Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

“Nâng cao hiểu biết pháp luật và hình thành kĩ năng sống cho học sinh THPT với vấn đề Fake news trên trang mạng Facebook”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.4 KB, 26 trang )

NHÓM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KĨ THUẬT TRƯỜNG NỘI TRÚ BẢO YÊN
KHOA HỌC HÀNH VI

KỊCH BẢN
PHIÊN TÒA GIẢ ĐỊNH
( Dựa trên phiên tịa có thật của Tịa án nhân dân huyện Phú Bình tỉnh Thái
Nguyên - Bản án số 22/2020/HS-ST Ngày 22/4/2020)
( Hướng dẫn hỗ trợ của chuyên gia: Bà Hoàng Thị Giang Thanh -Thẩm phán
TAND huyện Bảo Yên)

NĂM 2020
1


DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA DIỄN ÁN
* NHÓM TRƯỞNG :
* KỊCH BẢN DIỄN ÁN : Hoàng Thị Mai Hương
STT HỌ TÊN THÀNH VIÊN
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

VAI DIỄN
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa


Thư ký phiên tòa
Hội thẩm nhân dân
Hội thẩm nhân dân
Kiểm sát viên
Trợ giúp pháp lý cho bị cáo
Bị cáo
Người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan
CSHTTP
CSHTTP

2

GHI CHÚ


I. TÊN TỒ ÁN XÉT XỬ: TAND huyện Bình Phú, tỉnh Nguyên Thái
II. THÔNG TIN CHUNG
Chú ý:
+ Để đảm bảo tính súc tích, ngắn gọn dễ hiểu và phù hợp với đối tượng
cần tuyên truyền, diễn biến phiên toà đã chỉnh sửa cắt giảm một số nội dung tại
Quyết định xét xử, cáo trạng, bản án, phần thủ tục bắt đầu phiên toà và phần
tranh tụng. Các nội dung xét hỏi tập trung chủ yếu vào tuyên truyền, giải thích,
giảm bớt một số nội dung.
+ Phần tranh luận giữa VKS và người bào chữa mang tính chất tham
khảo, VKS và người bào chữa có thể bổ sung bài tranh luận riêng để sinh động
hơn.
1.Tóm tắt tình huống:
Trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2017, Phạm Văn H, sinh
năm 1998, nơi thường trú: xóm C, xã T, huyện P, tỉnh Ngun Thái có quan hệ

tình cảm với chị Nguyễn Thị T sinh năm 2005, nơi thường trú: Xóm X, xã T,
huyện P, tỉnh Nguyên Thái. Trong thời gian này, chị T có sử dụng tài khoản trên
Facebook cá nhân tên “Tocdep Thanhtinh” và đã cho H biết về mật khẩu của tài
khoản Facebook trên nên H có thể đăng nhập vào được. Sau đó H và chị T
khơng u nhau nữa, chị T cũng không thay đổi mật khẩu tài khoản Facebook
này nên H vẫn thường xuyên truy cập vào tài khoản Facebook “Tocdep
Thanhtinh”. Đến tháng 6/2019, H đã tự ý thây đổi địa chỉ đăng nhập từ số điện
thoại “0965325513”, mật khẩu là “Tinhvutru” thành số điện thoại
“0379699390”, mật khẩu là “Hainghiem123456789” và giữ nguyên tên
Facebook là “Tocdep Thanhtinh”, giữ nguyên ảnh đại diện là ảnh chụp của T và
những thông tin cá nhân khác của tài khoản và chỉ một mình H có thể truy cập
vào tài khoản này. Sau khi phát hiện tài khoản tên “Tocdep Thanhtinh” của mình
bị người khác chiếm đoạt quyền truy cập, chị Nguyễn Thị T đã sử dụng tài
khoản Facebook khác có tên “Thanhtinh tocdep” để đăng tải lên mạng xã hội
Facebook về việc tài khoản “Tocdep Thanhtinh” đã bị người khác chiếm đoạt và
chị T không sử dụng tài khoản đó nữa.
Do mỗi khi đăng nhập vào tài khoản của chị T, H thấy có nhiều người đàn
ơng nhắn tin tán tỉnh chị T nên H bực tức. Khoảng 13h45 phút ngày 10/4/2020,
lợi dụng tình hình dịch bệnh Covid-19 đang có diễn biến phức tạp tại Việt Nam
và trên tồn thế giới, Phạm Văn H đã sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu
OPPO F11 màu xanh đen, có cài đặt phần mềm ứng dụng Facebook và kết nối
Internet qua mạng wifi tại nhà mình đặng nhập vào tài khoản Facebook có tên
“Tocdep Thanhtinh” để đăng tải bài viết có nội dung sai sự thật liên quan đến
dịch bệnh Covid-19. Cụ thể, H đã soạn thảo bài viết có nội dung “Thơi xong rồi!
Ngun Thái mình đã có người chết do COVID mà Nhà nước mình lại giấu”,
kèm theo ảnh chụp một nón, một gậy tre, một đơi dép, trên ảnh có dịng chữ
“Mọi thứ đã sẵn sàng chỉ còn chờ ngày lành tháng tốt để xuất hành!” rồi đăng
tải bài viết và để ở chế độ công khai.
3



Ngay sau khi bài viết được đăng tải, đã có nhiều tài khoản Facebook khác
nhấn “Thích” và “Bình luận”. Khi được các tài khoản Facebook khác bình luận
hỏi về thơng tin đăng tải, H tiếp tục trả lời các bình luận và khẳng định nội dung
trong bài viết là đúng sự thật, người chết là nam giới, 27 tuổi có địa chỉ ở huyện
Bình Phú. Sau khi đăng tải bài viết trên khoảng 30 phút, H đã đăng xuất tài
khoản Facebook tên “Tocdep Thanhtinh” ra khỏi ứng dụng Facebook trên điện
thoại di động của mình, tuy nhiên bài viết vẫn để ở chế độ công khai. Đến
khoảng 10h ngày 11/4/2020, Phạm Văn H sử dụng điện thoại di dộng nhãn hiệu
OPPO F11 màu xanh đen của mình tiếp tục đăng nhập vào tài khoản Facebook
có tên “Tocdep Thanhtinh” và gỡ bài viết đã đăng tải nêu trên, ngay sau đó đăng
xuất tài khoản “Tocdep Thanhtinh” ra khỏi ứng dụng Facebook để tránh sự phát
hiện của cơ quan chức năng.
Khoảng 15 giờ ngày 10/4/2020, chị T nhận được thông tin của bạn bè và
người thân về việc tài khoản Facebook có tên “Tocdep Thanhtinh” đã đăng tải
nội dung có thơng tin sai sự thật về dịch bệnh Covid-19, nên chị T đã đến cơng
an xã huyện Khánh Tân, huyện Bình Phú trình báo, đề nghị xác minh làm rõ và
xử lý theo quy định của pháp luật.
Qua đấu tranh khai thác của cơ quan chức năng, Phạm Văn H khai nhận
do có mâu thuẫn với Nguyễn Thị T (sinh năm 2005, trú tại xã Khánh Tân, huyện
Phú Bình, tỉnh Nguyên Thái) nên đã sử dụng tài khoản Facebook có tên “Tocđep
Thanhtinh” chiếm đoạt của Nguyễn Thị T để đăng tải bài viết có nội dung sai sự
thật về dịch COVID-19 lên mạng xã hội Facebook nhằm mục đích để nhiều
người biết và nghĩ rằng chị Nguyễn Thị T là người đăng tải. Nếu bị phát hiện, cơ
quan chức năng sẽ xử lý chị Nguyễn Thị T theo quy định của pháp luật.
Ngày 22/4, Tịa án nhân dân huyện Bình Phú, tỉnh Ngun Thái tổ chức
phiên tịa hình sự sơ thẩm xét xử đối tượng Phạm Văn H (sinh năm 1998, trú tại
xã T, huyện P tỉnh Nguyên Thái) về tội “Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin
mạng máy tính, mạng viễn thông”, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 288 Bộ
luật Hình sự.

Phiên tịa phản ánh tình trạng thiếu hiểu biết về tin giả, thiếu hiểu biết về
luật an ninh mạng cũng như những quy định pháp luật về việc xử lý đăng, chia
sẻ tin giả của bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên gây những hậu quả nghiêm
trọng, ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm người khác; gây hoang mạng dư luận
xã hội và bản thân vướng vào pháp luật.

