Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

BIỂU TƯỢNG TRĂNG TRONG THƠ CA NGUYỄN TRÃI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.22 KB, 24 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Trong thơ văn Nguyễn Trãi cũng như trong ca dao người Việt có một biểu
tượng nổi bật lên như một điểm sáng thẩm mỹ thu hút sự chú ý của nhiều người.
Đó là biểu tượng trăng. Biểu tượng này lâu nay là nguồn cảm hứng vô tận của
các nhà thơ, nhà văn cả trong văn học dân gian và văn học viết. Sự hấp dẫn,
cuốn hút của biểu tượng trăng với vẽ đẹp riêng của nó là một trong những lý do
cơ bản để tôi đén với đề tài:” Biểu tượng trăng trong thơ văn Nguyễn Trãi và
trong ca dao người Việt”
Ngồi lý do có tính khởi đầu đó, cịn xuất phát từ việc muốn thấy rõ hơn
mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học Việt Nam trung đại qua một biểu
tượng xuất hiện phổ biến trong văn thơ Nguyễn Trãi và trong ca dao. Hai bộ
phận này tuy có phương thức sáng tác khác nhau, có hệ thống thi pháp khơng
giống nhau nhưng ln có mối quan hệ ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau.
Việc tìm hiểu và so sánh này sẽ góp phần xác định rõ mối quan hệ giữa hai bộ
phận văn học đó.
So sánh biểu tượng trăng trong trong thơ văn Nguyễn Trãi và trong ca dao
đòi hỏi phải chỉ ra những điểm tương đồng và chỗ khác biệt của biểu tượng đó
trong hai bộ phận văn học. Giải quyết vấn đề này, cần trả lời hai câu hỏi: Biểu
tượng trăng được thể hiện như thế nào trong thơ văn Nguyễn Trãi và trong ca
dao? Những nguyên nhân nào tạo nên nhưng điểm tương đồng và khác biệt của
biểu tượng đó, trong hai bộ phận thuộc hai nền văn học ở Việt Nam?
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Văn bản thơ Nguyễn Trãi là cuốn Tuyển tập thơ văn Nguyễn Trãi của tác
giả Trần Thanh Đạm,Phan Sỹ Phần, NXB giáo dục,Hà Nội, 1967. cuốn Nguyễn
Trãi hợp tuyển thơ, nhiều người biên soạn, NXB hội nhà văn. Cuốn Nguyễn Trãi
tác giả và tác phẩm của Nguyễn Hữu Sơn, NXB giáo dục. Văn bản ca dao được

1



dùng để tìm hiểu vấn đề này là cuốn kho tàng ca dao người Việt của tác giả
Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật, NXB Văn hóa – Thơng tin, Hà Nội, 2001.
Sử dụng phương pháp khảo sát, thống kê văn bản thơ văn Nguyễn Trãi và
kho tàng ca dao người việt để thấy được mức độ cũng như sự tương đồng và
khác biệt .
Phương pháp so sánh để chỉ ra những nét giống và khác nhau của thơ
Nguyễn Trãi và ca dao trong việc thể hiện biểu tượng đó.
Phương pháp phân tích, tổng hợp một số bài ca dao và một số câu trong
thơ Nguyễn Trãi.
3. Lịch sử vấn đề
Tìm hiểu biểu tương trăng trong thơ Nguyễn Trãi và trong ca dao người
Việt là vấn đề cũng đươc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đạt được một số
thành tựu.
Trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam tập 2, NXB GD, 1991 ở bài ca
dao, tác giả Hoàng Tiến Tựu đã đưa ra nhận xét về sự xuất hiện của trăng như
một cảnh sắc thiên nhiên độc đáo trong ca dao. Tác giả viết “ Thiên nhiên giữ
vai trò rất quan trọng trong ca dao cổ”. Tác dụng và hiệu quả thẩm mỹ của nó
trong ca dao rất to lớn và đa dạng. Thiên nhiên đi vào ca dao với những nét sống
động về đường nét, hình dáng, màu sắc của chúng. Chẳng hạn về trăng, có
“trăng khuyết”, “trăng trịn”,”trăng đầy”, “trăng non”, “trăng già”, trăng
mờ”,”trăng tỏ”,”trăng thanh”…Rồi lửng lơ vầng quế soi thềm,đèn tà thấp thống
bóng trăng.
Những nhận xét đó tuy chưa nói rõ trăng xuất hiện trong ca dao như một
biểu tượng nhưng đã chỉ ra tính đa dạng, nhiều hình,nhiều vẻ của hình ảnh này.
Đây là nhận xét giúp chúng ta có điều kiện để tiến sâu hơn khi đi vào tìm hiểu
biểu tượng trăng trong ca dao người việt.
Trong cuốn thi pháp ca dao NXB KHXH,1992,ở mục “Các biểu tượng
trong ca dao” tác giả Nguyễn Xuân Kính cũng đã dành một số trang viết cho
biểu tượng trăng “biểu tượng là hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan,thể
2



