Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

luận văn tục ngữ ca dao dân ca việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.02 KB, 107 trang )

Lời cảm ơn
Khóa luận là một phần kết quả học tập và nghiên cứu tại Khoa Ngữ văn,
trường ĐH Vinh.
Em xin bày tỏ lịng biết ơn tới các thầy cơ giáo trong tổ Văn học Trung
đại Việt Nam, Trường ĐH Vinh, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của
cô giáo - Th. S. Nguyễn Thị Thanh Trâm đã giúp em hồn thành khóa luận này.
Khóa luận chắc hẳn cịn thiếu sót do điều kiện khách quan về thời gian,
tài liệu nghiên cứu cũng như sự hạn chế về một số mặt của bản thân. Rất mong
các thầy cơ cũng như bạn đọc đóng góp ý kiến và bổ sung cho khóa luận được
hồn thiện hơn.

1


PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
1. Nghệ Tĩnh là một phần máu thịt của đất nước Việt Nam, là chiếc cầu
nối trung gian giữa hai miền Nam- Bắc, đồng thời cũng là nơi có nền văn hố
dân gian phát triển phong phú vào bậc nhất so với nhiều địa phương khác trong
tồn quốc. Trong vườn hoa mn sắc ấy, những câu ca dao giao duyên đầy chất
Nghệ luôn có sức hút kì lạ đối với người đọc, người nghe.
2. Cái hay, cái đẹp của ca dao được thể hiện ở nhiều yếu tố, nhiều
phương diện khác nhau, nhưng biểu tượng sóng đơi- một thành tố trong thi
pháp ca dao, chi phối sự hình thành cấu trúc chung của nhiều đơn vị tác phẩm
là đại diện tiêu biểu. Vì vậy, người viết đã mạnh dạn lựa chọn đề tài" Biểu
tượng sóng đơi trong ca dao giao dun xứ Nghệ" với mong muốn bước đầu
phác hoạ được một cái nhìn tổng quan, những hiểu biết chung về biểu tượng
sóng đơi và giá trị biểu hiện nội dung tư tưởng tình cảm của nó.
3. Việc nghiên cứu ca dao từ biểu tượng là một xu hướng mới, góp phần
giúp người nghiên cứu hiểu thêm về quan niệm thẩm mĩ, bản sắc văn hóa và sự
sáng tạo nghệ thuật của người Nghệ trong ca dao nói chung và ca dao giao


duyên( ca dao tình u) nói riêng. Vì tình u chứa đựng đầy đủ nhất những
cung bậc tình cảm của con người với mn màu, mn vẻ.
4. Ngồi những lý do khoa học trên, đề tài cịn có ý nghĩa góp phần tạo
điều kiện thuận lợi học tập và giảng dạy ca dao trong nhà trường.
Đây cũng là một vấn đề mới góp phần giải quyết những vấn đề cịn đang
bỏ ngỏ.
II. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu biểu tượng trong thơ ca dân gian nói chung và ca dao
Việt Nam nói riêng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm. Đó là các cơng trình
của Vũ Ngọc Phan, Bùi Cơng Hùng, Hà Cơng Tài, Nguyễn Xn Kính, Nguyễn
Phương Châm, Nguyễn Thị Ngọc Điệp, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Triều Nguyên,
Đặng Diệu Trang, Phạm Thu Yến... đều khẳng định sự tồn tại phổ biến của các
1


biểu tượng, những giá trị thẩm mĩ, chức năng quan trọng của chúng trong ca
dao. Một số biểu tượng đã được đề cập khá chi tiết trong các bài viết. Chẳng
hạn:
1. Trong cuốn Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan
(1978), khi nói về hình thức nghệ thuật của ca dao, tác giả có viết: " Nhân dân
mượn những vật vơ tri để nói lên tâm sự mình, mượn những chim mng, cho
nó tính người, và mượn cả một số cây để ví với người này người nọ" [ 27, 67].
Đây là cơ sở hình thành các biểu tượng trong ca dao. Tiếp đó, Vũ Ngọc Phan đã
dành ít trang để tìm hiểu hình tượng con cị, con bống trong ca dao. Những hình
ảnh này chính là biểu tượng tượng trưng cho đời sống nhân dân: " người dân
lao động Việt Nam đem hình ảnh con cò và con bống vào ca dao dân ca là đưa
một nhận thức đặc biệt về một khía cạnh của cuộc đời vào văn nghệ, lấy cuộc
đời vào văn nghệ, lấy cuộc đời của những con vật trên đây để tượng trưng vài
nét đời sống của mình, đồng thời cũng dùng những hình ảnh ấy để khêu gợi
hồn thơ". Tuy nhiên, vấn đề nêu ra chỉ mang tính chung chung, chủ yếu là biểu