4


PHẦN THỦ TỤC BẮT ĐẦU PHIÊN TÒA
THƯ


(đứng)
Đề nghị những người có mặt trong phịng xử án trật tự, đề nghị mọi
người tắt điện thoại di động hoặc để điện thoại ở chế độ im lặng.
THƯ (đứng)

Sau đây tôi phổ biến nội quy phiên tòa.
Để đảm bảo cho phiên tòa diễn ra nghiêm túc và đúng quy định, TAND
huyện Bình Phú yêu cầu tất cả mọi người trong phòng xử án tuân thủ
tuyệt đối các quy định sau:
1. Mọi người vào phòng xử án phải mặc trang phục nghiêm túc,
chấp hành việc kiểm tra an ninh và thực hiện đúng hướng dẫn của Thư
ký Tòa án.
2. Mọi người trong phòng xử án phải tơn trọng Hội đồng xét xử,
giữ gìn trật tự và tuân theo sự điều hành của chủ tọa phiên tòa.
3. Mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy khi Hội đồng xét xử
vào phòng xử án và khi tuyên án. Bị cáo phải đứng khi Kiểm sát viên
công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố. Người được Tịa án triệu tập

đến phiên tịa muốn trình bày ý kiến phải được chủ tọa phiên tòa đồng
ý; người trình bày ý kiến phải đứng khi trình bày ý kiến, khi được
hỏi.Những người vì lý do sức khỏe có thể được chủ tọa phiên tòa cho
phép ngồi.
....
THƯ (đứng)
KÝ Đề nghị tất cả mọi người trong phòng xử án đứng dậy
Mời HĐXX vào phịng xử án.
THẨM Hơm nay ngày 22 tháng 4 năm 2020, TAND huyện Bình Phú, tỉnh
PHÁN Lạng Sơn tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự về tội “
Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn
thông” đối với Bị cáo: Phạm Văn H.
Thay mặt HĐXX tôi tuyên bố khai mạc phiên tòa.
Mời mọi người trong phòng xử án ngồi, bị cáo đứng tại chỗ.
Thay mặt HĐXX, tôi công bố quyết định đưa vụ án ra xét xử.

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
HUYỆN BÌNH PHÚ
Số: 22/2020/HSST-QĐ

Bình Phú, ngày 20 tháng 4 năm 2020

QUYẾT ĐỊNH
ĐƯA VỤ ÁN RA XÉT XỬ
TỒ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH PHÚ
- Căn cứ vào các Điều 45, 255 và 277 của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015;
- Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số
5



43/2020/HSST ngày 17 tháng 4 năm 2020.
QUYẾT ĐỊNH
I/ Đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo:
Phạm Văn H, tên gọi khác: Không, sinh ngày 5/2/1998;
Nơi ĐKHKTT, Xóm C, xã T, huyện B, tỉnh Nguyên Thái
Nghề nghiệp: Làm ruộng.
Bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Phú, tỉnh Lạng Sơn truy
tố về tội “ Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng
viễn thông” theo quy định điểm a khoản 1 điều 288 Bộ luật hình sự
năm 2015.
- Thời gian mở phiên toà: Hồi 07 giờ 30 phút ngày 22/4/2020.
- Địa điểm mở phiên tịa: Tịa án nhân dân huyện Bình Phú, tỉnh
Nguyên Thái.
Vụ án được xét xử công khai.
II/ Những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa gồm:
- Chủ toạ phiên tồ: Ơng/bà................................– Thẩm phán
TAND huyện Bình Phú.
- Các Hội thẩm nhân dân:
+ Ơng/Bà..................................– Chủ tịch UBMTTQ VN huyện
Bình Phú;
+ Ông/Bà ................................. – Chủ tịch Hội LHPN huyện
Bình Phú.
- Kiểm sát viên tham gia phiên tồ: Ơng/bà .............................. –
Kiểm sát viên VKSND huyện Bình Phú.
- Thư ký phiên tồ: Bà ...................................... – Cán bộ TAND
huyện Bình Phú, tỉnh Nguyên Thái
III/ Những người tham gia tố tụng:
* Bị cáo: Phạm Văn H, tên gọi khác: Không, sinh ngày

5/2/1998; Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Xóm C, xã T, huyện Bình Phú tỉnh
Ngun Thái; Nghề nghiệp: Làm ruộng.
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Nguyễn Thị
T, sinh năm 2005; trú tại: Xóm X, xã T huyện Bình Phú; tỉnh Ngun
Thái;
* Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn H: Trợ giúp viên pháp
lý.............................................................., sinh năm 1992; thuộc đoàn
luật sư tỉnh Nguyên Thái.
IV/ Vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa:
01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11, màu xanh đen,
số Emei 1: 869874044273058, số Emei 2: 869874044273041, máy cũ
6


đã qua sử dụng (Thu giữ của Phạm Văn H) được niêm phong trong
phong bì kí hiệu B1.
01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37, màu trắng
vàng đồng, số Emei 1: 864543032403135, số
Emei 2:
864543032403127, máy cũ đã qua sử dụng (Thu giữ của chị Nguyễn
Thị T) được niêm phong trong phong bì kí hiệu D1.
01 thiết bị phát sóng wifi của nhà mạng VNPT, có vỏ nhựa màu
trắng, trên thân thiết bị ghi số sêri 00513121F366947 (Thu giữ tại nhà
Phạm Văn H).
Các vật chứng tình trạng như biên bản giao nhận giữa Cơ quan
CSĐT CA H Bình Phú và Chi cục THADS huyện Bình Phú.
THẨM PHÁN
(đã ký)
.....................................
Tơi đã công bố xong QĐ đưa vụ án ra xét xử.

Cho bị cáo ngồi
(ngồi) Để đảm bảo phiên tòa diễn ra theo đúng các quy định của bộ
luật tố tụng hình sự, yêu cầu Thư ký báo cáo HĐXX về sự có mặt,
vắng mặt của những người được Tịa án triệu tập và lý do vắng mặt
(nếu có).
THƯ
(đứng)

Thưa HĐXX, những người được Tòa án triệu tập gồm:
Bị cáo: Phạm Văn H – có mặt
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: chị Nguyễn Thị T – có mặt;
Người bào chữa cho bị cáo: Trợ giúp viên pháp lý............................ –
có mặt
Báo cáo hết, mời HĐXX tiếp tục làm việc.
(ngồi xuống)
THẨM Sau đây, tôi giới thiệu những người tiến hành tố tụng tại phiên tịa ngày
PHÁN hơm nay:
- Tơi - Thẩm phán Chủ tọa phiên tịa: ........................................ – Thẩm
phán TAND huyện Bình Phú.
- Ngồi bên phải tơi là Hội thẩm nhân dân:Ơng/
Bà ................................– Chủ tịch UBMTTQVN huyện Phú Bình.
- Ngồi bên trái tơi là Hội thẩm nhân dân: Ơng/Bà ............................... –
CHủ tịch Hội LHPN VN huyện Phú Bình.
- Ngồi phía trước tơi là Thư ký ghi biên bản phiên tòa
bà ........................................- Cán bộ TAND huyện Phú Bình
- Ngồi phía bên phải bàn thư ký là Ông .................................. – Kiểm
7


THẨM

PHÁN

THẨM
PHÁN
BỊ CÁO

sát viên VKSND huyện Chi Lăng, thực hành quyền cơng tố và kiểm sát
xét xử tại phiên tịa ngày hôm nay.
Tôi phổ biến cách xưng hô như sau:
- Khi bị cáo trả lời HĐXX thì phải “Thưa HĐXX” hoặc “thưa Tòa” và
xưng “Bị cáo”.
- Những người tham gia tố tụng khác, khi trả lời HĐXX thì “Thưa
HĐXX” hoặc “thưa Tịa” và xưng “Tơi”.
Thay mặt HĐXX, tơi tiến hành kiểm tra căn cước của những người
được Tòa án triệu tập đến phiên tòa.
Yêu cầu bị cáo đứng lên trước bục khai báo.
H: Họ tên đầy đủ của bị cáo là gì, sinh ngày, tháng, năm nào?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo tên là Phạm Văn H, sinh ngày 5/2/1998
H: Ngoài tên gọi Phạm Văn H bị cáo cịn có tên gọi nào khác khơng?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo khơng cịn tên gọi nào khác.
H: Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở của bị cáo ở đâu?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo đăng ký HKTT và ở tại Xóm C, xã T huyện
Bình Phú tỉnh Nguyên Thái.
H: Bị cáo dân tộc gì? mang quốc tịch nước nào?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo dân tộc Kinh, quốc tịch Việt Nam
H: Bị cáo có theo tơn giáo nào khơng?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo không theo tôn giáo nào.
H: Nghề nghiệp của bị cáo là gì?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo làm ruộng.
H: Trình độ văn hóa của bị cáo?