hiện quan điểm thẩm mỹ, tư tưởng của từng nhóm tác giả, từng thời đại, từng
dân tộc và từng khu vực cư trú”.
Trong bài báo có tiêu đề “Biểu tượng trăng trong ca dao dân gian” (tạp chí
văn học số 5,1988) tác giả Hà Cơng Tài sau khi trình bày khá kỷ về biểu tượng
này trong ca dao đã nêu rõ “biểu tượng trong thơ ca dân gian cưc kỳ phong phú.
Chỉ riêng biểu tượng thiên nhiên như: trăng, sao, núi…đã có thể tới mức bách
khoa về địa lý phong tục Việt Nam trong đại ngàn thời gian và không gian, lịch
sử. Nhưng hơn hết chúng ta có thể tìm hiểu về mỹ học dân tộc, về đặc điểm tư
duy thơ ca dân tộc,đồng thời góp thêm một hướng tiếp cận thơ”.
Trong thơ Nguyễn Trãi bàn về biểu tượng trăng thì cũng đã được nhiều
nhà nghiên cứu tìm hiểu. Hầu như tất cả các biểu tượng trong “quốc âm thi tập”
đều được Nguyễn Trãi sử dụng sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh và những cảm
xúc khác nhau của một hồn thơ xúc động và ngọn bút có thần.
Kết thúc bài báo viết về biểu tượng trăng trong thơ ca dân gian, Hà Công
Tài đưa ra lời đề nghị “Nếu như hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực của biểu
tượng thì chính là xét trên phương diện đó, chúng ta có thể đạt tới cơ sở nghiên
cứu thơ ca bắt đầu từ thơ ca dân gian trong toàn bộ lịch sử ngữ văn”.

3


NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I:
BIỂU TƯỢNG TRĂNG TRONG THƠ CA NGUYỄN TRÃI
1.1. Giới thuyết khái niệm biểu tượng
Nói đến biểu tượng tức là nói đến hình ảnh cảm tính về hiện thực khách
quan - đó là hình ảnh sao chép lại nguyên sơ cái hiện thực do các cảm giác khác
nhau như thị giác, thính giác góp phần tạo nên. Khác với cảm giác đem lại cho

ta từng đặc điểm cụ thể riêng biệt của hiện thực, biểu tượng cho ta đặc điểm
chung nhất,cho ta cái tên gọi đơn giản nhất. Ví như nhà họa sỹ ngắm nhìn biết
bao cây dương anh có thể quên đi đặc điểm cụ thể của từng cây dương một.
Nhưng trong anh biểu tượng cây dương bao giờ cũng hiển hiện mỗi khi nhắc tới
nó. Cịn khác với tri giác là sự phản ánh trực tiếp toàn bộ sự vật trong một
trường hợp cụ thể, biểu tượng là phản ánh khái quát hơn và trừu tượng hơn,
ngồi ra biểu tượng cịn bao hàm những yếu tố của sự đánh giá một cách thực
tiễn sự vật mà người ta nhận xét trên một ý nghĩa nào đó. Biểu tượng của người
thợ mộc về cây dương khác biểu tượng của người họa sỹ vì quan hệ thưc tiễn
của họ về cây đó khác nhau. Xe-sơ-nơv gọi biểu tượng là con số bình qn của
những tri thức cảm tính về sự vật. Pap-lov chỉ rằng so với tri giác thì biểu tượng
hình thành ở một trình độ cao hơn của hoạt động thần kinh cao cấp. So với tư
duy “Biểu tượng thông thường nắm được sự khác nhau và mâu thuẩn, nhưng
khơng nắm được sự chuyển hóa”. Nếu như biểu tượng cịn ở mức đơn giản và
cố định thì tư duy đã vươn tới mức lý giải sự vật, hiện tượng trong tính quy luật
của nó. Tư duy chính là được rút ra từ biểu tượng và từ đó mới sinh ra khái niệm
hay biểu tượng. Hay nói như SacsloBaly – “Suy nghĩ có nghĩa là tác động tới
biểu tượng bằng cách nhận thấy sự có mặt của nó, đánh giá nó hay mong muốn”.
Trong mỗi chúng ta, biểu tượng tồn tại tất yếu tới mức không mấy khi
chúng ta để ý đến. Cũng giống như không mấy khi chúng ta chú ý đến thao tác
kết hợp và liên tưởng của hoạt động và ngơn ngữ trong nói năng, giao tiếp,
4


nhưng nó là hiện thực và nhờ thế ta mới được, nhờ biểu tượng ta suy nghĩ được.
Biểu tượng còn là yếu tố quan trọng hợp thành các rung động, cảm xúc, phương
tiện có hiệu lực để điều khiển các cảm xúc của con người. Biểu tượng góp phần
làm nên sự phong phú trong tinh thần của chúng ta, nhờ biểu tượng chúng ta
cảm nhận được thế giới tự nhiên và xã hội trong mọi sắc thái đa dạng của nó.
Nếu như trong một thế giới tự nhiên và xã hội trong mọi sắc thái đa dạng của nó.

Nếu như trong một con người biểu tượng là thơng thường thì trong nhiều con
người biểu tượng là vơ tận, cịn thế giới “biểu tượng trong thơ ca dân gian thì
cực kỳ phong phú ”. Chỉ riêng biểu tượng thiên nhiên như trăng, sao, núi, đồi,
cây, cỏ, sơng, nước…đã có thể tới mức bách khoa về địa lý – phong tục Việt
Nam trong đại ngàn thời gian và không gian lịch sử. Nhưng hơn hết, chúng ta
có thể từ đó mà tìm hiểu về mỹ học dân tộc, về đặc điểm tư duy thơ ca dân tộc,
đồng thời góp thêm một hướng tiếp cận thơ.
Hiện nay chúng ta khó có thể nói một cách chính xác thời điểm phát triển
của thơ ca trữ tình. Nhưng căn cứ vào sự triển khai các chủ đề cơ bản và phong
cách biểu hiện trong văn học có thể nó có là bộ phận văn học phát triển mạnh
nhất vào thời kỳ trung đại phong kiến. Trong loạt chủ để này, một thế giới trăng
lung linh huyền ảo xuất hiện. Đó khơng phải là sự miêu tả “trữ tình khơng dung
hợp được thứ giọng điệu “thuần túy” miêu tả vốn thường gặp ở tác phẩm tự sự”.
Thế giới của trăng nhưng cũng là thế giới tâm tư tình cảm con người. Khi tươi
vui hạnh phúc:
“Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng,
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng,
Đan sàng thiếp cũng xin vâng,
Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng”.
Hay
“Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”.

