chỉ đề cập tới một khía cạnh
đó là: Vận dụng quan điểm triết học Mác về bản chất của con ngời để phân
tích tầm quan trọng của nhân tố con ngêi trong nÒn kinh tÕ tri thøc”

1



I. Quan điểm của Mác Lênin về bản chất con ngêi
1.1 Con ngêi lµ mét thùc thĨ thèng nhÊt giữa mắt sinh vật với mặt xà hội.
Triết học Mác ®· kÕ thõa quan niƯm vỊ con ngêi trong lÞch sử triết học,
đồng thời khẳng định con ngời hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và
yếu tố xà hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con ngời là sản phẩm của giới tự
nhiên. Con ngời tự nhiên là con ngời mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu
tố sinh học trong con ngời là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con ngời.
Vì vậy, giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con ngời. Con ngời là một bộ phận
của tự nhiên.
Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con ngời là sản phẩm của
quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con ngời phải tìm mọi
điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên nh thức ăn, nớc uống,
hang động để ở. Đó là quá trình con ngời đấu tranh với thiên nhiên, với thú dữ để
sinh tồn. Trải qua hàng chục vạn năm, con ngời đà thay đổi từ vợn thành ngời,
điều đó đà đợc chứng minh trong các công trình nghiên cứu của Đácuyn. Các giai
đoạn mang tính sinh học mà con ngời đà trải qua từ sinh thành, phát triển đến mất
đi quy định bản tính sinh học trong đời sèng con ngêi. Nh vËy con ngêi tríc hÕt lµ
mét tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con ngời sống, là tổ chức cơ
thể của con ngời và mối quan hệ của nó với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc
điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên
bản chất sinh học của cá nhân con ngời.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải yếu tố duy nhất
quyết định bản chất con ngời. Đặc trng quy định sự khác biệt giữa con ngời với thế
giới loài vật là mặt xà hội. Trong lịch sử đà có những quan niệm khác nhau phân
biệt con ngời với loài vật, nh con ngời là động vật sử dụng công cụ lao động, là
một động vật có tính xà hội, hay con ngời là động vật có t duy Những quan
niệm này đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất
con ngời mà cha nêu lên đợc nguồn gốc bản chất xà hội Êy.


2


Với phơng pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con ngời một cách toàn diện, cơ thĨ, trong toµn bé tÝnh hiƯn thùc x· héi của nó, mà trớc
hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất.
C.Mác và Ph.Ăngghen đà nêu lên vai trò của lao động sản xuất ở con ngêi:
“Cã thĨ ph©n biƯt con ngêi víi sóc vËt, b»ng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng
bất cứ cái gì cũng đợc. Bản thân con ngời bắt đầu bằng viƯc tù ph©n biƯt víi sóc
vËt ngay tõ khi con ngời bắt đầu sản xuất ra những t liệu sinh hoạt của mình - đó
là một bớc tiến do tổ chức cơ thể của con ngời quy định. Sản xuất ra những t liệu
sinh hoạt của mình, nh vậy, con ngời đà gián tiếp sản xuất ra đời sống vật chất của
mình.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con ngời đà làm thay đổi, cải biến
toàn bộ giới tự nhiên: Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con ngời thì tái
sản xuất ra toàn bộ giíi tù nhiªn”.
TÝnh x· héi cđa con ngêi biĨu hiƯn trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt
động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xà hội của con ngời. Thông
qua hoạt động sản xuất, con ngời tạo ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời
sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và t duy; xác lập quan hệ xà hội.
Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xà hội của con ngời,
đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xà hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xà hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con ngời luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhng
thèng nhÊt víi nhau. HƯ thèng c¸c quy lt tự nhiên nh quy luật về sự phù hợp cơ
thể với môi trờng, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóaquy
định phơng diện sinh học của con ngời. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình
thành và vận động trên nền tảng sinh học của con ngời nh hình thành tình cảm,
khát väng, niỊm tin, ý chÝ. HƯ thèng c¸c quy lt xà hội quy định quan hệ xà hội
giữa ngời với ngời.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động tạo nên thể thống nhất trong đời

sống con ngời bao gồm cả mặt sinh học và mặt xà hội. Mối quan hệ giữa sinh học
và xà hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cÇu x· héi