Đ: Thưa HĐXX, bị cáo học hết lớp 6.
H: Bố, mẹ bị cáo tên là gì? Sinh năm nào? Còn sống hay đã chết?
Đ: Thưa HĐXX, bố bị cáo tên là Phạm Văn H, đã chết, mẹ Bị cáo tên
là Vàng Thị X sinh năm 1980, cịn sống.
H: Bị cáo đã có vợ con chưa?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo chưa có.
H: Bị cáo đã có tiền án, tiền sự gì chưa?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo chưa có tiền án, tiền sư.
H: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày nào? Tạm giam từ ngày nào?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo bị tạm giam từ ngày 16/4/2020,
Thay mặt HĐXX tơi giải thích quyền và nghĩa vụ của bị cáo:
Theo quy định tại Điều 29 BLTTHS: Tiếng nói và chữ viết dùng trong
tố tụng hình sự là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng
tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trường hợp này phải có người
phiên dịch.
H: Bị cáo có nghe và nói thành thạo tiếng Việt khơng?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo nghe và nói thành thạo tiếng việt ạ
Bị cáo có các quyền quy định tại Điều 61 BLTTHS
1. Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng thay đổi,
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ
8


vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các Quyết định tố tụng khác
theo quy định của luật TTHS.
H: Trước khi mở phiên tịa ngày hơm nay, bị cáo đã được giao nhận
cáo trạng của VKS, quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án chưa?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo đã nhận được cáo trạng của Viện kiểm sát,
quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án.
H: Bị cáo nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử từ ngày nào?

Đ: Thưa HĐXX, bị cáo nhận được từ ngày 17/4/2020.
2. Tham gia phiên tịa.
3. Được thơng báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều
này.
4. Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản,
người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng,
bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám
định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tịa.
H: Bị cáo có đề nghị thay đổi Thẩm phán, HTND, KSV, Thư ký Tịa
án khơng? Lý do của việc đề nghị thay đồi?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo không đề nghị thay đổi ai.
H: Bị cáo có đề nghị triệu tập thêm người làm chứng, người giám định
tham gia phiên tịa khơng?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo khơng đề nghị triệu tập thêm ai.
5. Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
H: Bị cáo có đưa ra chứng cứ tài liệu đồ vật gì thêm khơng?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo khơng đưa thêm tài liệu đồ vật gì.
6. Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá.
7. Tự bào chữa, nhờ người bào chữa.
H: Tại phiên tịa hơm nay, có trợ giúp viên pháp lý........................
người bào chữa cho bị cáo, bị cáo có đồng ý để trợ giúp viên pháp
lý ....................................................bào chữa cho mình hay khơng?
Đ: Thưa HĐXX, tơi có phải trả tiền cho người bào chữa không ạ? nếu
phải trả thì thơi ạ
H: Người bào chữa thực hiện bào chữa miễn phí cho bị cáo, bị cáo
khơng phải trả tiền
Đ: Thưa HĐXX, khơng phải trả tiền thì được ạ!

8. Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, khơng buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
9. Đề nghị chủ tọa phiên tịa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên
tịa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;
10. Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
11. Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào
biên bản phiên tòa;
9


THÂM
PHÁN
Người
có quyền
lợi và
nghĩa vụ
liên
quan 1

12. Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
13. Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng; và các quyền khác theo quy định của pháp
luật.
H: Bản án, quyết định tại phiên tịa ngày hơm nay sẽ được công bố trên
Cổng thông tin điện tử của Tịa án, bị cáo có đề nghị Tịa án không
công bố những nội dung liên quan đến bị mật cá nhân, bí mật gia đình
khơng?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo đề nghị Tịa án khơng cơng bố những nội dung
liên quan đến bị mật cá nhân, bí mật gia đình.
Sau đây tôi phổ biến nghĩa vụ của bị cáo: Bị cáo phải có mặt theo giấy

triệu tập của Tịa án. Trường hợp vắng mặt khơng vì lý do bất khả
kháng hoặc khơng do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải; nếu bỏ
trốn thì bị truy nã. Chấp hành quyết định, yêu cầu của Tòa án.
H: Bị cáo đã hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình chưa? Bị cáo có cần
giải thích gì thêm khơng?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo đã rõ quyền và nghĩa vụ của mình.
Cho bị cáo về chỗ ngồi.
Mời người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan 1 đứng dậy
H: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cho biết họ tên đầy đủ?
Sinh năm nào?
Đ: Thưa HĐXX, tôi tên là Nguyễn Thị T, sinh năm 2005
H: Ngồi tên trên Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có tên gọi
khác khơng?
Đ; Thưa HĐXX, tơi khơng có tên gọi khác.
H: Nơi ĐKHKTT và chỗ ở của chị ở đâu?
Đ: Thưa HĐXX, tơi có HKTT tại xóm X, xã T huyện Bình Phú, tỉnh
Nguyên Thái
H: Nghề nghiệp của chị là gì?
Đ: Thưa HĐXX, tôi đang là học sinh lớp 11 tại trường nội trú Huyện
Bình Phú.
Thay mặt HĐXX tơi phổ biến quyền và nghĩa vụ của người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan quy định tại Điều 199 BLTTHS như sau:
1. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thơng báo, bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Tòa án văn
bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và tài liệu,
chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập (nếu có). Trường
hợp cần gia hạn thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có
đơn đề nghị gia hạn gửi cho Tòa án nêu rõ lý do; nếu việc đề nghị gia
hạn là có căn cứ thì Tịa án phải gia hạn nhưng khơng q 15 ngày.
2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền u cầu Tịa án

10


THÂM
PHÁN
Người
có quyền
lợi và
nghĩa vụ
liên
quan 2

cho xem, ghi chép, sao chụp đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
kèm theo đơn khởi kiện, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2
Điều 109 của Bộ luật này .
H: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã hiểu rõ quyền và
nghĩa vụ của mình chưa? Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên có cần
giải thích gì thêm khơng?
Đ: Thưa HĐXX, tôi đã rõ quyền và nghĩa vụ của mình, tơi khơng cần
giải thích gì thêm.
Mời người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan 2 đứng dậy
H: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cho biết họ tên đầy đủ?
Sinh năm nào?
Đ: Thưa HĐXX, tôi tên là Nguyễn Thị M, sinh năm 1985
H: Ngoài tên trên Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có tên gọi
khác khơng?
Đ; Thưa HĐXX, tơi khơng có tên gọi khác.
H: Nơi ĐKHKTT và chỗ ở của bà ở đâu?
Đ: Thưa HĐXX, tơi có HKTT tại xóm X, xã T huyện Bình Phú, tỉnh
Nguyên Thái

H: Nghề nghiệp của bà là gì?
Đ: Thưa HĐXX, tơi làm ruộng ạ.
H: Bà có mối quan hệ gì với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
1?
Đ: Thưa HĐXX, tôi là mẹ của Nguyễn Thị T người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan 1.
Thay mặt HĐXX tôi phổ biến quyền và nghĩa vụ của người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan quy định tại Điều 199 BLTTHS như sau:
1. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Tịa án văn
bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và tài liệu,
chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập (nếu có). Trường
hợp cần gia hạn thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có
đơn đề nghị gia hạn gửi cho Tòa án nêu rõ lý do; nếu việc đề nghị gia
hạn là có căn cứ thì Tịa án phải gia hạn nhưng không quá 15 ngày.
2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu Tòa án
cho xem, ghi chép, sao chụp đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
kèm theo đơn khởi kiện, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2
Điều 109 của Bộ luật này .
H: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã hiểu rõ quyền và
nghĩa vụ của mình chưa? Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên có cần
giải thích gì thêm khơng?
11


THẨM
PHÁN
Người
bào chữa


Đ: Thưa HĐXX, tôi đã rõ quyền và nghĩa vụ của mình, tơi khơng cần
giải thích gì thêm.
Mời ngừoi bào chữa cho bị cáo đứng lên.
H: Trợ giúp viên pháp lý cho cho biết tên, tuổi và nghề nghiệp, nơi
công tác.
Đ: Thưa HĐXX, tôi tên là ..................................., sinh năm 1987, thuộc
Đoàn luật sư tỉnh Nguyên Thái.
H: Đối với quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định tại
Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự, trợ giúp viên pháp lý có đề nghị được
HĐXX giải thích quyền và nghĩa vụ của mình hay khơng?
Đ: Thưa HĐXX, tơi đã nắm rõ quyền và nghĩa vụ của mình, khơng u
cầu HĐXX giải thích.
H: Trợ giúp viên pháp lý có đề nghị thay đổi ai trong số những người
tiến hành tố tụng không?
Đ: Thưa HĐXX, trợ giúp viên không đề nghị thay đổi ai.
Mời trợ giúp viên pháp lý ngồi.