5


Hoặc
“Đôi ta như lửa mới nhen,
Như trăng mới mọc như đèn mới khêu”.
Khi đợi chờ đau khổ:

“Anh đi đường ấy xa xa,
Để em ơm bóng trăng tà năm canh”.
Hay
“Ngày ngày em đứng em trông,
Trông non non ngất trông sông sông dài,
Trông mây mây kéo ngang trời,
Trông trăng trăng khuyết trông người xa”.
Hoặc
“Một mai bóng xế trăng lu,
Con ve kêu mùa hạ biết mấy thu cho gặp chàng”.
Khi chung thủy son sắt:
“Mình về sao được mà về,
Mặt trăng cịn đó lời thề cịn đây,
Chăng nên tình nghĩa trước sau,
Bến này giải bóng trăng thâu đợi thuyền”.
Khi cơ đơn vắng lạnh:
“Gió đưa trăng thì trăng đưa gió,
Trăng lặn rồi thì gió đưa ai”.
Nhớ thương:
“Trăng lên đỉnh núi trăng nghiêng”.
Cách ly cách biệt:
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng”.
Hay trong trạng thái tương đối của cuộc đời:

6


“Trăng bao nhiêu tuổi trăng già,
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non”.

Có thể từ đó đặt vấn đề tìm hiểu đặc điểm của câu mở đầu trong thơ ca
dân gian hay đặc điểm kết cấu và đó là nhưng khía cạnh. Xét trên lĩnh vực biểu
tượng, ở đây chúng ta không thể biểu tượng nguyên sơ về trăng như trong thần
thoại, cổ tích mà như trăng vàng, trăng tà, trăng thanh, trăng lu, trăng khuyết,
trăng nghiêng, trăng xế, trăng xẻ làm đôi. Nghĩa là trăng mang màu sắc xúc cảm.
Biểu tượng trăng vì thế là biểu tượng nên thơ. Điều đáng hỏi là biểu tượng tự
thân nó khơng thể làm nên thơ. Biểu tượng muốn trở thành biểu tượng nên thơ
phải được “nhào nặn” “gọt đẽo” (chữ dùng của Hêghen) theo quy luật thơ. Cũng
giống như màu sắc và âm thanh chỉ thành hội họa và âm thanh sau khi đã mang
dấu ấn của hai loại hình nghệ thuật này. Muốn trở thành nên thơ biểu tượng
trăng phải được “đặt” trong khung cảnh thơ, trong khơng khí của thơ. Đồng thời
sẽ khơng có kết cấu thơ “múc đổ đi – trăng vàng” (sao cô múc ánh trăng vàng đổ
đi). Đêm năm canh – trăng tà” (Để em ơm bóng trăng tà năm canh). Nếu khơng
có biểu tượng trăng nên thơ, với biểu tượng nên thơ cùng với các yếu tố khác
của nghệ thuật người nghệ sĩ dân gian đã đạt tới sức sáng tạo diệu kỳ - làm xuất
hiện những hình tượng thơ, và nếu bình tâm đọc lại, chúng ta sẽ thấy từ biểu
tượng trăng nên thơ. Thơ ca dân gian đã làm đọng lại đủ mọi nõi niềm về cuộc
đời đến không thua kém bất cứ mọt bộ phận thơ ca nào.
Chính từ biểu tượng trăng nên thơ, với tần số xuất hiện lớn nhất nhưng
không đồng nhất, chúng ta có thể nói rằng nghệ thuật thơ ca ấy là nghệ thuật xây
dựng những biểu tượng nên thơ. Đây là điều chính yếu khi chúng ta nói thơ ca là
nghệ thuật tinh tế nhất. Điều đó cũng giải thích cho trường hợp “làm thơ” nhưng
khơng phải là thơ. Những hình tượng thi ca.
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường”.
(Nguyễn Du)

7



Hoặc:
“Khuya về bát ngát trăng ngân đày thuyền”.
(Hồ Chí Minh)
Hay:
“Trăng soi khn mặt nghìn dấu u,
Ngày mai hai đứa đã hai nơi,
Hai đầu đất nước trong dông bão,
Cùng chung chiến đấu hai phương trời”.
(Nguyễn Đình Thi)
Cùng phát sinh từ đó và căn cứ vào thế giới biểu tượng vốn có gốc rễ
sâu xa từ hoàn cảnh sống và trưởng thành của nhà thơ, chúng ta có thể lý giải
được những hình tượng được xây dựng trong các tác phẩm của họ, và nếu như
thơ hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực của biểu tượng thì chính là xét trên phương
diện đó chúng ta có thể đạt tới cơ sở nghiên cứu thơ ca dân gian bắt đầu từ thơ
ca dân gian trong toàn bộ lịch sử ngữ văn.
1.2. Biểu tượng trăng trong thơ ca Nguyễn Trãi
1.2.1. Sự hiện diện của trăng trong thơ ca Nguyễn Trãi
1.2.1.1. Khảo sát thống kê
Trong việc tìm đọc tuyển tập thơ Nguyễn Trãi thì có rất nhiều bài thơ mà
ở đó tác giả dùng đến hình ảnh trăng,
Qua khảo sát, tơi thấy sự xuất hiện biểu tượng trăng được chia ở nhiều
mảng đề tài khác nhau. Với sự khảo sát ban đầu này ta thấy số lượng cũng
không nhiều, nhưng chỉ cần với số lượng như vậy cũng thấy được Nguyễn Trãi
là nhà thơ hay dùng biểu tượng trăng trong các sáng tác của mình. Qua thơ ông
ta cũng thấy được sự đồng cảm rất sâu sắc với con người trong xã hội cũ. Điều
đặc biệt hơn là qua thơ ơng ta tìm thấy được điểm tương đồng, sự gặp gỡ ở
những điểm chung giữa thơ ơng và ca dao đều diễn tả được hình ảnh trăng.

