Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.87 KB, 25 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Nguyễn Dữ (?-?) là 1 văn sĩ, người xã Đỗ Tùng, huyện
Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Ông là
con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, tiến sĩ khoa Bính Thìn,
niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa
chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Chưa
rõ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với
Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học Phùng Khắc Khoan, tức
là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán
nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn là Truyền Kỳ mạn lục .
Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý
tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến,Nguyễn
Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ tri huyện
Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì vì bất mãn với thời cuộc
ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh
Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Đối
với nhà Mạc, Nguyễn Dữ có thái độ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Ơng khơng làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và
ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại.
<b>2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác</b>
<b>2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác</b>
Theo những tư liệu được biết cho đến nay Truyền Kỳ mạn lục
là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ . Sách gồm 20 truyện, chia
làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ . Cốt truyện chủ yếu
lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường
hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn
còn. Truyền kỳ mạn lục (nghĩa là Sao chép tản mạn những truyện
lạ) là 1 tập truyện của nhà văn Nguyễn Dữ, được in trong khoảng
năm 1768 .
Dù là sao chép những truyện lạ nhưng không phải 1 công trình
sưu tập mà là 1 sáng tác văn học .
Sau có bản Nơm là Truyền Kỳ mạn lục giải âm .
<b>2.2. Sự nghiệp sáng tác:</b>
<b>2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác</b>
<b>2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác</b>
<b>NỘI DUNG KHÁI QUÁT</b>
<b>NỘI DUNG KHÁI QUÁT</b>
<b>A. Cơ sở hình thành</b>
<b>A. Cơ sở hình thành</b>
<b>B. Quá Trình Phát Triển</b>
<b>B. Quá Trình Phát Triển</b>
Thơ Nơm được hình thành trên cơ sở là chữ Nơm, với các
thể thơ điển hình là lục bát, song thất lục bát, tứ tuyệt,
Đường luật…
Chữ Nơm là gì ?
Phạm Huy Hổ trong "Việt Nam ta biết chữ Hán từ đời
nào?" thì cho rằng chữ Nơm có từ thời Hùng Vương .Văn
Đa cư sĩ Nguyễn Văn Sang lại cho rằng chữ Nơm có từ
thời Sĩ Nhiếp cuối đời Đông Hán thế kỉ 2. Nguyễn Văn
Tố dựa vào hai chữ "bố cái" trong danh xưng "Bố Cái đại
vương" do nhân dân Việt Nam suy tơn Phùng Hưng mà
cho rằng chữ Nơm có từ thời Phùng Hưng thế kỷ 8. Ý
kiến khác lại dựa vào chữ "cồ" trong quốc hiệu “Đại Cồ
Việt" để cho rằng chữ Nơm có từ thời Đinh Tiên Hồng .
Trong một số nghiên cứu vào thập niên 1990, các học giả căn cứ vào đặc
điểm cấu trúc nội tại của chữ Nôm, dựa vào cứ liệu ngữ âm lịch sử tiếng
Hán và tiếng Việt, so sánh đối chiếu hệ thống âm tiếng Hán và tiếng Hán
Việt đã đi tới kết luận rằng âm Hán Việt (âm của người Việt đọc chữ
Hán) ngày nay bắt nguồn từ thời nhà Đường-nhà Tống thế kỷ 8-9. Và
nếu âm Hán Việt có từ thời Đường, Tống thì chữ Nôm không thể ra đời
trước khi cố định cách đọc Hán Việt (nếu xét chữ Nôm với tư cách hệ
thống văn tự) và chỉ có thể ra đời sau khoảng thể kỷ thứ 10 khi người
Việt thốt khỏi nghìn năm Bắc thuộc với chiến thắng của Ngô
Quyền vào năm 938 .
Bước sang thời kỳ tự chủ bắt đầu vào thế kỷ 10 chữ Nôm được hoàn
chỉnh dần và mãi đến thế kỷ 13-15 mới phát triển mạnh mẽ trong văn
chương .
<b>Trước thế kỷ 15:</b>Một số di tích còn lưu lại dấu vết chữ
Nôm trước thế kỷ 15 nhưng số lượng không nhiều ngồi vài
văn bia. Tuy nhiên có thuyết cho rằng một tác phẩm quan
trọng là tập <i>Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh</i> đã
ra đời vào thời nhà lý khoảng thế kỷ 12.
<b>Thế kỷ 15-17</b>
Thời kỳ này phần lớn thi văn lưu truyền biết tới nay là
thơ Hàn luật bát cú hoặc tứ tuyệt. Một số là trước tác cảm
hứng riêng như:Quốc âm thi tập ( Nguyễn Trãi), <i>Hồng </i>
<i>Đức Quốc âm thi tập</i> (Lê Thánh Tông), <i>Bạch Vân âm thi </i>
<i>tập</i> (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
<b>Thế kỷ 18-19</b>
Thơ Hàn luật của những thế kỷ kế tiếp càng uyển
chuyển, lối dùng chữ càng tài tình, hóm hỉnh như thơ
của Hồ Xuân Hương hay Bà Huyện Thanh Quan. Ngược
lại thể thơ dài như Ai tư vãn của Ngọc Hân công
chúa cùng thể song thất lục bát trong Chinh phụ
ngâm của Đoàn Thị Điểm lưu danh những nữ sĩ biệt tài
thời trước. Riêng <i>Chinh phụ ngâm</i> được xem là một tuyệt
tác, có phần trội hơn nguyên bản chữ Nho.