THẨM Mời kiểm sát viên đứng lên
PHÁN H: Kiểm sát viên có đề nghị thay đổi những người tiến hành tố tụng
không?
KSV: Thưa HĐXX, KSV không đề nghị thay đổi ai.
THỦ TỤC TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA
THẨM Yêu cầu bị cáo đứng lên bục khai báo
PHÁN Trước khi tiến hành xét hỏi, đề nghị đại diện VKS công bố bản Cáo
trạng và trình bày ý kiến bổ sung (nếu có).
KSV Cơng bố cáo trạng
Tơi:...............................................- Kiểm sát viên VKSND huyện Bình
Phú, cơng bố bản cáo trạng truy tố bị cáo Phạm Văn H
CÁO TRẠNG
VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH

PHÚ
Căn cứ các điều 45, 255 và 277 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ Quyết định khởi tố vụ án hình sự; Quyết định khởi tố bị
can của Cơ quan Cảnh sát điều tra Cơng an huyện Bình Phú đối với Phạm
Văn H;
Căn cứ Bản kết luận điều tra số 32 ngày 17 tháng 4năm 2020
của Cơ quan Cảnh sát điều tra Cơng an huyện Bình Phú.
Trên cơ sở kết quả điều tra đã xác định được như sau:
Trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2017, Phạm Văn H, sinh
năm 1998, nơi thường trú: xóm C, xã T, huyện P, tỉnh Ngun Thái có
quan hệ tình cảm với chị Nguyễn Thị T sinh năm 2005, nơi thường
trú: Xóm X, xã T, huyện P, tỉnh Nguyên Thái. Trong thời gian này, chị
T có sử dụng tài khoản trên Facebook cá nhân tên “Tocdep Thanhtinh”
12


và đã cho H biết về mật khẩu của tài khoản Facebook trên nên H có thể
đăng nhập vào được. Sau đó H và chị T khơng u nhau nữa, chị T
cũng không thay đổi mật khẩu tài khoản Facebook này nên H vẫn
thường xuyên truy cập vào tài khoản Facebook “Tocdep Thanhtinh”.
Đến tháng 6/2019, H đã tự ý thây đổi địa chỉ đăng nhập từ số điện thoại
“0965325513”, mật khẩu là “Tinhvutru” thành số điện thoại
“0379699390”, mật khẩu là “Hainghiem123456789” và giữ nguyên tên
Facebook là “Tocdep Thanhtinh”, giữ nguyên ảnh đại diện là ảnh chụp
của T và những thông tin cá nhân khác của tài khoản và chỉ một mình
H có thể truy cập vào tài khoản này. Sau khi phát hiện tài khoản tên
“Tocdep Thanhtinh” của mình bị người khác chiếm đoạt quyền truy
cập, chị Nguyễn Thị T đã sử dụng tài khoản Facebook khác có tên
“Thanhtinh tocdep” để đăng tải lên mạng xã hội Facebook về việc tài
khoản “Tocdep Thanhtinh” đã bị người khác chiếm đoạt và chị T

khơng sử dụng tài khoản đó nữa.
Do mỗi khi đăng nhập vào tài khoản của chị T, H thấy có nhiều
người đàn ơng nhắn tin tán tỉnh chị T nên H bực tức. Khoảng 13h45
phút ngày 10/4/2020, lợi dụng tình hình dịch bệnh Covid-19 đang có
diễn biến phức tạp tại Việt Nam và trên toàn thế giới, Phạm Văn H đã
sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 màu xanh đen,
có cài đặt phần mềm ứng dụng Facebook và kết nối Internet qua mạng
wifi tại nhà mình đặng nhập vào tài khoản Facebook có tên “Tocdep
Thanhtinh” để đăng tải bài viết có nội dung sai sự thật liên quan đến
dịch bệnh Covid-19. Cụ thể, H đã soạn thảo bài viết có nội dung “Thơi
xong rồi! Ngun Thái mình đã có người chết do COVID mà Nhà nước
mình lại giấu”, kèm theo ảnh chụp một nón, một gậy tre, một đơi dép,
trên ảnh có dịng chữ “Mọi thứ đã sẵn sàng chỉ còn chờ ngày lành
tháng tốt để xuất hành!” rồi đăng tải bài viết và để ở chế độ công khai.
Ngay sau khi bài viết được đăng tải, đã có nhiều tài khoản
Facebook khác nhấn “Thích” và “Bình luận”. Khi được các tài khoản
Facebook khác bình luận hỏi về thông tin đăng tải, H tiếp tục trả lời
các bình luận và khẳng định nội dung trong bài viết là đúng sự thật,
người chết là nam giới, 27 tuổi có địa chỉ ở huyện Bình Phú. Sau khi
đăng tải bài viết trên khoảng 30 phút, H đã đăng xuất tài khoản
Facebook tên “Tocdep Thanhtinh” ra khỏi ứng dụng Facebook trên
điện thoại di động của mình, tuy nhiên bài viết vẫn để ở chế độ công
khai. Đến khoảng 10h ngày 11/4/2020, Phạm Văn H sử dụng điện thoại
di dộng nhãn hiệu OPPO F11 màu xanh đen của mình tiếp tục đăng
nhập vào tài khoản Facebook có tên “Tocdep Thanhtinh” và gỡ bài viết
đã đăng tải nêu trên, ngay sau đó đăng xuất tài khoản “Tocdep
Thanhtinh” ra khỏi ứng dụng Facebook để tránh sự phát hiện của cơ
quan chức năng.
Khoảng 15 giờ ngày 10/4/2020, chị T nhận được thông tin của
bạn bè và người thân về việc tài khoản Facebook có tên “Tocdep

13


Thanhtinh” đã đăng tải nội dung có thơng tin sai sự thật về dịch bệnh
Covid-19, nên chị T đã đến cơng an xã huyện Khánh Tân, huyện Bình
Phú trình báo, đề nghị xác minh làm rõ và xử lý theo quy định của
pháp luật.
Qua đấu tranh khai thác của cơ quan chức năng, Phạm Văn H
khai nhận do có mâu thuẫn với Nguyễn Thị T (sinh năm 2005, trú tại
xã Khánh Tân, huyện Phú Bình, tỉnh Nguyên Thái) nên đã sử dụng tài
khoản Facebook có tên “Tocđep Thanhtinh” chiếm đoạt của Nguyễn
Thị T để đăng tải bài viết có nội dung sai sự thật về dịch COVID-19
lên mạng xã hội Facebook nhằm mục đích để nhiều người biết và nghĩ
rằng chị Nguyễn Thị T là người đăng tải. Nếu bị phát hiện, cơ quan
chức năng sẽ xử lý chị Nguyễn Thị T theo quy định của pháp luật.
Ngày 16-4, Công an huyện Giàng Bắc ra quyết định khởi tố bị can, bắt
tạm giam đối với Trai về tội “Đưa hoặc sử dụng trái phép thơng tin
mạng máy tính, mạng viễn thông”, quy định tại điểm a, khoản 1, Điều
288 Bộ luật Hình sự.
Quá trình điều tra, Phạm Văn H đã thành khẩn khai báo .
Căn cứ vào các tình tiết và chứng cứ nêu trên,
KẾT LUẬN
Bị can Phạm Văn H là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm
hình sự, ngày 10/4/2020, Phạm Văn Trai đã thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài khoản của người khác để đưa thông tin hoàn toàn bịa đặt,
xuyên tạc, sai sự thật liên quan đến dịch bệnh Covid - 19, các kênh
thơng tin chính thức từ báo đài Trung ương và địa phương thì tính đến
thời điểm hiện tại là ngày 22/4/2020. Việt Nam có 268 trường hợp mắc
Covid, trong đó có 216 người đã chữa khỏi, 52 người đang điều trị và
đặc biệt khơng có ca nào tử vong. Hành vi đưa ra những thông tin sai

sự thật về dịch Covid-19 của bị cáo đã mang đến những hệ lụy là gây
nhiễu loạn thông tin, gây tâm lý hoang mang trong dư luận. Người dân
lẫn lộn giữa những tin đúng và tin thất thiệt, hàng trăm người đổ xô đi
mua khẩu trang, nước rửa tay gây khó khăn trong cơng tác phịng tránh
dịch bênh, tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn trong cộng đồng dân cư. Việc
bị cáo dùng tài khoản của chị T để thực hiện hành vi phạm tội nhằm đổ
lỗi cho chị T, gây ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân chị
T. Hành vi này đã vi phạm vào điểm d khoản 1 Điều 8 của Luật an ninh
mạng và phải bị xử lý theo Điều 9 của luật này. Hành vi của Phạm Văn
H là nguy hiểm với xã hội trong thời điểm này, cần phải xử lý nghiêm
mnh bị cáo bằng pháp luật hình sự.
Như vậy có đủ căn cứ để xác định bị can có lý lịch dưới đây đã
phạm tội như sau:
- Họ và tên: PHẠM VĂN H ; Tên gọi khác: Không; Giới
tính: Nam.
- Sinh ngày 5/2/1998 tại huyện Bình Phú, tỉnh Nguyên Thái.
- HKTT và chỗ ở hiện tại: Xóm C, xã T, huyện Bình Phú, tỉnh
14