8



1.2.1.2. Sử dụng hình ảnh trăng trong thơ Nguyễn Trãi
Đứng trước hình ảnh trăng hay nguyệt trong thơ Nguyễn Trãi phần lớn là
các đông từ như: “thưởng nguyệt”, “hớp nguyệt”, “đạp nguyệt”, “còn nguyệt”,
“hỏi nguyệt”, “soi nguyệt”, “đeo nguyệt”, “chở nguyệt”, “lồng nguyệt”, “thức
nguyệt”, “quẩy nguyệt”… Hình ảnh đó cịn có sự kết hợp với các danh từ đứng
trước nó. Bao gồm: “đêm nguyệt”, “nhật nguyệt”, “hoa nguyệt”, “lầu nguyệt’,
“nguyệt nguyệt”, “phong nguyệt”, “cửa trăng”, “bóng trăng”…Hình ảnh trăng
lại có sự kết hợp với tính từ “minh nguyệt”, với số từ “một nguyệt”.
Đứng sau hình ảnh trăng là sự xuất hiện các động từ “nguyệt hiện”,
“nguyệt mọc”, “nguyệt đưa”, “nguyệt đeo”, “trăng kề”,…Có cả sự kết hợp với
tính từ : “nguyệt tròn”, “trăng bạc”, “trăng vằng vặc”…Tất cả những sự kết hợp
đó đã làm cho biểu tượng trăng có dáng vẽ riêng, được cá thể hóa chứ khơng cịn
có tính chất chung như biểu tượng trăng trong ca dao.
Đặc biệt nhờ sự kết hợp táo bạo của một bản lĩnh sáng tạo nghệ thuật mà
Nguyễn Trãi đã làm cho biểu tượng trăng trở nên mới lạ trong câu thơ.
“Một tiếng chày đâu đâm cối nguyệt’
(Tức Cảnh bài 1)
Hình ảnh “Cối nguyệt” chỉ có trong thơ Nơm Nguyễn Trãi mà khơng có
trong ca dao cũng như trong thơ của các nhà thơ khác.
1.2.2. Biểu tượng trăng góp phần thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình
Nguyễn Trãi khơng những là nhân chứng cho những biến động bão táp
của lịch sử thế kỷ XV mà còn là người trực tiếp tham gia vào chính những biến
động đó. Ngay cả cuộc đời ông cũng là một cuộc đời đầy những bão táp, thăng
trầm. Vì vậy, thơ ơng thể hiện rõ một vốn sống đã ở độ chín, một suy nghĩ sâu
sắc về cuộc đời đầy phức tạp và một tình cảm nhân hậu đối với thiên nhiên, con
người.
Qua thơ Nguyễn Trãi, ta có thể hiểu thêm rất nhiều điều về con người
Nguyễn Trãi với những khát vọng lớn lao và những tâm tư u uất.


9


Có khi, đó là nỗi nhớ day dứt trong những năm tháng xa quê tìm
đường cứu nước:
“Cố sơn tạc dạ triền thanh mộng
Nguyệt mãn Bình Than tửu mãn thuyền”
(Mạn hứng)
Đó là tình yêu quê hương đất nước của nhà thơ,sự day dứt đó cũng đã thể
hiện cho một con người đầy bản lĩnh và đầy tình cảm tha thiết, lắng đọng. Hình
ảnh trăng ở đây Nguyễn Trãi như muốn tìm về một chốn quê nhà thân thuộc của
nhà thơ, xem đó như là niềm an ủi và tự nhủ với lịng mình hãy bình an để tìm ra
con đường của một đấng nam nhi “Cơng danh trái”.
Có lúc, thơ ơng thấm lạnh một nỗi cô đơn tê tái trong những đêm dài trên
núi Côn Sơn:
“Rượu đối cầm đâm thơ một thủ
Ta cùng bóng lẫn nguyệt ba người”
Đó là tình cảm ưu quốc ái dân sâu nặng của nhà thơ, ông về ở ẩn nhưng
lịng ơng ln hướng về những con người nhỏ bé và bình dị nhất, để rồi phải
ngậm cái sầu nhân thế. Biểu tượng trăng ở đây nó thể hiện niềm cô đơn lẽ loi
đến tột đỉnh của nhà thơ, ơng chỉ có người bạn là cái bóng của chính mình và
hình bóng của trăng, lấy trăng làm người bạn tâm giao, là tri kỷ, điều đó phần
nào làm ta thấu hiểu cho nỗi lòng của một bậc thánh nhân trong hoàn cảnh này.
Trăng đã thành bạn, lẫn làm chung của con người mang nặng nhưng ưu tư.
Tuy nhiên, vượt qua tất cả những bất hạnh, thăng trầm của cuộc đời làm
quan bị ganh ghét, đố kỵ, Nguyễn Trãi vẫn giữ cho mình Một tấc lịng son cịn
nhớ chúa- Tóc hai phần bạc bởi thương thu. Có âm điệu buồn trong thơ ơng
nhưng đó khơng phải là âm điệu chủ đạo. Vấn đề lớn lao nhất mãi làm ông quan
tâm chính là ưu quốc, ái dân, lo cho đất nước và thương nhân dân. Ðiều làm tỏa
sáng nhân cách lớn lao của một người anh hùng, một kẻ sĩ chân chính.