3


trong đời sống con ngời nh nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xà hội; nhu
cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hởng các giá trị tinh thần.
Với phơng pháp duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt
sinh học với mặt xà hội cũng nh nhu cầu sinh học và nhu cầu xà hội trong mỗi con
ngời là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con ngời, còn mặt xÃ
hội là đặc trng bản chất để phân biệt con ngời với loài vật. Nhu cầu sinh học phải
đợc nhân hóa để mang giá trị văn minh con ngời, và đến lợt nó, nhu cầu xà hội
không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với
nhau, hòa quyện vào nhau để tạo thành con ngời viết hoa, con ngời tù nhiªn – x·
héi.
1..2. Trong tÝnh hiƯn thùc cđa nã, bản chất con ngời là tổng hòa những
quan hệ xà hội
Từ những quan niệm đà trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con ngời vợt
lên thế giới loài vật trên cả ba phơng diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan
hệ với xà hội và quan hệ với chính bản thân con ngời. Cả ba mối quan hệ ®ã, suy
®Ðn cïng, ®Òu mang tÝnh x· héi, trong ®ã quan hệ xà hội giữa ngời với ngời là
quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong
chừng mực liên quan đến con ngời.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xà hội của con ngời, C.Mác đà nêu lên một
mệnh đề nổi tiếng Luận cơng về Phơbách: Bản chất con ngời không phải một cái
trừu tợng cố hữu của cá nhân riêng biƯt. Trong tÝnh hiƯn thùc cđa nã, b¶n chÊt con
ngêi là tổng hòa những mối quan hệ xà hội.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con ngời trừu tợng, thoát ly mọi
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xà hội. Con ngời luôn luôn cụ thể, xác định, sống

trong một ®iỊu kiƯn lÞch sư cơ thĨ nhÊt ®Þnh, mét thêi đại nhất định. Trong điêu
kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con ngời tạo ra những giá trị
vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và t duy trí tuệ. Chỉ trong
toàn bộ các mối quan hệ xà hội đó ( nh quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ
chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xà hội) con ngời mới bộc lộ toàn
bộ bản chÊt x· héi cđa m×nh.

4


Điều cần lu ý là luận điểm trên khẳng định bản chất xà hội không có nghĩa
là phủ định mặt tự nhiên trong đời sống con ngời; trái lại, điều đó muốn nhấn
mạnh sự phân biệt giữa con ngời với thế giới động vật trớc hết là ở bản chất xà hội
và đấy cũng là để khắc phục thiếu sót của các nhà triết học trớc Mác không thấy
đợc bản chất xà hội của con ngời. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ
biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là cái duy nhất; do đó cần phải thấy đợc các biểu hiện riêng phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong cách,
nhu cầu và lợi ích của mỗi cá nhân trong cộng đồng xà hội.
Con ngời là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xà hội thì không tồn tại con
ngời. Bởi vậy con ngời là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới
hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con ngời luôn luôn là chủ thể của lịch
sử xà hội. C.Mác đà khẳng định: Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng
con ngời là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục cái học thuyết ấy
quên rằng chính bản thân nhà giáo dục cũng cần phải đợc giáo dục. Trong tác
phẩm Biện chứng của tự nhiên. Ph.Ăngghen cũng cho rằng: Thú vật cũng có một
lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhng
lịch sử ấy không phải do chúng lµm ra vµ trong chõng mùc mµ chóng tham dù vào
việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và cũng không
phải do ý muốn của chúng. Ngợc lại, con ngời càng cách xa con vËt, hiĨu theo
nghÜa hĐp cđa tõ nµy bao nhiêu thì con ngời lại càng tự mình làm ra lịch sử một