Nguyên Thái
- Quốc tịch: Việt Nam;
Dân tộc: K; Tôn giáo: Khơng.
- Nghề nghiệp: Làm ruộng;
- Trình độ học vấn: 6/12.
- Bố đẻ là Phạm Văn H. Mẹ đẻ là Vàng Thị X
- Tiền án, tiền sự: Không.
- Bị can bị bắt tạm giam từ ngày 16/4/2020. Hiện bị can đang bị
tạm giam tại Nhà tạm giữ Cơng an huyện Bình Phú.
Hành vi của bị can đã cấu thành tội “Đưa hoặc sử dụng trái phép

thơng tin mạng máy tính, mạng viễn thông”, quy định tại điểm a khoản
1 Điều 288 Bộ luật Hình sự. Nội dung Điều 288 của Bộ luật hình sự
quy định:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thu lợi
bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây
thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc gây dư
luận xấu làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân, thì bị phạt
tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a)

Đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông những thông tin
trái với quy định của pháp luật, nếu không thuộc một trong
các trường hợp quy định tại các Điều 117, 155, 156 và 326
của Bộ luật này…

b)

...

2.....
3. Người phạm tơi có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến
200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
lằm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
QUYẾT ĐỊNH
1. Truy tố ra trước Tồ án nhân dân huyện Bình Phú để xét xử bị
can Phạm Văn H về tội “Đưa hoặc sử dụng trái phép thơng tin mạng
máy tính, mạng viễn thơng”, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 288 Bộ
luật Hình sự.
2. Kèm theo Cáo trạng là hồ sơ vụ án và danh sách triệu tập

tham gia phiên tồ.
Tơi đã cơng bố xong bản Cáo trạng, Đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc.
THẤM H: Bị cáo có nghe rõ nội dung bản cáo trạng mà vị đại diện Viện kiểm
PHÁN sát vừa công bố không ?
15


BỊ CÁO Đ: Thưa HĐXX, bị cáo nghe rõ.
H: Nội dung mà bản cáo trạng Viện kiểm sát truy tố có giống với nội
dung bản cáo trạng mà bị cáo đã nhận được không?
Đ: Thưa HĐXX, nội dung bản cáo trạng vừa công bố giống với nội
dung bản cáo trạng bị cáo đã được nhận.
H: Bị cáo cho biết tình trạng sức khỏe hiện nay như thế nào? Có đủ sức
khỏe tham gia phiên tịa khơng?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo hiện tại sức khỏe bình thường, đủ điều kiện
tham gia phiên tịa.
H: Bị cáo đã đăng nội dung gì trên mạng xã hội Facebook vào ngày
10/4/2020?
Đ: Thưa HĐXX, ngày 10/4/2020, bị cáo soạn thảo bài viết có nội dung
“Thơi xong rồi! Ngun Thái mình đã có người chết do COVID mà
Nhà nước mình lại giấu”, kèm theo ảnh chụp một nón, một gậy tre,
một đơi dép, trên ảnh có dịng chữ “Mọi thứ đã sẵn sàng chỉ còn chờ
ngày lành tháng tốt để xuất hành!” rồi đăng tải bài viết ở tài khoản
Facebook có tên “Tocdep Thanhtinh”.
H: Bị cáo đã đăng ở đâu? tại sao lại dùng nick đó? mục đích đăng là
gì?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo đăng ở nhà, níck “Tocdep Thanhtinh” là nick
cũ của T. Bị cáo đăng vơi mục đích để nhiều người biết và nghĩ rằng
chị Nguyễn Thị T là người đăng tải. Nếu bị phát hiện, cơ quan chức
năng sẽ xử lý chị Nguyễn Thị T theo quy định của pháp luật

H: Bị cáo cho biết, thơng tin bị cáo đăng có đúng sự thật không? thực
tế như thế nào?
Đ: Thưa HĐXX, thông tin bị cáo đăng hoàn toàn do bị cáo bịa đặt.
Trên thực tế tại Việt Nam và tại huyện Bình Phú thời điểm đó khơng hề
có ai bị chết vì Covid-19.
H: Bị cáo sử dụng cái gì để đăng: máy tính hay điện thoại? Khi đăng
có nói cho ai biết khơng?T có biết ko?
Đ: Thưa HĐXX, Bị cáo điện thoại của mình đăng. Bị cáo khơng hề nói
cho ai biết việc mình đăng tin.
H: Có nhiều người bình luận và chia sẻ bài viết của bị cáo không?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo khơng nhớ rõ bao nhiêu người bình luận và
chia sẻ nhưng bị cáo nhớ có người đã bình luận hỏi về người chết và bị
cáo bịa ra người chết là một thanh niên 27 tuổi gì đó.
H: Việc bị cáo đăng tin sai sự thật để lại hậu quả như thế nào có biết
khơng?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo khơng biết, chỉ biết có nhiều người tỏ ra lo
lắng khi đọc tin của bị cáo đăng.
H: Bị cáo có biết hành vi của mình làm là vi phạm pháp luật khơng?
Đ: Thưa HĐXX, bị cáo biết nhưng bị cáo chỉ nghĩ sẽ bị phạt nhẹ mấy
trăm nghìn thơi chứ khơng hề biết là đến mức độ chịu trách nhiệm hình
sự.
16


THẨM
PHÁN
Người
có quyền
lợi và
nghĩa vụ

liên
quan 1

THẨM
PHÁN
HTND

H: Tịa giải thích cho bị cáo biết Hành vi đưa ra những thông tin sai sự
thật về dịch Covid-19 của bị cáo đã mang đến những hệ lụy là gây
nhiễu loạn thông tin, gây tâm lý hoang mang trong dư luận. Người dân
lẫn lộn giữa những tin đúng và tin thất thiệt, hàng trăm người đổ xơ đi
mua khẩu trang, nước rửa tay gây khó khăn trong cơng tác phịng tránh
dịch bênh, tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn trong cộng đồng dân cư. Việc
bị cáo dùng tài khoản của chị T để thực hiện hành vi phạm tội nhằm đổ
lỗi cho chị T, gây ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân chị
T. Hành vi này đã vi phạm vào điểm d khoản 1 Điều 8 của Luật an ninh
mạng và phải bị xử lý theo Điều 9 của luật này.
H: Đến nay, bị cáo nhận thức như thế nào về hành vi của mình?
Đ: Thưa HĐXX, tơi rất hối hận.
Cho bị cáo ngồi, mời người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Nguyễn
Thị T đứng dậy
H: Chị T có mối quan hệ như thế nào với bị cáo? Tại sao bị cáo lại sử
dụng được tài khoản Facebook của chị ?
Đ: Thưa HĐXX, tơi và anh H có quan hệ tình cảm với nhau từ năm
2016 đến năm 2017 sau đó chúng tơi đã chia tay. Trong khoảng thời
gian u nhau tơi có cho anh H biết mật khẩu Facebook của tôi và tôi
cũng không hề đổi mật khẩu nên H có thể sử dụng được .
H:Chị có biết bị cáo đã sử dụng tài khoản của chị để đăng không?
Đ: Thưa HĐXX, tôi không hề hay biết là anh H. Tơi chỉ biết tài khoản
tên “Tocdep Thanhtinh” của mình bị người khác chiếm đoạt quyền truy

cập, tôi đã sử dụng tài khoản Facebook khác có tên “Thanhtinh tocdep”
để đăng tải lên mạng xã hội Facebook về việc tài khoản “Tocdep
Thanhtinh” đã bị người khác chiếm đoạt và thông báo tơi khơng sử
dụng tài khoản đó nữa
H: Thơng tin bị cáo đăng chị có bị ảnh hưởng gì đến uy tín, danh dự và
nhân phẩm khơng? Nếu có thì ảnh hưởng như thế nào?
Đ: Thưa HĐXX, tôi bị những người trong xóm dị nghị, chỉ chỏ và xa
lánh. Nhiều người cịn nghĩ tơi bị Covid ý, khơng tiếp xúc với tôi. Tôi
ở yên trong nhà không dám đi đâu.
H: Đến nay, chị có đề nghị nào về trách nhiệm dân sự và trách nhiệm
hình sự với bị cáo khơng?
Đ: Thưa HĐXX, sau khi sự việc xảy ra tôi đề nghị xử phạt anh H thật
nặng vào, sao hắn có thể có ý định trả thù tơi như vậy chứ? tịa cứ cho
hắn đi tù đi.
Mời các hội thẩm nhân dân tham gia xét hỏi
Hội thẩm .......: Tôi hỏi bị cáo Phạm Văn H
Thẩm phán: yêu cầu bị cáo đứng trước bục khai báo
H: Bị cáo nhận thức như thế nào về hành vi của mình?
Đ: Thưa HĐXX, BC nhận thấy hành vi của mình là sai trái, để lại hậu
quả nghiêm trọng.
H: Bị cáo đã sử dụng điện thoại gì để đăng tải thông tin?
17