tượng đơn mà thôi.
2. Năm 1992, khi cho ra mắt độc giả cuốn Thi pháp ca dao, tác giả
Nguyễn Xuân Kính đã dành hẳn một chương viết về một số biểu tượng, hình
ảnh. Tác giả đã cho ta thấy được hệ thống biểu tượng phong phú, đa dạng trong
ca dao. Sau đó, tác giả đi sâu tìm hiểu một số biểu tượng cụ thể: Trúc- mai, hoa
nhài, con cò, rồng, loan, phượng. Tuy nhiên, ở đây mới chỉ dừng ở mặt nội
dung, tức là biểu tượng đó có nghĩa như thế nào chứ chưa tìm hiểu hình thức
của của từng biểu tượng, đặc biệt là những biểu tượng sóng đơi.
3. Đó cịn là một số bài viết trên tạp chí, tiêu biểu là:
- Nguyễn Xuân Kính, (1987), Ý nghĩa biểu cảm của hai từ" trúc". "
mai" trong văn chương bác học và trong ca dao dân ca, TC Văn hóa dân gian,
H, số 4, Tr 43- 45.
- Hà Công Hùng, (1988), " Biểu tượng trăng trong thơ ca dân gian", TC
Văn học, H, Số 5+ 6, Tr 65- 68.
2


- Triều Nguyên, (1997), " Về biểu tượng co chim quyên trong ca dao",
TC Văn hóa dân gian, H, số 3, Tr 96- 101.
- Nguyễn Phương Châm, " Biểu tượng hoa sen trong văn hóa Việt Nam",
TC Văn học dân gian, H, số 4, Tr 53-61. Trong đó tác giả đã nói nhiều đến cặp
biểu tượng sen- hồ, tượng trưng cho đơi bạn tình gắn bó keo sơn.
- Nguyễn Phương Châm, " Biểu tượng hoa đào", TC Văn hóa dân gian,
H, số 5, Tr 16- 22. Trong bài viết này, theo tác giả Nguyễn Phương Châm hoa
đào gẵn với tình u đơi lứa, gắn với chuyện nhân dun. Nó được ca dao sử
dụng nhiều theo từng cặp, cặp biểu tượng thường gặp nhất là mận- đào, thể
hiện sự nhớ nhung, trách móc, hờn dỗi trong tình u. Đó cịn là cặp biểu tượng
liễu- đào thể hiện tình son sắt, gắn bó mật thiết với nhau của đơi bạn tình. Hay
cặp lựu- đào luôn biểu tượng cho sự cách trở trong tình duyên.
Như vậy, bài viết cũng đã phần nào đề cập tới các cặp biểu tượng, nói

đúng hơn là biểu tượng sóng đơi. Từ đó giúp ta có cái nhìn sơ bộ về những biểu
tượng sóng đơi này trong ca dao.
Và hơn cả là:
- Nguyễn Thị Ngọc Điệp, (2001), "Thế giới biểu tượng sóng đơi trong ca
dao người Việt ", TC Văn hóa dân gian, số 3, Tr 54- 58.
- Nguyễn Thị Ngọc Điệp, (2002), "Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao
truyền thống người Việt", Luận án Tiến sĩ, ĐH Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh.
Đây là hai cơng trình trực tiếp đề cập tới biểu tượng, đặc biệt là biểu
tượng sóng đơi trong ca dao Việt Nam. Các biểu tượng sóng đơi chính là những
hình ảnh cặp đơi như: " thuyền- bến", "trúc- mai", " mận- đào", " rồng- mây", "
Trăng- sao", "sách- bìa", "bút- nghiên", "Kim- Kiều", " Vân Tiên- Nguyệt
Nga"... Chúng được sử dụng với tần số cao: 114/ 286 biểu tượng. Cũng theo đó,
Nguyễn Thị Ngọc Điệp đã đi sâu vào phân loại, tìm hiểu nguồn gốc, chức năng
của từng cặp biểu tượng. Những biểu tượng này không đơn thuần chỉ nghĩa sự
vật mà bằng khả năng sáng tạo của mình, tác giả dân gian đã cấp cho nó một
3