cách có ý thức bấy nhiêu.
Nh vậy, với t cách là một thực thể xà hội, con ngời hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử xà hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự
nhiên. Con ngời thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong
phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của
mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con ngời cũng làm ra lịch sử của mình.
Con ngời là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính bản thân con ngời, vừa là phơng thức để làm biến đổi đời sống và bé mỈt x·
5


hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xà hội, con ngời thông qua hoạt động
vật chất và tinh thần, thúc đẩy xà hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục
tiêu và nhu cầu do con ngời đặt ra. Không có hoạt động của con ngời thì cũng
không tồn tại quy luật xà hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xÃ
hội loài ngời.
Không có con ngời trừu tợng, chỉ có con ngời cụ thể trong mỗi giai đoạn
phát triển nhất định của lịch sử xà hội. Do vậy, bản chất con ngời, trong mối quan
hệ với điều kiện lịch sử xà hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho
phù hợp. Bản chất con ngời không phải là một hệ thống đóng kín, mà là một hệ
thống mở, tơng ứng với điều kiện tồn tại của con ngời. Mặc dù là tổng hòa các
quan hƯ x· héi”, con ngêi cã vai trß tÝch cùc trong tiến trình lịch sử với t cách là
chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con ngời cũng vận động biến đổi cho
phù hợp. Có thể nói rằng mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tơng
ứng (mặc dù không trung khắp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con ngời.
Vì vậy, để phát triển bản chất con ngời theo hớng tích cực, cần phải làm cho
hoàn cảnh ngày càng mang tính ngời nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ
môi trờng tự nhiên và xà hội tác động đến con ngời theo khuynh hớng phát triển

nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hớng giáo dục.
Thông qua đó con ngời tiếp cận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại
hoàn cảnh trên nhiều phơng diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử ,
hành vi con ngêi, sù ph¸t triĨn cđa phÈm chÊt trÝ t và năng lực t duy, các quy
luật nhận thức hớng con ngời và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử
xà hội loài ngời.
1.3 Sự phát triển x· héi loµi ngêi trong nỊn kinh tÕ tri thøc
Trong thời gian 150 năm, từ năm 1750 đến 1900 (thời kỳ của cách mạng
công nghiệp), chủ nghĩa t bản và công nghệ đà chinh phục toàn thế giới và tạo ra
một nền văn minh thế giới mới. Nét mới quan trọng của t bản và các phát triển
công nghệ trong thời kỳ này là nhịp độ lan truyền và ảnh hởng có tính toàn cầu
của chúng đối với nhiều nền văn hóa, giai cấp và khu vực địa lý. Nhịp độ và phạm
vi đó đà biến t bản thành chủ nghĩa t bản, và biến những tiến bộ về khoa học
công nghệ thành cuộc Cách mạng công nghiệp. Chủ nghĩa t bản và Cách mạng
6


công nghiệp do nhịp độ và quy mô của chúng - đà tạo ra một nền văn minh thế
giới mới.
Sự chuyển đổi này đà đợc thúc đẩy bởi những thay đổi căn bản về ý nghĩa
tri thức. ở cả phơng Đông và phơng Tây trớc đây, tri thức đợc quan niƯm lµ phơc
vơ cho chÝnh nã. Nhng sau mét khoảng thời gian ngắn, tri thức đà đợc áp dụng vào
tổ chức lao động, trở thành một nguồn lực có giá trị sử dụng và trở thành một loại
hàng hóa công cộng.
Sự biến đổi ý nghĩa của tri thức trải qua 3 giai đoạn:
Trong giai đoạn đầu (khoảng 100 năm), tri thức đợc áp dụng cho các công
cụ sản xuất, phơng pháp sản xuất và sản phẩm. Điều này tạo ra cuộc Cách mạng
công nghiệp đồng thời cũng tạo ra điều mà Marx gọi là các giai cấp mới, các cuộc
đấu tranh giai cấp và gắn liền với chúng là Chủ nghĩa cộng sản.
Trong giai đoạn thứ hai, bắt đầu từ khoảng cuối thể kỷ 19 và kết thúc vào