10


Trong thơ ông, ta thường thấy những tư tưởng triết học phương Ðơng
được dân tộc hóa và những kết luận có giá trị về quy luật của đời sống. Nhà thơ
là con người giàu suy tư để dằn vặt với nỗi đau hữu hạn của đời người cho dù đó
là cuộc đời của người anh hùng:
Phải là người có vốn sống, sự từng trải mới có thể có

những nhận xét

sâu sắc về cuộc đời:
“ Tĩnh lý càn khôn kinh vạn biến
Nhàn trung nhật nguyệt trị thiên kim”
(Thu nguyệt ngẫu thành) .
Con người Nguyễn Trãi một lần nữa được ngợi ca ở việc tìm ra chân lý ở
đời, ơng đã lấy hình ảnh trăng và mặt trời để nói đến sự luân chuyển và biến
thiên của cuộc đời. Ở đó đã tìm thấy những điều mới mẻ và thú vị nhất.
Mạnh mẽ, hào hùng, khẳng khái, trong sách, đó là nhân cách và chí khí
Nguyễn Trãi được thể hiện qua thơ ơng.
Vì tự tin, tự hào nên trong bất cứ hồn cảnh nào, nhà thơ vẫn giữ được
phong thái ung dung, tự tại:
“Ðủng đỉnh chiều hôm dắt tay
Trông thế giới phút chim bay
Ðạp áng mây, ơm bó củi
Ngồi bên suối gác cần câu
Quét trúc bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng”.
Mạn Thuật

I.
“Ngày tháng, kê khoai những sản hằng,
Tường đào ngõ mận ngại thung thăng.
Đạo ta cậy bởi chân non khỏe,
Lòng thế tin chi mặt nước bằng?
11


Trì cỏ được câu ngâm gió,
Hiên mai cầm chén hỏi trăng.
Thề cùng viên hạc, trong hai ấy,
Thấy có ai han chớ đãi đằng.
Ngẫm ngượi sơn lâm mấy thị triều,
Nào đâu là chẳng đất Đường Nghiêu?
Người tham phú quí, người hằng trọng,
Ta được thanh nhàn, ta sá u.
Nơ bộc ắt cịn hai rặng quít,
Thất gia chẳng quản một con lều.
Miễn là tiêu sái qua ngày tháng,
Lộc được bao nhiêu ăn bấy nhiêu”.
II.
“Sơn thủy nhàn chơi phận khó khăn,
Cửa quyền hiểm hóc ngại chen chân.
Say minh nguyệt, chè ba chén,
Dịch thanh phong, lều một gian.
Ngỏ cửa nho chờ khách đến,
Trồng cây đức để con ăn.
Được thua phú q dầu thiên mạng,
Chen chóc làm chi cho nhọc nhằn?
Ở chớ nề hay, học cổ nhần,

Lánh mình cho khỏi áng phong trần.
Chim kêu cá lội yên đòi phận,
Câu quạnh cày nhàn dưỡng mỗ thân.
Nhà ngặt, túi không tiền mẫu tử,
Tật nhiều, thuốc biết vị quân thần.
Ấy cịn lng đng làm chi nữa?
Sá tiếc mình chơi áng thủy ngân”.
12


IV.
“Trường văn nằm ngả mấy thu dư,
Uổng tổn công nhàn biện lỗ ngư.
Cịn miệng tựa bình đà chỉn giữ,
Có lịng bằng trúc mỗ nên hư.
Yến từ nẻo lạc nhà Vương Tạ,
Quạt đã hầu thu lòng Tiệp Dư.
Chỉn sá lui mà thủ phận,
Lại tu thân khác, mức thi thư.
Quê cũ nhà ta thiếu của nào?
Rau trong nội, cá trong ao.
Cách song, mai tỉnh hồn Cô Dịch,
Kề nước, cầm đưa tiếng cửu cao.
Khách đến, vườn còn hoa lác,
Thơ nên, cửa thấy nguyệt vào.
Cảnh thanh nhường ấy chăng về nghỉ?
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào?”
Thơ Nguyễn Trãi ln chan hịa tình cảm đối với thiên nhiên, con người.
Ơng có cách nhìn, cách cảm tuyệt với trước vẻ đẹp của thiên nhiên, chân thành
tha thiết trong tình bạn, hóm hỉnh nhưng tế nhị, sâu sắc trong tình người.

Vì yêu thiên nhiên nên Nguyễn Trãi đã viết được những câu thơ tuyệt vời
về vẻ đẹp của thiên nhiên:
“Nước biếc non xanh thuyền gối bãi
Ðêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu
Hương cách gác vân thu lạnh lạnh
Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh”.

13


Với bạn, tác giả ln bày tỏ tấm lịng chân thành tha thiết:
“Có thuở biếng thăm bạn cũ
Lịng thơ ngàn dặm nguyệt ba canh
Danh thơm một áng mây nổi
Bạn cũ ba thu lá tàn”.
Với con người, tác giả tỏ ra rất sâu sắc, nhạy cảm trong khi phát hiện
những biến đổi, xao động phức tạp trong tâm hồn con người: Bài thơ Tiếc cảnh
10, Cây chuối, cảnh hè,..
Mộng Trong Núi
“Trong động Thanh Hư trúc cả nghìn
Như màn gương, thác đổ triền miên
Đêm qua trăng sáng, trời như nước
Mơ cưỡi hạc vàng lên cõi tiên”.
Ngơn Chí
“Cỏ xanh cửa dưỡng để lịng nhân,
Trúc rợp hiên mai quét tục trần.
Nghiệp cũ thi thư hằng một chức,
Duyên xưa hương hỏa, tượng ba thân.
Nhan Uyên nước chứa bầu cịn nguyệt,
Đổ Phu thơ nên bút có thần.