tầng nghĩa mới, biểu đạt qua lối so sánh, ẩn dụ. Nhờ đó chúng ta thấy được vai
trị khơng nhỏ của biểu tượng sóng đơi trong việc hình thành cấu tứ cũng như ý
nghĩa mỗi bài ca, góp phần làm cho mỗi bài ca dao thêm hàm súc, đa nghĩa.
- Hoặc trong bài viết " Thiên nhiên với thế giới nghệ thuật ẩn dụ và biểu
tượng trong ca dao dân ca", của Đặng Diệu Trang [ 29] cũng đề cập tới một số
hình tượng sóng đơi: " bướm- hoa", " rồng- mây", " trầu- cau", " cá- nước", "
loan- phượng"… Theo tác giả, những cặp sóng đơi này được tạo nên trong sự
kết hợp của những sự vật, hiện tượng tự nhiên tương đồng với nhau về phẩm
chất, thuộc tính. Thế giới tự nhiên vốn phong phú, bởi thế các biểu tượng sóng
đơi cũng đa dạng như chính nguồn cội của nó vậy.
Tất cả những cơng trình trên tuy đã mặt này hay mặt khác hướng sự chú

ý tới các biểu tượng, biểu tượng sóng đơi. Nhưng nó mới dùng lại ở kho tàng ca
dao người Việt chứ chưa đi sâu nghiên cứu ca dao của từng vùng miền, cụ thể ở
đây là ca dao giao duyên xứ Nghệ.
4. Việc nghiên cứu về ca dao, đặc biệt là ca dao giao dun xứ Nghệ đã
có khơng ít nhà nghiên cứu hướng đến, vì phạm vi có hạn chúng tơi chỉ điểm
qua một số cơng trình tiêu biểu:
- Nguyễn Phương Châm với" Sự khác nhau giữa ca dao người Việt ở xứ
Nghệ và xứ Bắc" , TC Văn hóa dân gian, số 3, 1997. Ở bài viết này, Nguyễn
Phương Châm đã so sánh những bài ca dao tình yêu xứ Nghệ và xứ Bắc và
khẳng định: " Ca dao tình yêu xứ Bắc mượt mà êm dịu hơn, ca dao tình yêu xứ
nghệ bộc trực, thẳng thắn và quyết liệt hơn… Ca dao tình u xứ nghệ ngồi
cái chất lãng mạn vốn có của ca dao Việt Namn, nó cịn rất thực tế, gần gũi với
cuộc sống đời thường đôi khi táo bạo, mãnh liệt" [ 6, 12+ 13].
- Trương Xuân Tiếu, " Đất nước, con người xứ Nghệ qua kho tàng ca
dao xứ Nghệ", TC Văn học dân gian, số 3, 1997.
- Phan Thị Mai, " Nét riêng của ca dao xứ Nghệ", LA Tiến sĩ, ĐH Vinh,
2000.

4


5.Tuy nhiên, nghiên cứu ca dao giao duyên xứ Nghệ từ biểu tượng thì chỉ
có số ít cơng trình, như:
- Ninh Viết Giao trong phần nghiên cứu giới thiệu" Kho tàng ca dao xứ
Nghệ" [ 14], đã dành một số trang nhất định giới thiệu về ca dao tình yêu nam
nữ, qua đó làm nổi bật tính cách, tình cảm, tâm hồn con người Nghệ. Ngồi ra,
ơng cũng có một phần nhìn nhận hết sức tinh tế về nội dung và chút ít về hình
thức ca dao xứ Nghệ, trong đó có việc sử dụng các biểu tượng.
- Hay trong cuốn" Về văn học dân gian Nghệ Tĩnh" của Ninh Viết Giao
[ 12], ơng đã chỉ ra một số hình ảnh quen thuộc thường xuyên được người

Nghệ sử dụng trong sáng tác của mình: sơng núi, thuyền bến, mận đào, trúc
mai, bướm hoa, miếng trầu bát nước... Nhưng nó cũng chỉ đơn thuần là nêu ra
các biể tượng mà thơi.
Đó cịn là một số khóa luận tốt nghiệp liên quan tới đề tài:
- " Một số phương tiện tu từ và biện pháp tu từ trong ca dao tình yêu xứ
Nghệ", Nguyên Văn Liên, 1999.
- " Thi pháp ca dao tình yêu người Việt xứ Nghệ", Tăng Thu Hiền, 1999.
Tuy nhiên, người nghiên cứu mới dừng lại ở ý nghĩa của một số biểu
tượng: trúc- mai, trầu cau, hoặc thủ pháp hình thành nên biểu tượng chứ chưa
nghiên cứu biểu tượng một cách toàn diện, hệ thống.
Mặc dù vậy, chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu của các cơng
trình nêu trên. Tất cả đều có giá trị gợi mở cho người viết trong q trình tìm
tịi, nghiên cứu một cách hệ thống các biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao
duyên xứ Nghệ.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Trong ca dao giao duyên xứ Nghệ, biểu tượng được sử dụng khá phổ
biến và đa dạng dưới nhiều hình thức khác nhau. Để tránh nhầm lẫn, người viết
xin trình bày rõ đối tượng nghiên cứu trực tiếp của mình, chỉ đi sâu nghiên cứu
các biểu tượng sóng đơi cụ thể trong từng bài ca dao. Những biểu tượng này
5