Chiến tranh thế giới thứ 2, tri thức đợc áp dụng cho tổ chức lao động. Giai đoạn
này tạo ra cuộc Cách mạng năng suất trong 75 năm và chuyển những ngời vô sản
trở thành tầng lớp trung lu với thu nhập gần với tầng lớp thợng lu.
Giai đoạn cuối cùng thì tri thức đang đợc áp dụng cho chính bản thân tri
thức. Đó là cuộc cách mạng quản lý. Tri thức trở thành một nhân tố sản xuất, làm
giảm vai trò của cả vốn là lao động. Có thể là hÊp tÊp khi nãi r»ng chung ta hiƯn
nay ®ang ë trong “x· héi tri thøc”- hiƯn nay chóng ta míi chØ cã mét nỊn kinh tÕ
tri thøc. Nhng râ rµng xà hội của chúng ta hiện nay đà là xà hội hậu t bản
Các phát minh trong thời trớc cách mạng công nghiệp (chẳng hạn nh kính
mắt) cũng đà đợc lan trun rÊt nhanh nhng chóng ta chØ g¾n víi một ngành, nghề
thủ công hoặc một ứng dụng cụ thể nào đó. Những phát minh trong thời cách
mạng công nghiệp (chẳng hạn nh động cơ hơi nớc) nhanh chóng đợc ứng dụng
trên diện rộng và tác động đến tất cả các ngành, nghề thủ công.
Chúng ta hiểu rằng những sự kiện lịch sử trọng đại bắt nguồn không chỉ từ
một nguyên nhân duy nhất và một cách giải thích duy nhất mà thờng là kết quả
hội tụ của nhiều tiến triển riêng rẽ và độc lập. Có thể lấy ví dụ về việc phát triển
máy tính phải dựa vào rất nhiều phát minh khoa học trớc đó.

7


Tuy nhiên, có một nhân tố rất quan trọng mà không có nó thì t bản và tiến
bộ kỹ thuật có lẽ không thể có tác động lan truyền mang tính xà hội và rộng khắp
đến thế trên thế giới. Đó là sự thay đổi căn bản ý nghĩa của tri thức vào những năm
1700 và một thời gian ngắn sau đó.
Vào thời kỳ Plato (những năm 400 trớc công nguyên) có 2 học thuyết ở phơng Đông và 2 học thuyết ở phơng Tây về ý nghĩa và chức năng của tri thức. Nhà
hiền triết Socrates, ngời phát ngôn của phái triết học Plato, cho rằng chức năng của
tri thức là vì chính tri thức: sự phát triển tri thức, đạo đức và tinh thần của cá nhân.
Địch thủ của ông ta, nhà triết học Protagoras lại cho rằng mục đích của tri thức là
làm cho ngời có tri thức có thể hiểu đợc những gì cần phải nói và làm thế nào để

nói chúng. Theo Protagoras, tri thức có nghĩa là logich, ngữ pháp và hừng biện (tu
từ).
ở phơng Đông cũng có hai học thuyết tơng tự về tri thức. Đối với Khổng
giáo, tri thức là biết đợc những gì cần nói và làm thế nào để nói chúng là con đờng
dẫn tới tiến bộ và thành công trên trần thế. Theo Đạo LÃo và phái Thiền (Phật
giáo) thì tri thức là vi tri thức, và là con đờng đi đến sự thông thái và khôn ngoan.
Khác với những ngời đơng thời của mình của mình ở phơng Đông, tức là
những ngời theo Khổng giáo ở Trung Quốc, những ngời coi thờng bất cứ những gì
không thuộc nghiên cứu sách vở, cả Socrates lẫn Protagoras đều coi trọng kỹ thuật
(techne) mặc dù cả hai ông này đều cho rằng kỹ thuật không phải là tri thức dù nó
có đáng khâm phục đến đâu. Kỹ thuật gắn với một ứng dụng cụ thể và không có
tính nguyên tắc để áp dụng cho tất cả các trờng hợp.
Nền tảng tạo ra 3 giai đoạn của tri thức Cách mạng công nghiệp, Cách
mạng năng suất, và Cách mạng quản lý là sự thay đổi về căn bản ý nghĩa của tri
thức. Chúng ta đà chuyển từ chỗ tri thức là số ít lên tri thức là số nhiều.
Tri thức theo kiểu truyền thống là một thức chung chung. Còn tri thức bây
giờ là những kiến thức cần thiết cực kỳ chuyên sâu.
Khác với cách hiểu về tri thức trong thời kỳ Plato nh đà nói ở trên, tri thức
bây giờ đợc hiểu là tri thức thông minh cho chính nó trong hoạt động. Cái mà bây
giờ chúng ta hiểu về tri thức chính là thông tin thực tế đối với hoạt động, thông tin

