Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

BÀI TIỂU LUẬN CUỐI kỳ tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.37 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGUYỄN TRÃI

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
CHUYÊN ĐỀ
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG
XÂY DỰNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CHO THẾ HỆ TRẺ HIỆN NAY

HỌ VÀ TÊN: VŨ NGỌC ANH
MÃ SINH VIÊN: 1853111020
LỚP : K18NNN

HÀ NỘI - 2021


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU

Trong tiến trình phát triển của nhân loại, xã hội lồi người đã khơng ngừng
phát triển về mọi mặt mà đặc biệt là về đạo đức. Hàng loạt các lý thuyết về đạo đức
đã ra đời nhằm điều chỉnh mối quan hệ, hành vi của con người trong xã hội. bằng
tài chí và sự ham học hỏi, Hồ Chí Minh đã tìm tịi, học hổi và tiếp thu rất nhiều tư
tưởng đạo dứcđể rồi Người đã đúc kết ra cho chính mình một hệ tư tưởng, một
quan niệm về đạo đức, và để lại giá trị to lớn cho thế hệ con người việt nam hiện
nay. Hệ tư tưởng về đạo đức của Hồ Chí Minh đã được đảng, Nhà nước và nhân
dân học tập, tiếp thu và vận dụng vào thực tiễn đời sống và từ đó đưa ra các bài
dạy, bài học cho các thế hệ sau nhằm mục đích điều chỉnh hành vi của con người
việt Nam. Đặc biệt vấn đề đạo đức của thế hệ trẻ, thanh niên hiện nay đang rất


được quan tâm và là một vấn đề đặt lên hang đầu trong tiến trình phát triển xã
hooiju và phát triển đất nước. Đảng và nhà nước đã ra nhiều quyết sách, định
hướng phát triển thanh niên thời kì đổi mới, hội nhập quốc tế. Nhận thấy vấn đề
vận dụng tư tưởng Hồ chí Minh về Đạo đức trong việc xây dựng và tu dưỡng đạo
đức cho thế hệ trẻ hiện nay là cần thiết và cấp bách hiện nay vậy nên em chọn việc
nghiên cứu và phân tích vấn đề này và từ đó đưa ra cái nhìn tổng quan về quan
niệm của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và vận dụng xây dựng, tu dưỡng đạo
đức cho thế hệ trẻ hiện nay.
Để hiểu rõ và tổng quan về nội dung vấn đề vận dung tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức trong việc xây dựng và tu dưỡng đạo đức thế hệ trẻ hiện nay thông qua
2 mục sau:
1. Một số vấn đề lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đạo đức trong xây dựng, tư dưỡng đạo
đức cho giới trẻ hiện nay

3


PHẦN NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1 khái niệm đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức học
đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp
cổ đại.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) - lề thói, (moralis
nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Cịn “ln lí” thường xem như đồng
nghĩa với “đạo đức” thì gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos nghĩa là lề thói; tập tục. Hai
danh từ đó chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến những lề thói tập
tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người trong sự giao tiếp với
nhau hàng ngày. Sau này người ta thường phân biệt hai khái niệm, moral là đạo

đức, còn Ethicos là đạo đức học.
Ở phương đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại bắt
nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những phạm trù quan
trọng nhất của triết học trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi,
về sau khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên.
Đạo còn có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội.
Khái niệm đạo đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và từ đó trở
đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến nhân
đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc
luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ đại chính là những
yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh
cách đánh giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với
xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh của truyền thống
và sức mạnh của dư luận xã hội.
Trong định nghĩa này có mấy điểm cần chú ý sau:
Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội,
phán ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội.
4


Xã hội học trước Mác không thể giải quyết một cách khoa học vấn đề nguồn
gốc và thực chất của đạo đức. Nó xuất phát từ “mệnh lệnh của thượng đế”, “ý niệm
tuyệt đối, lý tính trừu tượng”, bản tính bất biến của lồi người,…chứ khơng xuất
phát từ điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, từ quan niệm xã hội hiện thực xã
hội để suy ra toàn bộ lĩnh vực tư tưởng trong đó có tư tưởng đạo đức.
Theo Mác và Ăngghen, trước khi sáng lập các thứ lý luận và nguyên tắc bao
gồm cả triết học và luân lí học, con người đã hoạt động, tức là đã sản xuất ra các tư
liệu vật chất cần thiết cho đời sống. Ý thức xã hội của con người là phản ánh tồn