<b>Thế kỷ 19-20</b>
Thời kỳ cuối của chữ Nôm xuất hiện nhiều tác phẩm thi
ca theo thể hát nói như của Nguyễn Khuyến,Chu Mạnh
Trinh, Tú Xương v.v. Những thể cũ song thất lục bát (Ai
tư vãn của Bắc Cung Hoàng Hậu) và lục bát (các truyện
<b>Câu cá mùa thu</b>
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
<b>Nguyễn Khuyến</b>
<b>Thể loại chính :</b>
<b>1. THƠ NƠM “HÀN LUẬT”</b>
Thơ Nôm “Hàn luật” (cải biến từ hai thể “thất ngôn tứ
tuyệt” và “thất ngôn bát cú” của thể thức thơ Đường) đã
xuất hiện từ thời sơ khai, có thể bắt đầu từ Hàn Thuyên.
Song ngày nay chỉ có thể nhận diện thể thơ này qua các tác
Đàn, và sau đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm.
蓮 花
<b>Liên hoa (Hoa sen)</b>
淋 洳 拯 变 <b>/</b> 卒 和 清
<i> Lầm nhơ chẳng bén, tốt hòa thanh</i><b> </b>
君 子 困 堪 <b>/ </b> <sub>特 所名</sub>
<i>Quân tử khôn kham được thửa danh</i><b> </b>
闧 媫 香 <b>/ </b> 店 月 凈
<i>Gió đưa hương, đêm nguyệt tạnh</i><b> </b>
貞 乄 晫 <b>/ </b> <sub>固 埃 爭</sub>
<i>Riêng làm của, có ai tranh</i><b> </b>
<i> Nguyễn Trãi</i>
<b>2. THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT</b>:
Là lối thơ viết bằng chữ Nôm theo Đường luật, có cả
những bài tuân thủ chặt chẽ theo Đường luật hoặc cả
những bài phá cách .
Lối thơ Đường luật Việt hóa này đã khơng được các thế hệ
thi nhân đời sau kế thừa và phát huy. Từ thế kỷ XVII trở đi
văn đàn Việt Nam hầu như vắng bóng các bài thơ Nơm
“phá cách” như vậy (trừ một số bài tương truyền là của Hồ
Xuân Hương, mang sắc thái trào phúng theo lối dân gian),
thay vào đó là những bài thơ chữ Nôm tuân thủ nghiêm
chỉnh cách luật thơ Đường
Trích một khổ thơ mở đầu tác phẩm <i>Chinh phụ ngâm khúc</i> (theo bản khắc
AB.26, năm 1902):
糓 俼 坦 常 欺 陿 桙
<i>Nhẽ trời đất thường khi gió bụi</i>
客 紅 餒 迍 邅 牤 蜫
<i>Khách má hồng nhiều nỗi truân chiên</i>
籑 箕 深 瀋 層 珕
<i>Xanh kia thăm thẳm tầng trên</i>
為 埃 蔐 孕 朱 餒 尼 戼
<i>Vì ai gây dựng cho nên nỗi này</i>
(Nguyên tác Hán văn của Đặng Trần Côn:
天 地 風 塵 <b>.</b> 紅 顏 多 迍
Thiên địa phong trần, hồng nhan đa truân
悠 悠 彼 蒼 兮 誰 造 因
Du du bỉ thương hề, thùy tạo nhân)
<i>Tự Tình</i>
<i>Canh khuya văng vẳng tiếng canh dồn, </i>
<i>Trơ cái hồng nhan với nước non. </i>
<i>Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, </i>
<i>Vừng trăng bóng xế khuyết chưa trịn. </i>
<i>Xiên ngang mặt đất rêu từng đám, </i>
<i>Đâm toạc chân mây đá mấy hòn. </i>
<i>Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại, </i>
<i>Mảnh tình san sẻ tí con con.</i>
<i> Hồ Xn Hương</i>
Ngồi ra cịn nhiều thể loại văn học chữ Nơm ở Việt Nam
như <b>DIỄN CA LỊCH SỬ với </b><i><b>Việt sử diễn âm </b></i>( 越 史
演 音 ),<i><b> Thiên Nam minh giám</b></i> ( 天 南 明 監 ),
<b>TRUYỆN NÔM với </b><i><b>Truyện Kiều </b></i>( 翹 傳 ),<i><b> Lục Vân. </b></i>
<i><b>Tiên</b></i> ( 陸雲 仙
Trích hai khổ đầu (4 câu) từ văn bản <i>Truyện Kiều </i>khắc in
năm 1871:
璏 憥 些
炧 瑉 圡
<i>Trăm năm trong cõi người ta</i>
岲 才 岲 命 窖 卥 饒唙
<i> Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau</i>
戈 沒 局 帀 盙
惐
<i>Trải qua một cuộc bể dâu</i>
仍 調 乑 僘 饢 獕 妿 峼
<i>Những điều trơng thấy đã đau đớn lịng</i>
C. Sự kết thúc:
Chữ Nơm được dùng song song với chữ Hán cho đến thế
kỷ 16 khi các nhà truyền đạo phương Tây vào Việt Nam,
họ đã dùng kí tự La Tinh để phiên âm tiếng Việt, và
chữ Quốc ngữ dựa trên kí tự La tinh được hình thành.
-Sau khi chữ Quốc ngữ (dùng mẫu tự La tinh) được phổ
biến vào đầu thế kỷ 20, chữ Nôm dần dần mai một. Mất vị
trí là phương tiện ghi chép, chữ Nơm tàn lụi dần trong bối
cảnh tiến trình Âu hóa ngày càng mạnh ở Việt Nam và
kéo theo sự mai một của thơ Nơm