Nợ quân thân chưa báo được,
Hài hoa còn bện dặm thanh vân”.
Trăng Trong Nước
“Nguyệt trong đáy nước, nguyệt trên không,
Xem ắt lầm một thức cùng.
Hải nhược chiết nên cành quế tử,
Giang phi chiếm được giấc thiềm cung.
Thu cao, thỏ ướm thăm lịng biển,
Vực lạnh, châu mừng thốt miệng rồng.
14


Điệu khiếp thiên nhan, chăng nỡ tiễn,
Lui thuyền lang đang ở trên dịng”.
Tóm lại hầu hết các bài thơ có xuất hiện biểu tượng trăng đều được
Nguyễn Trãi sử dụng sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh và những cảm xúc khác
nhau của một hồn thơ xúc động và với ngọn bút có thần đã tạo nên một danh
nhân Việt.
CHƯƠNG II:
BIỂU TƯỢNG TRĂNG TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT
2.1. Khảo sát, thống kê sự xuất hiện của biểu tượng trăng trong ca
dao
Trong cuốn “kho tàng ca dao người Việt” do Nguyễn Xuân Kính, Phan
Đăng Nhật, Nguyễn Thúy Lan, Đặng Diệu biên soạn gồm 9 mục .
-Đất nước, lịch sử
-Quan hệ gia đình và xã hội
-Lao động và nghề nghiệp
-Tình u đơi lứa
-Sinh hoạt văn hóa văn nghệ
-Những lời bơng đùa giải trí

-Những thói hư tật xấu và các tệ nạn xã hội
-Những nỗi khỗ, những cách sống lầm than
-Kinh nghiệm sống và hành động
Với phạm vi đề tài ở đây tôi xin được đi vào khảo sát những bài ca dao có
biểu tượng trăng nói về tình u đơi lứa
Trong mảng “tình u đơi lứa chia làm 4 mục
-Những lời phản ánh tâm trạng, tình cảm chung cho cả nam và nữ.
-Những lời thể hiện tình cảm của nữ
-Những lời diễn đạt tình cảm của nam.
-Nam nữ đối đáp
15


Ở mục này gồm 340 câu có xuất hiện hình ảnh trăng, chiếm tỷ lệ 32%.
Như vậy qua khảo sát ban đầu, chúng tôi thấy sự xuất hiện của biểu tượng
trăng phổ biến ở một số đề tài, trong đó tình u lứa đơi là nhiều nhất với số
lượng bài lên tới 32%
2.1.1. Các loại hình trăng được miêu tả
Trăng Rằm:
-Đêm qua trời sáng trăng rằm
Anh đi qua cửa em nằm không yên
-Đôi ta mặt nguyệt hôm rằm
Bởi chung mưa dầm nhìn chẳng thấy sao
-Trăng rằm đã tỏ lại trịn
Canh năm trống đánh em còn chờ anh
-Trăng rằm đã tỏ lại tròn
Củ lang đất cát đã ngon lại bùi
-Trăng rằm tỏa sáng mây áng trăng lờ
Chẳng qua là duyên thiếp đợi số chàng bấy lâu
Từ những câu ca dao nói đến hình ảnh của ánh trăng thì người dân lao

động đã sáng tác nên những bài ca dao bất hủ. Từ những ánh trăng để nói rõ
được tâm trạng của những người đang yêu.
“Trăng rằm đã tỏ lại tròn
Canh năm trống đánh em cịn chờ anh”
Hình ảnh trăng là đẹp nhất, trăng như đã chứng minh cho tình yêu của
trai gái ở thơn q. Chính vì ở q nên hình ảnh trăng lại rất quen thuộc với họ,
trăng như sáng tỏ cả vùng quê “trăng rằm” không những mang lại ánh sáng mà
còn rất tròn càng làm cho người con gái nhớ đến người yêu nhiều hơn. Mặc dù
đêm đã rất khuya mà vẫn không làm cho cô vơi đi nỗi nhớ người yêu.
“Canh năm trống đánh em còn nhớ anh”
Hình ảnh trăng như chứng minh cho tình yêu của nam nữ, đã làm sáng tỏ
cả làng quê làm cho cảnh vật và con người đẹp hơn, cuộc sống vui tươi hơn.
16