tại xã hội của con người. Các hình thái ý thức xã hội khác nhau tuỳ theo phương
thức phản ánh tồn tại xã hội và tác động riêng biệt đối với đời sống xã hội. Đạo
đức cũng vậy, nó là hình thái ý thức xã hội phản ánh một lĩnh vực riêng biệt trong
tồn tại xã hội của con người. Và cũng như các quan điểm triết học, chính trị, nghệ
thuật, tơn giáo điều mang tính chất của kiến trúc thượng tầng. Chế độ kinh tế xã
hội là nguồn gốc của quan điểm này thay đổi theo cơ sở đã đẻ ra nó. Ví dụ: Thích
ứng với chế độ phong kiến, dựa trên cơ sở bóc lột những người nông nô bị cột chặt
vào ruộng đất là đạo đức chế độ nơng nơ. Thích ứng với chế độ tư bản, dựa trên cơ
sở bóc lột người cơng nhân làm thuê là đạo đức tư sản. Chế độ xã hội chủ nghĩa tạo
ra một nền đạo đức biểu hiện mối quan hệ hợp tác trên tình đồng chí và quan hệ
tương trợ xã hội chủ nghĩa của những người lao động đã được giải phóng khỏi ách
bóc lột. Như vậy, sự phát sinh và phát triển của đạo đức, xét đến cùng là một quá
trình do sự phát triển của phương thức sản xuất quyết định.
- Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài người
đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người: phong tục, tập
quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức…Đối với đạo đức, sự đánh giá hành vi con
người theo khuôn khép chuẩn mực và qui tắc đạo đức biểu hiện thành những khái
niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Bất kỳ trong thời đại
lịch sử nào, người ta cũng đều được đánh giá như vậy. Các khái niệm thiện ác,
khuôn khép và qui tắc hành vi của con người thay đổi từ thế kỷ này sang thế kỷ
khác, từ dân tộc này sang dân tộc khác. Và trong xã hội có giai cấp thì bao giờ
cũng biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất định. Những khuôn khép (chuẩn mực)
và qui tắc đạo đức là yêu cầu của xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho
hành vi mỗi cá nhân. Nó bao gồm hành vi của cá nhân đối với xã hội (đối với tổ
quốc, nhà nước, giai cấp mình và giai cấp đối địch…) và đối với người khác.
Những chuẩn mực và quy tắc đạo đức nhất định được công luận của xã hội, hay
5


một giai cấp, dân tộc thừa nhận. Ở đây quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ của

mình đối với xã hội và đối với người khác (khuôn khép hành vi) là tiền đề của
hành vi đạo đức của cá nhân. Đã là một thành viên của xã hội, con người phải chịu
sự giáo dục nhất định về ý thức đạo đức, một sự đánh giá đối với hành vi của mình
và trong hồn cảnh nào đó cịn chịu sự khiển trách của lương tâm…Cá nhân phải
chuyển hóa những địi hỏi của xã hội và những biểu hiện của chúng thành nhu cầu,
mục đích và hứng thú trong hoạt động của mình. Biểu hiện của sự chuyển hóa này
là hành vi cá nhân tuân thủ những ngăn cấm, những khuyến khích, những chuẩn
mực phù hợp với những địi hỏi của xã hội…Do vậy sự điều chỉnh đạo đức mang
tính tự nguyện, và xét về bản chất, đạo đức là sự lựa chọn của con người.
- Đạo đức là một hệ thống các giá trị.
Giá trị là đối tượng của giá trị học (giá trị học phân loại các hiện tượng giá trị
theo quan niệm đã được xây dựng nên một cách truyền thống về các lĩnh vực của
đời sống xã hội, các giá trị vật chất và tinh thần, các giá trị sản xuất, tiêu dùng, các
giá trị xã hội – chính trị, nhận thức, đạo đức, thẩm mỹ, tơn giáo). Đạo đức là một
hiện tượng xã hội, mang tính chuẩn mực: mệnh lệnh, đánh giá rõ rệt.
Các hiện tượng đạo đức thường biểu hiện dưới hình thức khẳng định, hoặc là
phủ định một hình thức chính đáng, hoặc khơng chính đáng nào đó. Nghĩa là nó bài
tỏ sự tán thành hay phản đối trước thái độ hoặc hành vi ứng xử của các cá nhân,
giữa cá nhân với cộng đồng trong một xã hội nhất định. Vì vậy, đạo đức là một nội
dung hợp lệ thống trị xã hội. Sự hình thành phát triển và hồn thiện hệ thống trị
đạo đức khơng tách rời sự phát triển và hồn thiện của ý thức đạo đức và sự điều
chỉnh đạo đức. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với sự phát triển, tiến bộ, thì
hệ thống ấy có tính tích cực, mang tính nhân đạo. Ngược lại, thì hệ thống ấy mang
tính tiêu cực, phản động, phản nhân đạo.
1.2 Nội dung tư tưởng Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng, từ
rất sớm và xuyên suốt cuộc đời cách mạng của mình. Cuốn sách Đường cách
mệnh năm 1927 không phải là một chuyên luận về vấn đề đạo đức cách mạng,
nhưng ở trang đầu cuốn sách. Người đã nêu lên hai mươi ba điều về tư cách một
người cách mạng, giải quyết ba mối quan hệ: Với mình, với người, với việc.