8


nhấn mạnh đến kết quả. Những kết quả này nằm ngoài một cá nhân- nằm trong
một xà hội và một cộng đồng.
Để có thể thực hiện đợc công việc, tri thức phải có tính chuyên môn hóa
cao. Đây chính là lý do giải thích tại sao trớc đây ngời ta lại coi tri thức chuyên
sâu có vị trí tầm thờng nh kỹ thuật và kỹ xảo. Nó không học đợc cũng không dạy
đợc; nó cũng không có một nguyên tắc chung nào. Nhng ngày nay, chúng ta

không gọi những tri thức chuyên sâu này là bí quyết, chúng ta nói đó là những
môn học. Đây chính là một sự thay đổi lớn hơn bất cứ sự thay đổi nào trong lịch
sử tri thức.
Mỗi môn học sẽ chuyển một bí quyết thành một phơng pháp luận, sẽ
chuyển từng kinh nghiệm riêng lẻ thành một hệ thống và chuyển giai thoại thành
thông tin. Mỗi môn học sẽ chuyển các kỹ năng thành các thứ có thể dậy và học đợc.
Bớc chuyển từ đơn tri thức lên đa tri thức đà làm cho tri thøc cã søc m¹nh
t¹o ra mét x· héi míi. Nhng xà hội này phải đợc xây dựng trên những tri thức có
tính chuyên sâu, và những con ngời có tri thức nh là một chuyên gia. Nó cũng đặt
ra những câu hỏi cơ bản về giá trị, về nhân sinh quan, về niềm tin, về tất cả mọi
thứ làm cho xà hội gắn kết với nhau và làm cho cc sèng cđa chóng ta cã ý
nghÜa.
II. Nh©n tè con ngời trong quá trình phát triển kinh tế ở
Việt Nam

2.1 Vai trò của con ngời đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam
Sự thành công của quá trình phát triển kinh tế ở nớc ta đòi hỏi ngoài môi
trờng chính trị ổn định, phải có những nguồn lùc cÇn thiÕt nh : nguån lùc con ngêi, vèn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý... Các nguồn
lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau cùng tham gia vào quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa nhng với mức độ khác nhau trong đó nguồn lực con ngời là yếu
tố quyết định.
Vai trò nguồn lực con ngời quan trọng nh thế nào đà đợc chứng minh trong
lịch sử kinh tế của những nớc t bản phát triển nh Nhật Bản, Mỹ.
9


Ngày nay, đối với những nớc lạc hậu đi sau, không thể phát triển nhanh
chóng nếu không tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật- công nghệ hiện đại
của các nớc phát triển. Nhng không phải cứ nhập công nghệ tiên tiến bằng mọi giá
mà không cần tính đến yếu tố con ngời, còn nhớ rằng công nghệ tiên tiến của nớc