Trăng đã đi vào trong ca dao, thơ ca một cách rất dễ dàng và đẹp lạ lùng.
Ca dao có nhiều câu đề cập đến Trăng rất ấn tượng :
“Trăng rằm mười sáu trăng nghiêng
Thương ai chúm chím cười riêng một mình”
Hay:
“Trăng mười sáu trịn vành vạnh”
Đạt đến trình độ viên mãn hấp dẫn chẳng khác nào một cô gái làm sao
với một nụ cười dễ thương đến lạ.
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”
Nó mang hơi hướng của ca dao, thật độc đáo khi tác giả dân gian “hạ”
được câu “bát”: “Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?” cực hay. Ánh trăng thì làm
sao mà múc đi được? nhưng các nhà thơ thì hồn tồn làm được mà những
người khác khơng làm được, vì như có ai đã nói rất hay rằng: “thơ cho phép
dùng cái phi lý để nói cái có lý” mà, “Sao cô múc ánh trăng vàng đỗ đi” – một

câu ca dao đầy hình ảnh và rất đẹp, ấn tượng.
“Trăng lên khỏi núi trăng già
Người yêu ta thật hay là yêu chơi”
“Người yêu ta thật hay là yêu chơi?”
Đó là một câu hỏi trong tình u mà các cô gái khi đến tuổi yêu cần phải
để ý, bởi thời đẹp nhất của con gái không dài, giống như trăng lên khỏi núi trăng
sẽ tà, sẽ lặn thôi, mà nếu ta không nắm rõ được đối tượng đến với ta là thật hay
chỉ là yêu chơi thì đến lúc hối tiếc sẽ muộn màng, chẳng khác nào lời than thở
khi đã qua muộn màng.
Trăng mờ:
“Con thuyền kia nước chảy lờ đờ
Con thuyền lững thửng với trăng mờ mà soi.
Trăng lên đỉnh núi trăng mờ
17


Mình yêu ta thực hay là yêu chơi
Đêm qua mở cửa chờ ai
Đêm nay cửa đóng then cài khăng khăng
Đêm qua mở cửa xem trăng
Đêm nay thơ thẩn xem trăng, trăng mờ”.
Bốn câu ca dao trên đã cho chúng ta thấy được người con trai đã nhờ
những câu ca dao để hỏi người con gái ca dao đã đi vào tình u nam nữ rất sâu
sắc
2.1.2. Cách nói về trăng
Chị Hằng:
-Muốn lên mà hỏi chị hằng
Căn duyên đã bén dùng dằng tại đâu
-Nội trong vịng nguyệt trơng trăng
Vầng quế:

2.2.Vai trị của trăng đối với nhân vật trữ tình trong ca dao
2.2.1.Thể hiện tình yêu thiên nhiên
Trong ca dao Việt Nam thì hình ảnh trăng được xuất hiện rất nhiều.Nhưng
ở mỗi câu ca dao thì ta lại cảm nhận nó chất chứa trong đó biết bao ý nghĩa khác
nhau, được thể hiện rõ trong từng bài ca dao cụ thể
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”
2.2.2.Thể hiện tình u đơi lứa
Trong ca dao tình u đơi lứa thì bài:”Lửng lơ vầng quế soi thềm” là một
trong những bài có những cách hiểu khác nhau thể hiện tình yêu
“lửng lơ vầng quế soi thềm,
Hương đưa bát ngát càng thêm bận lòng.
Dao vàng bỏ đãy kim nhung,
Biết rằng quân tử có dùng cho chăng”

18


CHƯƠNG III:
NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA BIỂU TƯỢNG
TRĂNG TRONG CA DAO VÀ THƠ CA NGUYỄN TRÃI
3.1.Những điểm tương đồng
3.1.1.Cách nói về trăng
Cả ca dao và thơ ca Nguyễn Trãi khi nói về trăng đều thể hiện một tình
cảm,ở đó có sự giao cảm giữa các tâm hồn. Thể hiện tình cảm đối với quê hương
đất nước hoặc là bày tỏ tâm trạng.
3.1.2. Những cách cảm về trăng
Có thể nói chỉ trong ca dao và thơ ca Nguyễn Trài thì hình ảnh trăng thật
bình dị, thân quen đến thế và biểu tượng trăng ấy đã làm nhân chứng các tâm
hồn thi sỹ bày tỏ lịng mình.

Ở ca dao do là tiếng nói của người bình dân nên tiếng nói đó có nhiều
đối tượng hơn và do nhiều đối tượng của nhiều tầng lớp người nên chỉ miêu tả
một cách chung chung về biểu tượng trăng.Thơ của Nguyễn Trãi là tiếng nói, là
cách cảm từ đáy lịng ơng, của cá nhân ơng nên đối tượng nói đến cũng rõ ràng
hơn,mức độ biểu hiện cũng như lựa chọn quết liệt hơn so với ca dao.
3.1.3. Góp phần bộc lộ cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Hình ảnh thiên nhiên đưa vào văn học thì trăng là một hiện tượng tự
nhiên, ca dao mượn hình ảnh trăng để miêu tả để nói lên tình u của con
người,hình ảnh trăng vừa nói lên cảm xúc trong sáng của con người, vừa là nhân
cứng của tình yêu.
3.2.Những điểm khác biệt
3.2.1.Trong cách thức miêu tả
Ca dao thường được sử dụng theo khuôn mẫu có sẵn, hay dùng lối so sánh
để biêu hiện tình cảm kín đáo.Do đó trong ca dao người việt cũng mang tính
biểu tượng và triết lý sâu sắc.
Ở thơ ca Nguyễn Trãi nó được thể hiện qua từng chữ từng câu hay cách
vận dụng ca dao,thành ngữ, tiếng việt.Qua những hình ảnh đó ta có thể thấy
19


được hơi thở, tấm lịng,tính khí, trí tuệ tốt ra từ lời kể, lời nói của ơng đặc biệt
là qua ngôn ngữ.
3.2.2.Trong việc dùng các từ ngữ chỉ định.
3.3.Nguyên nhân.
3.3.1.nguyên nhân của sự tương đồng
Nguyễn Trãi đã học ca dao cả về nội dung và hình thức, ca dao ra đời
trước từ đó Nguyễn Trãi đã học ở ca dao nhueng có sự chọn lọc và cải tiến, ngơn
ngữ của ca dao mộc mạc, bình dị
Ca dao và thơ ca Nguyễn Trãi đã có sự bắt gặp, tượng đồng với nhau
trong việc sử dụng biểu tượng trăng.