Những thập kỷ bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, Người đều có những bài viết ngắn
6


gọn, súc tích về đạo đức cách mạng. Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Đảng ta
là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên
và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội
vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Người coi đạo đức như gốc của cây, như nguồn của sơng, cũng như sơng thì
có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài
giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc,
giải phóng cho lồi người là một cơng việc to tát mà tự mình khơng có đạo đức,
khơng có căn bản, tự mình đã hủ hố, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì?” Vai trị nền
tảng của đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh khẳng định: “Làm cách mạng để
cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là
một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức
có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Đạo đức trở thành nhân tố quyết định sự thành bại của mọi công việc, phẩm chất
mỗi con người: “Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuận
đạo đức cách mạng, hay là khơng”, “Tuy năng lực và cơng việc mỗi người có khác
nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách
mạng đều là người cao thượng”. Người từng khẳng định: “Chúng ta đem tinh thần
mà chiến thắng vật chất”. Chỉ nhìn về vật chất, chỉ nhìn ở hiện tượng, chỉ lấy con
mắt hẹp hịi mà xem, thì khơng giải thích được thắng lợi của ta đối với kẻ thù lớn
mạnh. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta theo chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng ta khơng

những nhìn vào hiện tại mà lại nhìn vào tương lai, chúng ta tin chắc vào tinh thần
và lực lượng của quần chúng, của dân tộc. Cho nên chúng ta quả quyết trả lời
những người lừng chừng và bi quan kia rằng:
“Nay tuy châu chấu đấu voi,
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”
Đạo đức cịn “có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành một xã hội
mới và xây dựng mỹ tục thuần phong”. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó
7


khăn gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…, khi gặp thuận lợi và
thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”…, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần,
không quan liêu, khơng kiêu ngạo khơng hủ hố”.
1.3 Những phẩm chất cơ bản của đạo đức cách mạng
Trung với nước, hiếu với dân
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, được Chủ tịch Hồ
Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Trung với nước là trung thành
vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát triển đất nước, làm cho đất nước
“sánh vai với các cường quốc năm châu”. Nước là của dân, dân làm chủ đất nước,
trung với nước là trung với dân, vì lợi ích của nhân dân, “bao nhiêu quyền hạn đều
của dân”; ‘‘bao nhiêu lợi ích đều vì dân”... Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán
bộ nhà nước vừa là người lãnh đạo, vừa là “đày tớ trung thành của nhân dân”.
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng.
Người dạy, mỗi cán bộ đảng viên phải “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân
dân”, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”. Trung với nước, hiếu với dân là
phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân
tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân
hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan điểm

của Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng, đất nước.
Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình
u thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ
truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân
loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm
chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá
nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội.
Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm
khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với
những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm. Yêu thương con người
là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy, phải thực hiện tự phê
8


bình và phê bình, chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm
để không ngừng tiến bộ. Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu
tranh giải phóng con người.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là nền tảng của đời sống mới, là phẩm
chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, là
mối quan hệ “Với tự mình”. Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức
tính của con người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương. Chí cơng vơ tư là đặt
lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải trọng lợi ích của
cách mạng hơn tính mệnh của mình. Phải hy sinh lợi ích của mình cho Đảng; việc
của cá nhân và lợi ích của cá nhân để lại sau. Theo Bác, chí cơng vơ tư là đạo đức
cao nhất.
Muốn chí cơng vơ tư thì phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân. Bởi vậy,
Hồ Chí Minh coi đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người “giữ cán cân cơng
lý”, khơng được vì lịng riêng mà chà đạp lên pháp luật.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí cơng vơ tư.

Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí cơng vơ tư. Ngược lại, đã chí cơng vơ tư,
một lịng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm,
chính.
Tinh thần quốc tế trong sáng
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế là sự mở rộng những
quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì
Người là “người Việt Nam nhất”, đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam
mang tầm vóc nhân loại, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong
trào cộng sản quốc tế.
Quan niệm đạo đức về tình đồn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể
hiện trong các điểm sau: Đồn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu
chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Đồn kết quốc tế
giữa những người vơ sản tồn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn phương vơ sản
đều là anh em”. Đồn kết với nhân loại tiến bộ vì hịa bình, cơng lý và tiến bộ xã
hội. Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân
9


chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ
nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc...
1.4 Nguyên tắc xây dựng đạo đức
Hồ Chí Minh nêu lên ba nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong xã hội
và chính Người đã suốt đời khơng mệt mỏi tự rèn mình làm tấm gương để giáo
dục, động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện.
Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đơi với việc làm. Nói đi đơi với làm trước
hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, của
lãnh đạo với nhân viên... là rất quan trọng. Người yêu cầu, cha mẹ làm gương cho
các con, anh chị làm gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu, lãnh đạo làm
gương cho cán bộ, nhân viên... Đảng viên phải làm gương trước quần chúng.

Người nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản”
mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo
đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt
chước”.
Xây đi đôi với chống
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp,
nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với những
yêu cầu của đạo đức mới, chống “chủ nghĩa cá nhân”. Xây đi đôi với chống là
muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
thì phải chống chủ nghĩa cá nhân.
Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục, từ gia
đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải
được cụ thể hố. Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với
từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng
là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh của mọi người, để mọi người nhận thức
được và tự giác thực hiện. Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết
phải chống chủ nghĩa cá nhân, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn
chặn.

10


Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào
quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động
cuộc thi đua “ba xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc tốt” để tuyên truyền,
giáo dục về đạo đức, lối sống.
Phải tu dưỡng đạo đức suối đời
Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện
bền bỉ mới thành. “Đạo đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố". Cũng như ngọc càng

mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Người dạy: “Một dân tộc, một đảng
và mỗi con người, ngày hơm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định
hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng
trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Tu dưỡng đạo đức, tự rèn luyện hằng ngày có vai trị rất quan trọng. Người
khắng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có
thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, khơng tự
lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở,
cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt
động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối
quan hệ của mình.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đạo đức trong xây dựng, tư dưỡng
đạo đức cho giới trẻ hiện nay.
Để xây dựng và tu dưỡng đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay thì con đường duy
nhất là giáo dục về đạo đức cho thế hệ trẻ( thanh niên).
2.1. Giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên trong tư tưởng Hồ Chí
Minh chính là cơng cuộc xây dựng và tu dưỡng đạo đức
Một là, chỉ rõ vị trí, vai trị của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng của
dân tộc.
Trong thời gian hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đã trực tiếp thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên vào tháng
5/1925 tại Quảng Châu, Trung Quốc để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt
11


Nam nhằm thức tỉnh nhân dân, nhất là lực lượng thanh niên đứng lên đấu tranh
cách mạng. Người chỉ rõ: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất,
nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”. Qua đó, có thể thấy
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy sức mạnh to lớn từ lớp
thanh niên có thể gánh vác, đảm đương sự nghiệp cách mạng; là lực lượng đông