được xây dựng thông qua thủ pháp nghệ thuật so sánh và ẩn dụ, với nhiều tầng
nghĩa.
Không nghiên cứu những bài ca dao nào chỉ có một hình ảnh so sánh, ẩn
dụ về một hiện tượng hay nhân vật nào đó. Tuy nhiên trong từng vấn đề cụ thể
khi phân tích biểu tượng sóng đơi những hình ảnh so sánh, ẩn dụ này cũng sẽ
được sử dụng để liên hệ, đối chiếu.
2. Phạm vi nghiên cứu

Ở bài đề tài này, người viết chỉ đi sâu nghiên cứu các biểu tượng sóng
đơi trong ca dao giao dun xứ Nghệ, bộ phận ca dao người Việt (không khảo
sát ca dao các dân tộc ít người). Cụ thể là phần : Tình u nam nữ với 1984 bài
ca dao trong" Kho tàng ca dao xứ Nghệ" ( tập 1), do Ninh Viết Giao chủ biên,
NXB Nghệ An, 1996.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết đề tài này, người viết đã vận dụng một số phương pháp sau
đây:
- Khảo sát, thống kê, phân loại.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
Tất cả những phương pháp trên đều nhằm mục đích giúp hiểu sâu hơn, tỉ
mỉ và tồn diện hơn về biểu tượng sóng đơi, về cái hay, cái đẹp, nét độc đáo
của ca dao xứ Nghệ.
V. Đóng góp mới của khóa luận
Cùng với việc tiếp thu những thành quả nghiên cứu của những người đi
trước, chúng tôi đã cố gắng để có được những đóng góp mới khi thực hiện đề
tài này. Đó là:
- Góp phần hồn chỉnh thêm khái niệm biể tượng trong ca dao
- Các lập một hệ thống biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao duyên xứ
Nghệ, thống kê, phân loại, miêu tả nó.

6


- Khảo sát các biểu tượng sóng đơi về nhiều mặt: nguồn gốc, cấu tạo,
phương thức xây dựng và chức năng của chúng,
- Bước đầu lập danh mục những biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao
dun xứ Nghệ.
VI. Cấu trúc đề tài

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, bài viết sẽ được triển khai thành 2
chương:
Chương 1: Khảo sát, thống kê, phân loại. Nguồn gốc của của biểu tượng
sóng đôi trong ca dao giao duyên xứ Nghệ
Chương 2: Kết cấu. Phương thức xây dựng. Chức năng nghệ thuật của
biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao dun xứ Nghệ
Sau cùng là phần Phụ lục và Tài liệu tham khảo.

7


CHƯƠNG 1: KHẢO SÁT, THỐNG KÊ, PHÂN LOẠI. NGUỒN GỐC CỦA
BIỂU TƯỢNG SĨNG ĐƠI TRONG CA DAO GIAO DUN XỨ NGHỆ
1.1. Ca dao và ca dao giao duyên xứ Nghệ
1.1.1. Ca dao
Khái niệm ca dao được nhiều tác giả bàn đến trong nhiều cơng trình
nghiên cứu khoa học. Song cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong quan
niệm. Trước đây, " người ta gọi ca dao là phong dao, vì có những bài ca dao
phản ánh phong tục của mỗi địa phương, mỗi thời đại" [ 27, Tr 40].
Nhưng dần dần, cách gọi này ít được sử dụng, nhường chỗ cho từ ca
dao:
"Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán Việt. Theo cách hiểu thơng thường thì
ca dao là lời của các bài hát dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy…
hoặc ngược lại, là những câu thơ có thể" bẻ " thành những làn điệu dân ca"
[ 19, Tr 436].
Như vậy, giữa ca dao và dân ca khơng có ranh giới rõ rệt. Sự phân biệt
giữa ca dao và dân ca chỉ là chỗ khi nói đến ca dao, người ta thường nghĩ đến
những lời thơ dân gian; cịn khi nói đến dân ca người ta nghĩ đến cả làn điệu,
những thể thức hát nhất định.
Theo tác giả Vũ Ngọc Phan, "Ca dao là một loại thơ dân gian có thể