3.3.2.Nguyên nhân của sự khác biệt
Ca dao là một loại của văn học dân gian mang đặc điểm của văn học
dân gian.Ca dao do nhân dân lao động sáng tạo ra,với ngôn ngữ gần gũi, quen
thuộc, tác giả của ca dao là nhân dân lao động, chính họ đã góp phần làm nên
một nền văn học có giá trị.
Thơ ca Nguyễn Trãi là những cảm nhận riêng của ơng nhưng ơng đã có
nhiều cách tân mới mẻ khi sáng tác.
Sự khác biệt của biểu tượng trăng trong ca dao và thơ ca Nguyễn Trãi là
do đặc điểm thi pháp của từng bộ phận văn học tạo nên.

20


KẾT LUẬN
Qua việc trình bày trên có thể rút ra những kết luận chính về biểu tượng
trăng trong ca dao và thơ ca Nguyễn Trãi.
1.Trăng vốn là cảnh sắc thiên nhiên ở ngoài đời đã đi vào thơ ca Nguyễn
Trãi thời trung đại và vào kho tàng ca dao người Việt đã trở thành biểu tượng
góp phần tạo nên đặc sắc thẩm mỹ cho hai bộ phận văn học đó.
2. Biểu tượng Trăng trong thơ ca Nguyễn Trãi và trong ca dao tuy đều bắt
nguồn từ cảnh sắc thiên nhiên, từ hình ảnh rất quen thuộc trong cuộc sống của
con người nhưng có sắc thái biểu cảm riêng.
3. Mặc dù có những điểm khác biệt nhưng biểu tượng trăng trong thơ
Nguyễn Trãi và trong ca dao vẫn có những chỗ gặp gỡ, tương đồng. Cả Nguyễn
Trãi và tác giả dân gian đều đã sự dụng biểu tượng này như một phương tiện
nghệ thuật để góp phần diển tả cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình. Trăng
trong thơ ca Nguyễn Trãi và trong ca dao hiện ra với nhiều dáng vẻ, với nhiều
tên gọi và đủ mọi màu sắc. Biểu tượng này đều được nhìn ngắm, miêu tả trong
khung cảnh nên thơ, nó vừa là hình ảnh của khơng gian vừa gợi lên cảm giác
thời gian.

4. Sở dĩ biểu tượng trăng trong thơ ca Nguyễn Trãi và trong ca dao có
những điểm khác biệt và những chỗ tương đồng như vậy là do đặc điểm thi pháp
của từng bộ phận văn học quy định. Thơ ca Nguyễn Trãi nằm trong lĩnh vực thi
pháp của nền văn học trung đại Việt Nam còn ca dao nằm trong lĩnh vực thi
pháp học của bộ phận văn học dân gian người Việt.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trần Thanh Đạm,Phan Sỹ Phần. Tuyệt tập văn thơ Nguyễn Trãi.

NXB GD. 1967
2.

Trần Khắc Ngựu,Nguyễn Hữu Sơn. Nguyễn Trãi tác giả và tác

phẩm. NXB GD.
3.

Nhiều tác giả. Hợp tuyển thơ. NXB hội nhà văn

4.

Hoàng Tiến Tựu. Văn học dân gian Việt Nam, tâp 2.NXB GD. 1990

5.


Hà Công Tài. Biểu tượng trăng trong thơ ca dân gian. Soos5, 1988

MỤC LỤC
Trang
22


PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................
1
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu .........................................................
1
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu .................................................................
1
3. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................
2
NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I:
BIỂU TƯỢNG TRĂNG TRONG THƠ CA NGUYỄN TRÃI ...............................
4
1.1. Giới thuyết khái niệm biểu tượng ...................................................................
4
1.2. Biểu tượng trăng trong thơ ca Nguyễn Trãi .....................................................
8
1.2.1. Sự hiện diện của trăng trong thơ ca Nguyễn Trãi .........................................
8
1.2.2. Biểu tượng trăng góp phần thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình ...........
9
CHƯƠNG II:
BIỂU TƯỢNG TRĂNG TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT 15
2.1. Khảo sát, thống kê sự xuất hiện của biểu tượng trăng trong ca dao ................

15
2.1.1. Các loại hình trăng được miêu tả ..................................................................
16
2.1.2. Cách nói về trăng .........................................................................................
18
2.2.Vai trị của trăng đối với nhân vật trữ tình trong ca dao ...................................
18
2.2.1.Thể hiện tình yêu thiên nhiên ........................................................................
18
2.2.2.Thể hiện tình yêu đôi lứa ...............................................................................
18
CHƯƠNG III:

23


NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA BIỂU TƯỢNG
TRĂNG TRONG CA DAO VÀ THƠ CA NGUYỄN TRÃI .................................
19
3.1.Những điểm tương đồng ...................................................................................
19
3.1.1.Cách nói về trăng ...........................................................................................
19
3.1.2. Những cách cảm về trăng .............................................................................
19
3.1.3. Góp phần bộc lộ cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình. .........................
19
3.2.Những điểm khác biệt .......................................................................................
19
3.2.1.Trong cách thức miêu tả ................................................................................

19
3.2.2.Trong việc dùng các từ ngữ chỉ định. ............................................................
20
3.3.Nguyên nhân. ....................................................................................................
20
3.3.1.nguyên nhân của sự tương đồng ....................................................................
20
3.3.2.Nguyên nhân của sự khác biệt .......................................................................
20
KẾT LUẬN ............................................................................................................
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................
22

24


25


×