đảo, luôn xung kích, sáng tạo, đi đầu trong mọi lĩnh vực nếu vai trò của họ được
coi trọng và phát huy. Người chỉ rõ: “Tính trung bình, thanh niên chiếm độ 1 phần
3 tổng số nhân dân - tức là một lực lượng to lớn” và “thanh niên là bộ phận quan
trọng của dân tộc”.
Hai là, đưa ra những nội dung, hình thức, biện pháp để giáo dục, bồi dưỡng
đạo đức cách mạng cho thanh niên.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho
thanh niên cần được tiến hành toàn diện sâu sắc, nhưng phải có trọng tâm, trọng
điểm, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, vì đây là
cội nguồn đạo đức cách mạng của thanh niên. Người nhấn mạnh: “Trong việc giáo
dục và học tập phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ cách mạng
xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kinh tế, lao động và sản xuất”. Học tập, nghiên cứu chủ
nghĩa Mác - Lênin giúp cho thanh niên sống có tình, có nghĩa hơn, biết hy sinh
phấn đấu cho lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; có
lịng u nước, tinh thần đồn kết; đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư;
khơng ham địa vị công danh và phú quý, chớ kiêu ngạo và tự mãn… Người khẳng
định: “Thanh niên phải luôn luôn rèn luyện đạo đức cách mạng. Đạo đức cách
mạng có thể tóm tắt trong mấy điểm:
- Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc,
với Đảng, với giai cấp.
- Dũng cảm: Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện: “Đâu cần thanh niên có,
việc gì khó thanh niên làm”, “gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi người”.
- Khiêm tốn: Không nên tự cho mình là tài giỏi, khơng khoe cơng, khơng tự
phụ”.

12


Về hình thức, biện pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ việc tự giác, không
ngừng tu dưỡng phấn đấu rèn luyện là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để

thanh niên sửa đổi những khuyết điểm, sai lầm trong cuộc sống, trong công việc.
Người nhấn mạnh: “Thanh niên phải xung phong đến những nơi khó khăn gian khổ
nhất, nơi nào người khác làm ít kết quả, thanh niên phải xung phong đến làm cho
tốt..., phải xung phong đến những nơi khó khăn để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Xung phong là đi trước, làm trước để lôi cuốn quần chúng chứ không phải là xa rời
quần chúng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng phê phán mạnh mẽ những thanh niên không chịu
học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng, chỉ lo cho bản thân, ham chơi, ham vui,
không quan tâm, lo lắng đến đồng bào, đất nước, tham lam vật chất, ham sung
sướng, xa xỉ, kiêu ngạo, lười lao động… Vì vậy, Người đã đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ
cho thanh niên giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng thống nhất không tách rời
nhau giữa nghĩa vụ và quyền lợi, trong đó nghĩa vụ là yếu tố đặt lên hàng đầu,
thanh niên phải xác định tốt nhiệm vụ với Tổ quốc, với Đảng và với Nhân dân.
Người chỉ rõ: “Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã làm cho
mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế
nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu
chừng nào”.
2.2 Thực trạng việc xây dựng và tu dưỡng thông qua giáo dục đạo đức cách
mạng cho thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã kế thừa, vận
dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh để giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên, đáp ứng với địi hỏi của tình hình cách mạng đặt ra ở mỗi giai đoạn,
thời kỳ khác nhau. Trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, lớp lớp
thanh niên đã không quản hy sinh, chiến đấu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc,
hạnh phúc cho Nhân dân; không ngại khó khăn, vất vả trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn phát triển mới của
đất nước, cấp ủy đảng và người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương đã quán
triệt sâu sắc quan điểm, đường lối về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công
tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
triển khai nhiều chương trình, dự án, như Dự án tuyển chọn 600 trí thức trẻ ưu tú,