ngâm được như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu ca" [ 27,
Tr 40]. Định nghĩa này xem ca dao là một thuật ngữ, chỉ một thể thơ dân gian.
Ông cho rằng, nếu xét về nguồn gốc phát sinh thì dân ca khác với ca dao ở chỗ
nó được hát lên trong những hoàn cảnh nhất định, trong những nghề nhất định
hay ở những địa phương nhất định. Dân ca thường mang tính chất địa phương,
khơng như ca dao là những bài ít có địa phương tính, dù nội dung ca dao có nói
về một địa phương nào thì cũng vẫn được phổ biến rộng rãi.
Trong khi đó, tác giả Nguyễn Xuân Kính lại cho rằng: Ca dao được hình
thành từ dân ca. Khi nói đến dân ca, người ta thường nghĩ đến cả làn điệu với
những thể thức hát nhất định. Như vậy khơng có nghĩa là tồn bộ hệ thống
8


những câu hát của một loại dân ca nào đó (như hát trống quân, hát quan họ, hát
ghẹo, hát phường vải,…) cứ tước bớt tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi,… thì
sẽ đều là ca dao. Từ cách lập luận đó ơng đi đến định nghĩa:
"Ca dao là những sáng tác văn chương được phổ biến rộng rãi, được
lưu truyền qua nhiều thế hệ, mang những đặc điểm nhất định và bền vững về
phong cách" [ 20, Tr 79].
Tuy có nhiều cách hiểu và mỗi cách hiểu là một cách tiếp cận khác nhau,
nhưng ở đây chúng tôi không bàn về khái niệm ca dao mà chỉ điểm qua các ý
kiến để đi đến thống nhất theo một quan niệm nhất định, làm cơ sở nghiên cứu.
Theo đó, chúng tơi áp dụng định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán- Trần Đình
Sử- Nguyễn Khắc Phi: "Ca dao là danh từ ghép chỉ toàn bộ những bài hát lưu
hành phổ biến trong dân gian có hoặc khơng có khúc điệu" [ 15, Tr 31].
1.1.2. Ca dao giao duyên xứ nghệ
Văn học dân gian xứ Nghệ có nhiều thể loại khác nhau, mỗi thể loại lại
mang những đặc trưng riêng làm cho vườn hoa văn học thêm phong phú, tỏa
ngát hương thơm. Tuy nhiên, không phải thể loại nào cũng phát triển như nhau
mà ở Nghệ Tĩnh có một số thể loại văn học dân gian phát triển mạnh, đặc biệt

là thơ ca dân gian như hát ví, hát giặm… Điều này cũng dễ hiểu, bởi:
" Người xứ Nghệ thích thơ ca, thích nhạc dân gian, có thể nói cịn hơn
cả thích kể chuyện. Cho nên thơ ca, nhạc dân gian Nghệ Tĩnh có thể ví như một
dịng sơng bắt nguồn từ những mạch sâu kín qua nhiều thời đại, mang theo tâm
tư, tình cảm, ước mơ con người Việt Nam trên mảnh đất này. Nó khơng ngừng
tỏa khí mát bồi bổ mạch hào hứng cho quân chúng cần lao ở các địa phương.
Nó cũng khơng ngừng đem nước và mầu mỡ đến tưới tắm cho nền thơ ca nhạc
dân tộc. Chính nguồn thơ ca nhạc dân gian này đã sản sinh khơng ngớt những
nghệ sĩ bình dân nổi tiếng được nhân dân từng vùng, từng thời ca ngợi; đã góp
phần bồi dưỡng nhiều tài năng lỗi lạc của dân tộc" [ 10, Tr 252].
Giống với một số địa phương khác, Nghệ Tĩnh có kho tàng ca dao riêng
của mình. " Ca dao xứ Nghệ " là cách nói để chỉ những bài ca dao sưu tầm ở xứ
9