KSV

Đ: Thưa HĐXX, BC sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO
F11 màu xanh đen, có cài đặt phần mềm ứng dụng Facebook và kết nối
Internet qua mạng wifi tại nhà mình đặng nhập vào tài khoản Facebook
có tên “Tocdep Thanhtinh” để đăng tải.

H: Bị cáo đăng tin có để ở chế độ cơng khai khơng? Sau khi đăng bao
lâu, bị cáo mới gỡ bài viết có thơng tin sai xuống?
Đ: Thưa HĐXX, BC có để bài viết mình đăng ở chế độ cơng khai và
gần 1 ngày sau, BC mới gỡ bài xuống.
H: Tơi khơng hỏi gì thêm
Hội thẩm...............:
H: Gia đình bị cáo có ai là liệt sĩ, có ai được tặng thưởng bằng khen,
huân huy chương khơng?
Đ: Thưa HĐXX, gia đình BC khơng có.
H: Gia đình bị cáo có thuộc diện hộ nghèo ở địa phương khơng? Có
giấy tờ gì khơng?
H: Trong q trình sinh sống, bị cáo có chấp hành tốt các quy chế ở địa
phương khơng?Bị cáo có bị cơ quan hành chính nào xử phạt về hành
chưa?
Đ: Thưa HĐXX, tôi chưa bị xử phạt bao giờ ạ!
Đ: Gia đình tơi thuộc hộ nghèo trong xã nhưng chưa có giấy tờ gì.
Tơi khơng hỏi gì thêm.
Thẩm phán: Mời đại diện VKS tiến hành xét hỏi
KSV: Thưa HĐXX, KSV đề nghị được hỏi bị cáo Phạm Văn H
Thẩm phán: Yêu cầu bị cáo đứng lên bục khai báo
H: Giữa bị cáo và chị T có mâu thuẫn gì? Mâu thuẫn như thế nào?
Đ: Thưa đại diện VKS, trước đây tơi và T có quan hệ tình cảm với
nhau. Khi chia tay, tơi có sử dụng tài khoản Facebook “Tocdep
Thanhtinh” của T. Mỗi lần đăng nhập vào tài khoản của T, tơi thấy có
nhiều người đàn ông nhắn tin tán tỉnh T nên tôi rất tức. T đã nghĩ đến
chuyện trả thù T.
H: Vậy tại sao bị cáo lại chọn thời điểm là vào ngày 10/4/2020 để tung
tin giả?
Đ: Thưa đại diện VKS, Lúc này dịch bệnh đang diễn biến phức tạp. Tin
tức về Covid-19 đang hot, sẽ nhiều người bình luận và chia sẻ. Cơng

an sẽ xử lý T, sẽ phạt hành chính T.
H: Như vậy bị cáo biết, tung tin giả trên mạng xã hội là vi phạm pháp
luật?
Đ: Thưa đại diện VKS, bị cáo biết.
H: Trước đây bị cáo đã từng bị đưa ra xét xử như phiên tịa ngày hơm
nay lần nào chưa?
Đ: Thưa đại diện VKS, bị cáo chưa từng bị đưa ra xét xử lần nào,
phiên tịa hơm nay là lần đầu tiên.
H: Bị cáo thấy nội dung bản cáo trạng mà VKS truy tố đối với bị cáo
có đúng người đúng tội không?
18


Trợ giúp
viên
pháp lý

THẨM
PHÁN

Đ: Thưa đại diện VKS, BC thấy bản CT của VKS đã truy tố đúng
người, đúng tội.
Kiểm sát viên đã hỏi xong, đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc.
Thẩm phán: Mời trợ giúp viên pháp lý của bị cáo tham gia xét hỏi.
TGVPL: thưa HĐXX, Trợ giúp viên đề nghị được hỏi bị cáo
Thẩm phán: Yêu cầu bị cáo đứng lên bục khai báo.
H: Khi bị cáo đăng tin giả về Covid-19, bị cáo có nghĩ tin đó ảnh
hưởng đến cộng đồng không?
Đ: Khi bị cáo đăng tin, bị cáo không nghĩ đến tin của bị cáo ảnh hưởng
đến cộng đồng mà chỉ nghĩ đến việc cơ quan chức năng sẽ xử lý

Nguyễn Thị T về hành chính thơi ạ.
H: Q trình CQĐT tiến hành xác minh làm rõ sự việc, thái độ của bị
cáo như thế nào? Có hợp tác khơng?
Đ: Trong q trình điều tra tơi luôn thành khẩn khai báo sự thật, tuân
theo các quy định pháp luật.
Tơi khơng có câu hỏi gì thêm.
Thay mặt HĐXX tôi quyết định xem xét vật chứng tại phiên tòa.
Thẩm phán: bị cáo đứng trước bục khai báo. Yêu cầu thư ký chuyển
vật chứng lên cho HĐXX xem
H: Đây có phải là điện thoại của bị cáo dùng để đăng tin giả về Covid19 không?
Đ: thưa HĐXX đúng ạ.
H: Căn cứ vào đâu bị cáo khẳng định như vậy?
Đ: Thưa HĐXX, đây là điện thoại hằng ngày tôi vẫn sử dụng nên tơi
nhớ rõ hình dáng của điện thoại.
Thẩm phán: cho bị cáo ngồi, mời người có nghĩa vụ và quyền lợi liên
quan Nguyễn Thị T đứng dậy.
H: Đây có phải là điện thoại của chị khơng?
Đ: Thưa HĐXX không ạ.
Thẩm phán: Yêu cầu thư ký chuyển lại vật chứng về bàn vật chứng.
Thẩm phán hỏi: Đại diện VKS, có hỏi thêm, hoặc đề nghị HĐXX hỏi
thêm các vấn đề của vụ án nữa hay không?
KSV: Thưa HĐXX, KSV khơng hỏi gì thêm. Đề nghị HĐXX tiếp tục
làm việc
Thẩm phán hỏi: Trợ giúp viên pháp lý có hỏi thêm hoặc đề nghị
HĐXX hỏi thêm các vấn đề của vụ án nữa hay không?
TGVPL: Thưa HĐXX tôi không hỏi thêm gì, đề nghị HĐXX tiếp tục
làm việc.
Yêu cầu bị cáo đứng trước bục khai báo
Thẩm phán: Bị cáo có yêu cầu HĐXX xét hỏi gì nữa khơng?
Bị cáo: Thưa HĐXX, bị cáo khơng u cầu hỏi gì thêm.