13


có trình độ đại học tăng cường về làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; Đề án thí
điểm tuyển chọn trí thức trẻ tình nguyện về các xã nghèo tham gia phát triển nơng
thơn, miền núi… Qua đó, nhiều thanh niên đã trở thành nguồn cán bộ có chất
lượng; những doanh nhân trẻ thành đạt, những gương điển hình tiên tiến trong
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên theo tư tưởng Hồ
Chí Minh vẫn cịn một số hạn chế: một số cấp ủy và người đứng đầu cơ quan, đơn
vị, địa phương chưa thật sự chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên; cịn nặng về hình thức, chưa chú trọng đến nội dung, đi sâu vào những
vấn đề đặt ra cần tập trung giáo dục cho thanh niên, như: ý chí, khát vọng vươn lên
trong cơng việc, cuộc sống, tình u thương với quê hương, đất nước; kỹ năng
sống; hoạt động thực tiễn; khả năng chịu đựng những khó khăn, vất vả ở vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới của thanh niên vẫn chưa nhiều, chủ yếu chọn nơi sinh
sống, làm việc có nhiều thuận lợi, điều kiện về cơ sở vật chất, kinh tế; một số thanh
niên thiếu tu dưỡng phấn đấu rèn luyện, học tập, sống buông thả, thờ ơ, bàng quan
với bản thân, gia đình và xã hội; thậm chí có nhiều thanh niên vi phạm pháp luật.
2.3. Một số kiến nghị về xây dựng và tu dưỡng đạo đức cho thế hệ trẻ nhằm
nâng cao hiệu quả thông qua việc giáo dụng đạo đức cho thế hệ thanh niên hiện
nay.
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm về tầm quan trọng của việc giáo dục
đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo đó, các cấp ủy đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và gia đình phải thường xun qn triệt, nhận
thức rõ thanh niên là lực lượng quan trọng của xã hội, lực lượng kế cận, bổ sung
cho cách mạng Việt Nam. Cần chú trọng tuyên truyền, giáo dục, xây dựng thanh
niên trở thành những người “vừa hồng”, “vừa chuyên” để họ nhận thấy rõ vị trí,
vai trị to lớn của mình, từ đó đặt ra những u cầu cao cho bản thân trong quá

trình phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.
Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 của Hội nghị Trung ương lần thứ
bảy, khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đã nhấn mạnh: “Thanh niên là rường
cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong
14


xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng
chủ nghĩa xã hội”.
Vì vậy, cấp ủy và người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức Đồn các cấp phải
chủ động nắm bắt tình hình chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của thanh niên
thuộc quyền quản lý của mình, xây dựng kế hoạch, chương trình rèn luyện đạo đức
cách mạng cho phù hợp với từng địa bàn, khu vực; quá trình tuyên truyền, giáo dục
phải gắn với nhiệm vụ chính trị của từng thanh niên, trên từng cương vị chức trách,
nhiệm vụ được giao; phải hướng đến xây dựng hình mẫu thanh niên của thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước “tâm trong, trí sáng, hồi bão
lớn”.
Hai là, đa dạng hóa các nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục đạo đức
cách mạng cho thanh niên.
Giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là công việc lâu dài,
thường xuyên, liên tục. Do đó, nội dung giáo dục cần tập trung vào những vấn đề
thiết thực, cụ thể đặt ra hiện nay mà thanh niên đang còn thiếu như: cách ứng xử,
giao tiếp của thanh niên với mọi người xung quanh, với người thân và với chính
bản thân mình; ni dưỡng ước mơ, khát vọng, hồi bão trong cơng việc, cuộc
sống, quyết tâm thực hiện bằng chính khả năng của bản thân; sống có tình thương,
trách nhiệm với gia đình, người thân và xã hội; nắm rõ chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phong tục, truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, địa phương; thể hiện rõ quan điểm, thái độ với các quan điểm sai trái, bịa đặt,

phản động đi ngược lại với lợi ích của Đảng, của đất nước, của Nhân dân…
Hình thức, biện pháp giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên cần linh
hoạt, sáng tạo; không rập khuôn, thụ động, căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ, đặc điểm
ở mỗi khu vực, địa bàn đưa ra hình thức, biện pháp cho phù hợp. Với đặc điểm lứa
tuổi, tâm lý của thanh niên hiện nay cần kết hợp giữa giáo dục chung và giáo dục
riêng; giữa truyền thống với hiện đại; giữa mệnh lệnh hành chính với giáo dục
thuyết phục; đưa thanh niên vào hoạt động thực tiễn, mạnh dạn, tin tưởng giao
nhiệm vụ cho thanh niên… Những hình thức, biện pháp trên cần được triển khai
thực hiện thông qua sinh hoạt ở mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương nơi thanh niên
đang trực tiếp sinh sống, làm việc; thông qua thực hiện các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng nơng thơn mới, xóa đói giảm nghèo, giữ gìn trật tự an
15