Nghệ( bao gồm cả nghệ An và Hà Tĩnh), kể cả những câu ca dao phổ biến trong
nước mà người Nghệ vẫn quen sử dụng. Có thể nói, kho tàng ca dao xứ Nghệ
có rất nhiều bài ca dao cổ, nhiều bài ca dao của những vùng khác nhau do nhiều
đời, nhiều nguồn để lại. Những bài ca dao như thế đã được thời gian sàng lọc,
gọt giũa cho phù hợp với cái" gu" của người Nghệ, mang hơi thở của con người
trên mảnh đất Hồng Lam này.
Về hình thức, ca dao xứ Nghệ cũng không khác mấy so với ca dao của cả
nước. Nó cũng sử dụng các thể lục bát, lục bát biến thể, trường đoản cú và rất ít
thể song thất lục bát… Có khác chăng là nó có sử dụng phần nào lối hát ví, hát
giặm, ít thấy ở ca dao nhiều nơi khác. Ca dao xứ Nghệ, vừa mang phong cách
địa phương độc đáo, vừa tình tứ, sâu lắng, thấm đẫm tâm hồn dân tộc: " Cái
tinh thần chung của ca dao xứ Nghệ là ham sống, vui vẻ tranh đấu, lạc quan,
tin tưởng vào sức lực của chình mình, tin tưởng vào thiên nhiên, tin tưởng vào
tương lai và rất tế nhị, mượt mà, dồi dào tình cảm" [ 14, Tr 14].
Nó khơng những thể hiện bản sắc của nhân dân trong vùng, mà kỳ diệu

thay, nó đã thầm lặng giúp đỡ bao nhiêu nhà thơ cổ điển ở xứ Nghệ xây dựng
nên những tác phẩm bất hủ, làm sáng rực lâu đài văn học dân tộc như Nguyễn
Du với Truyện Kiều, Nguyễn Huy Tự với truyện Hoa Tiên, Hồ Xuân Hương
với bao bài thơ độc đáo, táo bạo, Nguyễn Công Trứ với những vần thơ hào
phóng, lưu lốt bằng thể hát nó và bao nhà thơ nhà văn khác nữa ở thời kì cậnhiện đại.
Ca dao xứ Nghệ bao gồm nhiều mảng đề tài khác nhau. Đó là những bài
ca dao về đặc điểm địa phương, về lao động sản xuất, về thói hư tật xấu hay
những hủ tục của xã hội phong kiến và một mảng quan trọng, không thể thiếu
là ca dao giao duyên.
Tình yêu là thứ đạt đến độ cao nhất, sâu sắc và thiêng liêng nhất của cảm
xúc. Chẳng thế mà dù ở miền nào thì ca dao tình yêu cũng chiếm tỉ lệ lớn nhất.
Trong kho tàng ca dao xứ Nghệ có 1894 bài ca dao giao duyên, chiếm 45% [16,
Tr 17 ]. Bộ phận ca dao giao duyên là tiếng nói từ trái tim của nam nữ thanh
10


niên xứ Nghệ- những người đang rạo rực, say đắm trong tình u. Tồn bộ ca
dao giao dun xứ Nghệ giống như một vở kịch thơ dài với trăm hồi ngàn cảnh
khác nhau, góp phần làm phong phú thêm kho tàng ca dao Nghệ và giúp ta hiểu
sâu hơn về cuộc sống cũng như tâm hồn con người nơi đây.
1.2. Biểu tượng và biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao dun xứ
Nghệ
1.2.1. Biểu tượng và biểu tượng sóng đơi
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học [ 15 ], khái niệm biểu tượng được
giới thuyết như sau:
" Trong triết học và tâm lí học, biểu tượng là khái niệm chỉ một giai
đoạn, một hình thức nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật
cịn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta chấm
dứt.
Biểu tượng như là thuật ngữ của mĩ học, lí luận văn học và ngơn ngữ

học cịn được gọi là tượng trưng, nó có nghĩa rộng và nghĩa hẹp... Bằng hình
tượng, nghệ thuật sáng tạo ra một thế giới hồn tồn mang tính biểu tượng.
Cho nên, trong nghĩa rộng, biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng
hình tượng của văn học nghệ thuật. Theo nghĩa hẹp, biểu tượng là một phương
thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt có
khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào
đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lí sâu xa về con
người và cuộc đời"...[ 15, Tr 23+ 24].
Hay trong Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt,
Nguyễn Thị Ngọc Điệp đã đưa ra cách hiểu như sau về biểu tượng: " Biểu
tượng là dạng thức dùng một hình ảnh cụ thể để nói lên một ý niệm trừu tượng.
Đặc điểm nổi bật của biểu tượng là tính quy ước, thể hiện ở nhiều mức độ tùy
từng loại biểu tượng cụ thể" [ 2 ].
Hoặc trong Thi pháp ca dao, Nguyễn Xuân Kính cho rằng:

11


"Biểu tượng được hình thành trong một quá trình lâu dài, có tính ước lệ
và bền vững. Biểu tượng là cái nhìn thấy được mang một kí hiệu dẫn ta đến cái
khơng nhìn thấy được. Biểu tượng là vật mơi giới giúp ta tri giác cái bất khả tri
giác... Biểu tượng được hiểu như là những hình ảnh tượng trưng, được cả cộng
đồng dân tộc chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong một thời gian dài. Nghĩa
của biểu tượng phong phú, nhiều tầng bậc, ẩn kín bên trong nhiều khi khó nắm
bắt" [ 20, Tr 309 + 310 ].
Biểu tượng nghệ thuật bao gồm mọi dạng thức hình ảnh tĩnh cũng như
động. Những biểu tượng này có thể được tạo nên từ các loại hình nghệ thuật
khác nhau: Hội họa, điêu khắc, kiến trúc, điện ảnh, sân khấu… Điều này cũng
có nghĩa là biểu tượng có thể được hình thành bởi những chất liệu khác nhau:
Màu sắc, đường nét, hình khối, điệu bộ, động tác của con người… Trong văn

học, chất liệu để xây dựng nên biểu tượng là ngơn ngữ. Với ca dao, " khơng có
ngơn ngữ thì khơng có biểu tượng" (Bùi Mạnh Nhị).
Biểu tượng trong ca dao là một loại biểu tượng nghệ thuật, được xây
dựng bằng ngôn từ với những quy ước của cộng đồng. Thế giới biểu tượng này
vừa mang những đặc điểm của biểu tượng nói chung, vừa mang những nét
riêng đặc thù của nó do nghệ thuật ngơn từ, nghệ thuật thi ca dân gian qui định.
Có thể khẳng định, biểu tượng ca dao là sự mã hóa các giá trị tinh thần
của loài người theo suốt chiều dài thời gian. Ở đó, những người đi sau khám
phá và tri nhận được lối tư duy và những giá trị tinh thần của những người đi
trước, đến lượt họ lại tiếp tục đắp bồi thêm các lớp nghĩa mới.
Như vậy, biểu tượng luôn chứa đựng trong mình những giá trị đã được
vĩnh hằng hóa, song khơng vì thế mà nó trở thành nơi tồn đọng những giá trị cũ
mòn, nơi giam giữ các tầng ý nghĩ trong sự xơ cứng. Trái lại, biểu tượng là một
thực thể sống động, ln ln có sự ln chuyển nghĩa. Nó được ni dưỡng
bằng những lối tư duy, những tưởng tượng phong phú của con người. Đời sống
của con người không bao giờ bớt phức tạp và biểu tượng vì thế cũng khơng bao
giờ đơn giản hơn. Những phức tạp của cuộc sống dội vào tâm tư con người
12


những suy tưởng khơng cùng, để rồi từ đó chúng lại được dồn nén vào hệ thống
biểu tượng. Đó là con đường tất yếu của đời sống và cũng là xu hướng tồn tại,
phát triển tất yếu của biểu tượng.
Các biểu tượng cũng được hình thành theo những cách cấu tạo khác
nhau, phổ biến trong ca dao là 2 loại: biểu tượng đơn và biểu tượng đôi. Biểu
tượng đơn là biểu tượng chỉ bao gồm một sự vật, một hình ảnh duy nhất. Chẳng
hạn:
- Đừng lo phận áo không tay
Trời kia ngó lại anh may mất rồi.
- Mình em như tấm lụa đào

Cịn ngun chẳng xé, vng nào ai hay.
Biểu tượng sóng đơi ( biểu tượng đơi, biểu tượng cặp đôi) là biểu tượng
được tạo thành bởi hai sự vật, hai hình ảnh đi song song với nhau, liên kết bền
vững trong nhiều bài ca dao. Cá - nước, loan - phượng, dâu - tằm, bèo - sen,
bạc - vàng, trầu - cau, trăng - sao, rồng - mưa, ong - bướm, thuyền - bến, kim chỉ, gương - lược, cá - sông, cây đa - bến cũ - con đị, cúc - khuy,... là những
biểu tượng sóng đơi, mang những giá trị thẩm mĩ nhất định, tạo nên lối nói
riêng cho thể loại trữ tình này.
1.2.2. Biểu tượng sóng đôi trong ca dao giao duyên xứ Nghệ
Đến với kho tàng ca dao Việt Nam, có lẽ khó ai quên được những hình
ảnh sóng đơi như mận- đào, bướm- hoa, trúc- mai, thuyền- bến, rồng- mây,
gương- lược, ngọc- vàng, đũa ngọc- mâm thau, rồng- mây, hồ- sen... Chúng
xuất hiện trong nhiều bài ca khác nhau:
- Bây giờ rồng mới gặp mây
Sao rồng chẳng thở với mây vài lời.
- Bấy lâu cịn lạ chưa quen
Hỏi hồ đã có hoa sen chưa hồ
Hồ còn leo lẻo nước trong
Bấy lâu chỉ dốc một lòng đợi sen.
13