ngoài khi đợc tiếp thu sẽ phát huy tác dụng tốt hay bị lÃng phí thậm chí bị phá
hoại là hoàn toàn phụ thuộc vào hành vi của con ngời khi sử dụng chúng. Đó là
một điều rất đáng lu ý.
Nh mọi quốc gia khác trên thế giới, sự nghiệp phát triển kinh tế ở Việt Nam
cũng phải phơ thc vµo ngn lùc con ngêi vµ do ngn lực này quyết định. Bởi
những lí do sau:
Thứ nhất, các nguồn lực khác nh vốn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa
lý... chỉ tồn tại dới dạng tiềm năng chúng, chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích
cực khi đợc kết hợp với nguồn lực con ngời thông qua hoạt động có ý thức của con
ngời. Bởi lẽ con ngêi lµ nguån lùc duy nhÊt biÕt t duy có trí tuệ và có ý chí, biết lợi
dụng các nguồn lực khác và gắn kết chúng lại với nhau, tạo thành một sức mạnh
tổng hợp cùng tác động vào quá trình CNH-HĐH phát triển kinh tế. Các nguồn lực
khác đều là khách thể chịu sự cải tạo và khai thác của con ngời, vì thế cho nên hết
thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích con ngời nếu họ biết cách tác động và
chi phối. Do đó trong các yếu tố cấu thành lực lợng sản xuất, ngời lao động là yếu
tố quan trọng nhất, là lực lợng sản xuất hàng đầu của nhân loại.
- Thứ hai, các nguồn khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi
đó nguồn lực con ngời là vô tận. Nó không chỉ tái sinh và tự sinh sản về mặt sinh
học mà còn tự đổi mới không ngừng nếu biết chăm lo, bồi dỡng và khai thác hợp
lí. Đó là cơ sở làm làm cho năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con ngời phát triển không ngừng, nhờ vậy con ngời đà biết làm chủ tự nhiên, khám phá
ra nhiều nguồn tài nguyên mới, phát minh ra nhiều công cụ sản xuất hiện đại hơn,
đa xà hội chuyển từ thấp đến cao.
- Thứ ba, trí tuệ con ngời có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó đợc vật thể
hóa, trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển nh vũ bÃo của cuộc cách
mạng khoa học kĩ thuật và công nghiệp hiện đại đang dẫn nền kinh tế của các nớc
công nghiệp phát triển và vận động đến nền kinh tế của trí tuệ. Gìơ đây sức mạnh

Ti bn FULL (file word 23 trang): bit.ly/2Ywib4t
Dự phòng: fb.com/KhoTaiLieuAZ


10


của trí tuệ đà đạt đến mức mà nhờ nó con ngời có thể sáng tạo ra những ngời máy
bắt chớc hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con ngời. Rõ ràng
là bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con ngời làm
ra mà ngày nay nhân loại đợc chứng kiến nhiều biến đổi thần kỳ trớc cả quá trình
phát triển của mình.
- Thứ t, kinh nghiệm nhiều nớc và thực tiễn của chính nớc ta cho thấy sự
thành công của phát triển kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đờng lối
chính sách cũng nh cách tổ chức thực hiện của con ngời. Cơ cấu lao động cần cho
quá trình phát triển kinh tế phải bao gồm : các chính khách, các nhà hoạch định
chính sách, các học giả, các nhà kinh doanh, nhà kỹ thuật và công nghệ, các công
nhân lành nghề...Nếu không có các nhà chính khách, các học giả thì khó có thể có
đợc những chiến lợc những chính sách phát triển đúng đắn. Nếu không có các nhà
kinh doanh thì cũng sẽ không có những ngời sử dụng một cách có hiệu quả các
nguồn vốn nhân lực công nghệ. Sự thiếu vắng, kém cỏi của một trong các bộ phận
cấu thành nhân lực trên sẽ có hại cho quá trình phát triển kinh tế đất nớc.
Qua toàn bộ phân tích trên đây, ta cã thĨ ®i ®Õn kÕt ln r»ng ngn lùc con
ngêi có vai trò quyết định cho sự thành công của quá trình phát triển kinh tế đất nớc. Do vậy, muốn phát trriển kinh tế thành công thì phải đổi mới cơ bản các chính
sách đầu t cho các ngành khoa học, văn hóa, y tế, giáo dục ở Việt Nam nhằm phát
triển nguồn lực con ngời. Đây là nhiệm vụ lớn nhất và cũng đợc coi là khó khăn
nhất trong công cuộc đổi mới hiện nay.
2.2. Thực trạng của vấn đề đào tạo, sử dụng và phát triển con ngời ở Việt
Nam.
Xét về mặt tổng thể mà nói thì sau 10 năm thực hiện CNH-HĐH, chúng ta đÃ
đi những bớc vững chắc và quan trọng, tạo tiền đề cho quá trình phát triển sau này.
Con đờng đi lên chủ nghĩa xà hội ngày càng đợc xác định rõ hơn. Nhng nhìn lại
nguồn lực con ngời Việt Nam chúng ta không khỏi băn khơăn lực lợng lao động
tuy dồi dào, cần cù, sáng tạo song chất lợng còn hạn chế, sự bất hợp lý về phân