Nếu như khơng có ai hỏi gì thêm, cũng như khơng ai đề nghị HĐXX
hỏi thêm vấn đề gì của vụ án, tơi tuyên bố kết thúc việc xét hỏi, chuyển
sang tranh luận.
19


THẨM Đề nghị vị đại diện VKS trình bày lời luận tội đối với bị cáo.
PHÁN Yêu cầu bị cáo đứng trước bục khai báo.
Kiểm sát viên trình bày luận tội
“Thưa Hội đồng xét xử”,
Hơm nay, Tịa án nhân dân huyện Bình Phú mở phiên tịa xét xử
sơ thẩm vụ án Phạm Văn H về tội “Đưa hoặc sử dụng trái phép thơng
tin mạng máy tính, mạng viễn thơng”, quy định tại điểm a khoản 1
Điều 288 Bộ luật Hình sự;
Tôi........................... - Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
huyện Phú Bình được phân cơng thực hành quyền cơng tố, kiểm sát xét
xử tại phiên tồ trình bày quan điểm của Viện kiểm sát về việc xử lý
đối với bị cáo và giải quyết vụ án như sau:
Về nội dung vụ án:
Vào13h 45 phút ngày 11/4/2020, tại Xóm C, xã T, huyện B tỉnh
Nguyên Thái Phạm Văn H đã thực hiện hành vi đưa ra những thông
tin sai sự thật về dịch Covid-19 mang đến những hệ lụy đầu tiên là gây
nhiễu loạn thông tin, gây tâm lý hoang mang dư luận. Người dân lẫn
lộn giữa tin đúng và tin thất thiệt, tiềm ẩn những nguy cơ gây bất ổn
trong cộng đồng dân cư. Việc bị cáo đã dùng tài khoản của chi T để
thực hiện hành vi phạm tội nhằm đổ lỗi cho chị T, gây ảnh hưởng đến
danh dự, nhân phẩm của cá nhân chị T. Qua đánh giá xem xét, đánh giá
chứng cứ tôi thấy rằng lời khai thành khẩn nhận tội của bị cáo tại phiên
tòa hơm nay là hồn tồn chính xác và khách quan, phù hợp với nội
dung bị cáo đã khai báo tại Cơ quan điều tra đồng thời phù hợp với lời

khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và chứng cứ, tài liệu
đã thu thập thể hiện trong hồ sơ vụ án.
Hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Văn H đã xâm phạm vào
những quy định của Nhà nước về đảm bảo an tồn mạng viễn thơng,
gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trậ tự của địa phương nhất là
giai đoạn toàn Đảng, toàn dân ta đang nỗ lực đẩy mạnh cơng tác
phịng, chống dịch Covid - 19. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội
trong thời điểm này, cần xử nghiêm minh bị cáo bằng pháp luật hình
sự.
Tuy nhiên, cũng xét thấy, trong q trình điều tra và tại phiên
tịa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn nan hối cải về hành vi của
mình, bị cáo phạm toọi lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng
đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s
Khoản 1 Điều 51 BLHS, đề nghị HĐXX xem xét để áp dụng giảm
một phần hình phạt cho bị cáo qua đó để bị cáo thấy được chính sách
khoan hồng pháp luật của Nhà nước ta.
Do đó, đến đây tôi xin giữ nguyên quan điểm truy tố của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Bình Phú đối với bị cáo Phạm Văn H và đề
nghị HĐXX:
- Tuyên bị cáo Phạm Văn Trai phạm tội “Đưa hoặc sử dụng trái
20


phép thơng tin mạng máy tính, mạng viễn thơng”, quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 288 Bộ luật Hình sự;
- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 288 Bộ luật Hình sự; Điểm i, s
Khoản 1 Điều 51 BLHS tuyên phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng.
Tịch thu sung quỹ NHà nước tài sản của bị cáo dùng vào việc phạm tôi
gồm 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 và 01 thiết bị phát
sóng wìi của nhà mạng VNPT.

- Đề nghị tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định
Trên đây là quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát nhân
dân huyện Bình Phú. Tơi đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc
THẨM Cho bị cáo ngồi
PHÁN TRANH TỤNG LẦN 1
BỊ CÁO Thẩm phán: Mời luật sư trình bày lời bào chữa cho bị cáo.
Luật sư trình bày lời bào chữa.
- Kính thưa Hội đồng xét xử;
- Thưa vị đại diện Viện kiểm sát ND huyện Bình Phú;
- Thưa tồn thể q vị đến tham dự phiên tịa hơm nay;
Tơi: ......................................................... - là TGV của trung tâm Trợ
giúp pháp luật nhà nước tỉnh Ngun Thái, tơi có mặt tại phiên tịa
hơm nay nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của tôi
là bị cáo Phạm Văn H về tội “Đưa hoặc sử dụng trái phép thơng tin
mạng máy tính, mạng viễn thông”, quy định tại điểm a khoản 1 Điều
288 Bộ luật Hình sự. Trước tiên tơi xin chân thành cảm ơn HĐXX đã
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được nghiên cứu hồ sơ, thực hiện các
thủ tục tố tụng cần thiết theo luật định và trình bày quan điểm bào chữa
cho thân chủ của tôi tại phiên tồ hơm nay.
Kính thưa Hội đồng xét xử:
Qua nghiên cứu hồ sơ, nghe công bố bản cáo trạng và phần luận tội của
vị đại diện VKS, phần thẩm vấn công khai tại phiên tòa, với tư cách là
luật sư bào chữa cho bị cáo Hồng Văn Thảo, tơi xin nêu lên một số
vấn đề trong vụ án này kính mong HĐXX trước khi quyết định số phận
pháp lý của một con người xem xét khi lượng hình
Thứ nhất: Về nhân thân thân: bị cáo sinh ra và lớn lên cùng gia
đình tại Xóm C, xã T, huyện P, là một trong những huyện có điều kiện
kinh tế khó khăn của tỉnh Bình Phú. Do điều kiện hồn cảnh gia đình
kinh tế khó khăn, mồ cơi cha nên Phạm Văn H chỉ học đến lớp 6 vì
điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng nhận thức về xã hội

cũng như trình độ hiểu biết về pháp luật của bị cáo. Đồng thời trong
quá trình sinh sống tại địa phương, đến thời điểm thực hiện hành vi
phạm tội, bị cáo ln chấp hành tốt mọi chủ trương chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền
sự và cũng chưa bị cơ quan nào xử lý về mặt hành chính.
Thứ hai: Chúng ta thấy rằng: thực trạng tin giả đang trở thành
vấn nạn trên mạng xã hội trong thời gian gần đây và bùng nổ lớn trong
21


đợt dịch Covid. Trong trường hợp này cũng vậy, thân chủ tơi bị cáo
Phạm Văn H chưa có hiểu biết thấu đáo về pháp luật, chưa lường thất
hết hậu quả của việc đăng tải tin giả.
Thứ ba: Nhận thức về hành vi phạm tội: Từ khi xảy ra vụ việc
và bị các cơ quan chức năng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Thân chủ tôi đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải và vô cùng hối
hận về hành vi của mình. Bên cạnh đó Phạm Văn H là người khơng có
tiền án tiền sự và đây là lần đầu tiên phạm tội do thiếu hiểu biết. Do đó,
đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định
tại; điểm i “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” ,
điểm s “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” Khoản
1 Điều 51 của Bộ Luật hình sự.
Vậy nên, tơi đề nghị HĐXX Áp dụng: Điểm i, s khoản 1 Điều
51; điểm a khoản 1 Điều 288 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo 06 tháng
tù giam và cho hưởng án treo.
Mục đích lớn nhất của Nhà nước ta khi đưa người phạm tội ra
xét xử là nhằm giáo dục, cải tạo họ thành người cơng dân lương thiện
có ích cho xã hội. Do đó kính đề nghị HĐXX xem xét các đề nghị của
tơi để từ đó đưa ra một bản án thể hiện được sự khoan hồng và tính
giáo dục cao. Cho bị cáo một cơ hội để bị cáo sửa chữa được những lỗi

lầm bị cáo gây ra
THẨM H: Bị cáo đã nghe rõ lời bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý chưa?
PHÁN Đ: Rõ rồi ạ!
Bị cáo H: Bị cáo có bổ sung gì khơng?
Đ: Thưa, khơng
THẨM H: Kiểm sát viên cịn ý kiến tranh luận gì thêm khơng?
PHÁN VKS: Thưa HĐXX, tơi khơng cịn ý kiến gì.
THẨM Mời chị T đứng dậy
PHÁN H: Chị có tranh luận gì với ý kiến của Kiểm sát viên không?
Người Đ: Thưa HĐXX, tơi khơng có ý kiến gì thêm.
có quyền
lợi và
nghĩa vụ
liên
quan
THẨM H: Có ai cịn có ý kiến tham gia tranh luận khơng? (Chủ tọa nhìn về
PHÁN phía KSV, những người tham gia tố tụng).
Nếu khơng ai có ý kiến tranh luận và đối đáp gì thêm, thay mặt HĐXX
tơi tun bố kết thúc phần tranh tụng, chuyển sang nghị án.
Trước khi HĐXX tiến hành nghị án, bị cáo được nói lời sau cùng.
Yêu cầu bị cáo Phạm Văn H đứng trước bục khai báo.
Bị cáo nói lời sau cùng.
Thẩm phán: Sau đây HĐXX sẽ nghị án. Giao các bị cáo cho các đồng
22


chí CSHTTP
PHẦN NGHỊ ÁN VÀ TUYÊN ÁN
THƯ



(đứng)
Đề nghị mọi người trong phòng xử án đứng dậy.
Mời HĐXX vào phòng xử án (HĐXX vào phòng xử án, mọi người
trong phòng xử án vẫn đứng tại chỗ)
THẨM Sau đây thay mặt HĐXX tôi tuyên án!
PHÁN Thẩm phán đọc bản án.
.....................
Thay mặt HĐXX, tơi tun bố Kết thúc phiên tịa.
Giao bị cáo Phạm Văn H cho các đồng chí Cảnh sát hỗ trợ tư pháp.