tồn xã hội; thơng qua các phong trào thi đua yêu nước; gương người tốt, việc tốt,
nhân rộng điển hình tiên tiến trong thanh niên…
Ba là, phát huy tính tích cực, chủ động của thanh niên trong tự rèn luyện đạo
đức cách mạng.
Mỗi thanh niên cần chủ động, tích cực học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh, đặc biệt là tinh thần, ý chí vượt khó, tự rèn luyện, học
tập ở mọi lúc, mọi nơi; bản thân thấy yếu mặt nào thì tập trung vào học tập, nghiên
cứu, tự hoàn thiện bản thân; chủ động xây dựng kế hoạch học tập, rèn luyện một
cách toàn diện đầy đủ, trong đó tập trung rèn luyện đạo đức cách mạng; đặt ra
những yêu cầu cho bản thân trong quá trình tự giáo dục đạo đức cách mạng;
thường xuyên đối chiếu, so sánh kế hoạch tự phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện của bản
thân với yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương, từ đó có những điều
chỉnh, bổ sung cho hợp lý; phối hợp chặt chẽ với các bộ phận, lực lượng trong quá
trình tự giác tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng của thanh niên.
Mặt khác, cần tích cực, chủ động tham gia vào các hoạt động xã hội, phù hợp
với môi trường, điều kiện cơng tác; tự đấu tranh với chính bản thân mình trong quá

trình rèn luyện đạo đức cách mạng, khơng vì những khó khăn, thất bại trước mắt
mà nản lịng, nhụt ý chí, khơng có động cơ, mục tiêu phấn đấu; càng ở trong tình
huống khó khăn, thử thách càng phải tỏ rõ bản lĩnh vững vàng, bình tĩnh, kiên định
đưa ra phương hướng giải quyết hợp lý, hiệu quả.
Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên vẫn còn nguyên giá trị. Trong bối cảnh đất nước đang ngày càng hội
nhập quốc tế sâu rộng với nền khoa học và kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay,
thanh niên Việt Nam càng cần phải trau dồi cho mình đạo đức cách mạng, có khả
năng thích ứng với sự phát triển của xã hội, có tư duy đột phá, vững bước vượt qua
mọi khó khăn, xứng đáng với niềm tin và sự kỳ vọng của Đảng và Nhân dân đối
với mình. Với nhiệt huyết, nghị lực, ý chí vươn lên mạnh mẽ và đang được sống
trong môi trường hồ bình, đổi mới, phát triển của đất nước, thanh niên Việt Nam
nhất định sẽ nêu cao tinh thần tiên phong, bản lĩnh, đồn kết, sáng tạo góp phần
cùng tồn Đảng, toàn quân, toàn dân giữ vững và phát huy các thành quả cách
mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

16


PHẦN KẾT LUẬN
Thơng qua việc phân tích và nghiên cứu vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức trong xây dựng, tu dưỡng đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay đã đưa
ra các các khái niệm về đạo đức, nội dung của tư tưởng Hồ Chí minh về đạo đức và
vận dụng vào việc xây dựng , tu dưỡng đạo đức cho thé hệ trẻ ( thế hệ thanh niên).
Bằng ác luận điểm của Hồi Chí Minh về Đạo đức và đặc biệt là đạo đức về cách
mạng đã đưa ra cho thế hệ trẻ nhiều bài học vận dụng và từ đó điều chỉnh hành vi,
mối quan hệ xã hội hướng tới phát triển về xã hội và con người. Việc xây dựng và
tu dưỡng đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay chủ yếu chính là việc thực hiện cơng cuộc
giáo dục về đạo đức. Việc giáo dục đạo đức cần phải đươch nghiên cứu và vận
dụng và giảng dạy, học tập và hướng tiếp cận sao cho phù hợp với thế hệ trẻ mà

không bị mất đi gái trị tư tưởng gốc nhưng vẫn phải văn minh và nhân văn. Một xã
hội càng phát triển, nột đát nước càng hùng mạnh thigf viueevj tu duyongwx đạo
đực là việc hông thể thiếu đối với một quốc gia và Việt Nam cũng vây.
Tóm lại, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đã để lại cho Việt Nam nhiều giá
trị sâu sắc và quý giá. Ngày nay Đảng và Nhà nước đang không ngừng học tập và
vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức để đưa ra các chủ trương, đường
lối và chính sách nhằm xây dựng và phát triển đạo đức cho thế hệ trẻ, một đất nước
giàu mạnh và văn minh thì phải có nền tẳng đạo đức vũng trắc và con người phải
có đạo đức để sử dụng đạo đức vào đời sống xa hooiuj và hướng tới mục tiêu phát
triển bền vững.

HẾT

17



×