công lao động, khó khăn về phân bố dân c. Theo thống kê năm 1989 cho thấy ;
nguồn lao động phân bố không đồng đều giữa các ngành các vùng :80%ở nông
Ti bn FULL (file word 23 trang): bit.ly/2Ywib4t
Dự phòng: fb.com/KhoTaiLieuAZ

11


thôn ,70%làm trong lĩnh vực nhà nớc; 14% sống, làm việc trong khu vực nhà nhà
nớc ; 10% lao động tiểu thủ công nghiệp; 90% lao động thủ công.
Do năng suất lao động thấp nên tình trạng thiếu việc làm vẫn diễn ra thờng
xuyên cả ở thành thị và nông thôn, cả số lao động trong khu vực nhà nớc và quốc
doanh.
Theo một số nhận định thì trong những năm đầu của thế kỷ này tình trạng d
thừa lao động vÉn diƠn ra. Lao ®éng ë níc ta chđ u là lao động phổ thông, lao
động nhàn rỗi trong nông nghiệp công nhân phần biên chế... Song do nhu cầu
CNH, HĐH yêu cầu con ngời lao động phải có tay nghề, có chuyên môn thì vấn
đề việc làm một nan giải.
Trong quá trình CNH, HĐH đất nớc hiện nay đang cần nhiều lao động có trí
tuệ, có thể coi đây là điều kiện để đảm bao cho sự phát triển bền vững, nhanh
chóng nền kinh tế.
Trong một số năm gần đây trí thức Việt Nam phát triển nhanh cả về số lợng
và chất lợng. Hiện nay cả nớc có khoản trên 80 vạn trí thức đà đóng góp rất lớn
trong quá trình xây dựng đất nớc. Song so với yêu cầu thực tế của quá trình CNH,
HĐH thì con số đó quả là khiêm tốn và chất lợng còn hạn chế.
Không những thế, đội ngũ tri thức ở nớc ta còn phân bố không đều phần lớn
tập trung ở các thµnh phè lín nh Hµ Néi... vµ mét sè trung tâm công nghiệp khác.
Điều đó là do tác động của cơ chế thị trờng đối với sự phân công lao động trong cả
nớc. Do chính sách đầu t không đảm bảo cân đối giữa các ngành, giữa các vùng
nhất là vùng cao, vùng sâu, vùng xa. ở những vùng này rất ít trí thức mà nếu có thì

chất lợng rất hạn chế do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chđ quan do u tè
t©m lý cđa ngêi d©n téc nên việc bồi dỡng, nâng cao việc giáo dục đào tạo lại cha
đợc chú ý một cách thoả đáng.
Trong khi số ngời đợc đào tạo giảm thì số sinh viên tốt nghiệp, đại học, cao
đẳng, không tìm đợc việc làm lại tăng lên theo thống kê cha đầy đủ thì từ năm
1988 đến nay số sinh viên tốt nghiệp ở các trờng đại học, cao đẳng ở khu vực Hà
Nội cha tìm đợc việc làm tăng dần từ 13,4% lên 35,38* đến nay khoảng 40%.
Việc số sinh viên tốt nghiệp cha tìm đợc việc làm là do một số ngành đào tạo cha
đợc cơ chế thị trờng châps nhận.
1896

12



×