TỊA ÁN NHÂN DAN HUYỆN BÌNH
CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
PHÚ
VIỆT NAM
TỈNH NGUYÊN THÁI
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 22/2020/HS-ST
Ngày 22-4-2020
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỊA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH PHÚ, TỈNH NGUYÊN THÁI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tịa: Ông ......
Các Hội thẩm nhân dân: Ông.........
Bà..................
- Thứ ký phiên tịa: Bà...............................................- Thư ký Tồn án
nhân dân huyện Bình Phú, tỉnh Nguyên Thái
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Phú tham gia phiên tịa:
Ơng..................

Ngày 22 tháng 4 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện
Bình Phú, tỉnh Ngun Thái mở phiên tịa xét xử sơ thẩm cơng khai vụ án hình
sự thụ lý số: 43/2020/HSST ngày 17 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ về tên PHẠM VĂN H (Tên gọi khác: không), sinh ngày 05 tháng 2
năm 1998, tại huyện B, tỉnh Nguyên Thái.
..............
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 16/4/2020 đến nay. Hiện đang bị tạm giam
tại Nhà tạm giữ và lưu giam Cơng an huyện Bình Phú, tỉnh Ngun Thái.
( Có mặt tại phiên tịa)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 2005
23


( Có mặt tại phiên tịa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại
phiên tịa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2017, Phạm Văn H, sinh
năm 1998, nơi thường trú: xóm C, xã T, huyện P, tỉnh Ngun Thái có quan hệ
tình cảm với chị Nguyễn Thị T sinh năm 2005, nơi thường trú: Xóm X, xã T,
huyện P, tỉnh Nguyên Thái. Trong thời gian này, chị T có sử dụng tài khoản trên
Facebook cá nhân tên “Tocdep Thanhtinh” và đã cho H biết về mật khẩu của tài
khoản Facebook trên nên H có thể đăng nhập vào được. Sau đó H và chị T
khơng u nhau nữa, chị T cũng không thay đổi mật khẩu tài khoản Facebook
này nên H vẫn thường xuyên truy cập vào tài khoản Facebook “Tocdep
Thanhtinh”. Đến tháng 6/2019, H đã tự ý thây đổi địa chỉ đăng nhập từ số điện
thoại “0965325513”, mật khẩu là “Tinhvutru” thành số điện thoại
“0379699390”, mật khẩu là “Hainghiem123456789” và giữ nguyên tên
Facebook là “Tocdep Thanhtinh”, giữ nguyên ảnh đại diện là ảnh chụp của T và

những thông tin cá nhân khác của tài khoản và chỉ một mình H có thể truy cập
vào tài khoản này. Sau khi phát hiện tài khoản tên “Tocdep Thanhtinh” của mình
bị người khác chiếm đoạt quyền truy cập, chị Nguyễn Thị T đã sử dụng tài
khoản Facebook khác có tên “Thanhtinh tocdep” để đăng tải lên mạng xã hội
Facebook về việc tài khoản “Tocdep Thanhtinh” đã bị người khác chiếm đoạt và
chị T khơng sử dụng tài khoản đó nữa.
Do mỗi khi đăng nhập vào tài khoản của chị T, H thấy có nhiều người đàn
ơng nhắn tin tán tỉnh chị T nên H bực tức. Khoảng 13h45 phút ngày 10/4/2020,
lợi dụng tình hình dịch bệnh Covid-19 đang có diễn biến phức tạp tại Việt Nam
và trên toàn thế giới, Phạm Văn H đã sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu
OPPO F11 màu xanh đen, có cài đặt phần mềm ứng dụng Facebook và kết nối
Internet qua mạng wifi tại nhà mình đặng nhập vào tài khoản Facebook có tên
“Tocdep Thanhtinh” để đăng tải bài viết có nội dung sai sự thật liên quan đến
dịch bệnh Covid-19. Cụ thể, H đã soạn thảo bài viết có nội dung “Thơi xong rồi!
Ngun Thái mình đã có người chết do COVID mà Nhà nước mình lại giấu”,
kèm theo ảnh chụp một nón, một gậy tre, một đơi dép, trên ảnh có dịng chữ
“Mọi thứ đã sẵn sàng chỉ cịn chờ ngày lành tháng tốt để xuất hành!” rồi đăng
tải bài viết và để ở chế độ công khai.
Ngay sau khi bài viết được đăng tải, đã có nhiều tài khoản Facebook khác
nhấn “Thích” và “Bình luận”. Khi được các tài khoản Facebook khác bình luận
hỏi về thơng tin đăng tải, H tiếp tục trả lời các bình luận và khẳng định nội dung
trong bài viết là đúng sự thật, người chết là nam giới, 27 tuổi có địa chỉ ở huyện
Bình Phú. Sau khi đăng tải bài viết trên khoảng 30 phút, H đã đăng xuất tài
khoản Facebook tên “Tocdep Thanhtinh” ra khỏi ứng dụng Facebook trên điện
thoại di động của mình, tuy nhiên bài viết vẫn để ở chế độ công khai. Đến
khoảng 10h ngày 11/4/2020, Phạm Văn H sử dụng điện thoại di dộng nhãn hiệu
OPPO F11 màu xanh đen của mình tiếp tục đăng nhập vào tài khoản Facebook
có tên “Tocdep Thanhtinh” và gỡ bài viết đã đăng tải nêu trên, ngay sau đó đăng
24



xuất tài khoản “Tocdep Thanhtinh” ra khỏi ứng dụng Facebook để tránh sự phát
hiện của cơ quan chức năng.
Khoảng 15 giờ ngày 10/4/2020, chị T nhận được thông tin của bạn bè và
người thân về việc tài khoản Facebook có tên “Tocdep Thanhtinh” đã đăng tải
nội dung có thơng tin sai sự thật về dịch bệnh Covid-19, nên chị T đã đến cơng
an xã huyện Khánh Tân, huyện Bình Phú trình báo, đề nghị xác minh làm rõ và
xử lý theo quy định của pháp luật.
Qua đấu tranh khai thác của cơ quan chức năng, Phạm Văn H khai nhận
do có mâu thuẫn với Nguyễn Thị T (sinh năm 2005, trú tại xã Khánh Tân, huyện
Phú Bình, tỉnh Nguyên Thái) nên đã sử dụng tài khoản Facebook có tên “Tocđep
Thanhtinh” chiếm đoạt của Nguyễn Thị T để đăng tải bài viết có nội dung sai sự
thật về dịch COVID-19 lên mạng xã hội Facebook nhằm mục đích để nhiều
người biết và nghĩ rằng chị Nguyễn Thị T là người đăng tải. Nếu bị phát hiện, cơ
quan chức năng sẽ xử lý chị Nguyễn Thị T theo quy định của pháp luật.
....
Tại bản cáo trạng số 54/CT-VKSBP ngày 17 tháng 4 năm 2020, Viện
kiểm sát nhân dân huyện Bình Phú, tỉnh Nguyên Thái truy tố bị cáo Phạm Văn
H về tội “Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn
thơng” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 288 của Bộ luật hình sự;
Trong phần tranh luận, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Phú
đã phân tích, đánh giá chứng cứ, nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng
nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo và kết luận: Giữ nguyên cáo trạng đã truy tố
đối với bị cáo, đồng thời đề nghị với Hội đồng xét xử:
Tuyên bố, bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Đưa hoặc sử dụng trái phép
thông tin mạng máy tính, mạng viễn thơng”.
....
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ, áp dụng pháp luật:
- Điểm a khoản 1 Điều 288, điểm i,s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 46

và Điều 47 của Bộ luật hình sự;
- Điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình
sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tịa án.
1. Về tội danh: Tun bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Đưa hoặc sử dụng
trái phép thơng tin mạng máy tính, mạng viễn thơng”.
2. Về hình phạt chính: Xử phạt:
Phạm Văn H 06 tháng tù cho hưởng án treo. Thời hạn chấp hành hình phạt
tù tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 16 tháng 4 năm 2020.
Khơng áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo
3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
Tịch thu sung quỹ Nhà nước tài sản do bị cáo H dùng vào việc phạm tội:
giìn 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 và 01 thiết bị phát sóng wìi của
nhà mạng VNPT.
25


×