Nhưng những biểu tượng sóng đơi này khơng chỉ xuất hiện trong kho
tàng ca dao người Việt mà ca dao mỗi vùng miền khác nhau đều sử dụng, đáng
chú ý là kho tàng ca dao xứ Nghệ với mảng ca dao tình yêu.
Nghệ Tĩnh là cả nước thu hẹp lại. Theo đó, văn học dân gian xứ Nghệ là
một bộ phận quan trọng làm nên những giá trị tinh thần vơ cùng q báu của
nước Việt nghìn năm văn hiến:
" Hình như trên đất nước ta có loại hình văn hóa nghệ thuật gì, phạm vi
đề tài ra sao, nội dung phản ánh những vấn đề gì với mức độ ra sao, bề rộng,
bề sâu của nó, thì văn hóa văn nghệ dân gian ở xứ Nghệ cũng có đủ các loại

hình, với bấy nhiêu đề tài, nội dung và mức độ phản ánh như vậy. Hơn nữa nó
lại mang một sắc thái riêng- sắc thái xứ Nghệ…" [ 13, 9]. Nghệ Tĩnh từ miền
ngược đến miền xuôi, thời này qua thời khác, cha ông ta đã để lại một gia tài
bất tận, một kho văn học dân gian vô cùng phong phú. Cụ thể đó là kho tàng ca
dao xứ Nghệ nhiều màu, nhiều vẻ, nhiều dáng điệu. Nó cũng bao gồm những
thể thơ, những phương thức, những yếu tố như trong ca dao người Việt. Bởi
thế, trong ca dao giao duyên xứ Nghệ, nhân dân đã sử dụng khơng ít những
biểu tượng sóng đơi để diễn tả tâm tư, tình cảm của mình.
Đó có thể là những biểu tượng mang tính truyền thống biểu trưng cho
những nhân vật khác nhau trong tình yêu nam nữ: thuyền - bến, bướm - hoa,
loan - phượng, cúc - khuy, bút - nghiên, Kim Trọng - Thúy Kiều, Vân Tiên Nguyệt nga, mây - rồng, dâu - tằm, trúc - mai…Vì ca dao xứ Nghệ là một bộ
phận của ca dao Việt Nam nên nhiều biểu tượng ăn sâu vào tâm thức người dân
bao thế hệ, được nhân dân lao động xứ Nghệ đưa vào trong sáng tác của mình
một cách phổ biến, rất tình tứ, bay bổng, lãng mạn:
- Chờ em như bướm chờ hoa
Chờ duyên chờ phận giang ca đến giừ.
( Câu 363/ 264)
- Đôi ta như cúc với khuy
Như kim với chỉn( chỉ) may đi cho rồi.
14


( Câu 557/ 286)
- Than ra cho biết đó đây
Cho loan biết phượng, cho mây biết rồng.
( Câu 1536/ 401)
- Thiên thai là của nàng Kiều
Chờ chàng Kim Trọng sớm chiều vào ra.
( Câu 1570/ 405)
Có lẽ khơng ít người đặt câu hỏi: những biểu tượng trên có gì khác so

với ca dao người Việt? Điểm khác ở đây là ngồi những biểu tượng truyền
thống, người dân Nghệ cịn mượn ngay những sự vật, sự việc, hiện tượng gắn
liền với cuộc sống khó khăn, khắc nghiệt, lam lũ trên quê hương mình để đưa
vào trong mỗi bài ca: ách - cày, trâu( bừa)- chạc mũi, cải - dưa, cà- dưa, nghé
- trâu, mật ong - khoai mài, mướp chột - kê tàn, lá hẹ - lá gừng... Dù tỏ tình hay
giãi bày những cung bậc khác nhau trong tình yêu thì người Nghệ vẫn viện dẫn
những biểu tượng giản đơn, bình thường, thậm chí tưởng như tầm thường. Nó
khơng có vẻ mĩ miều, mượt mà như xứ Bắc hay nhiều vùng miền khác, nhưng
lại chân thật, sâu sắc. Những biểu tượng đó thật bình dị, mộc mạc như chính
cuộc sống con người nơi đây:
- Ai làm cho vịt bỏ đồng
Cho cuông( công) bỏ rú, cho rồng bỏ mưa
( Câu 18/ 220)
- Được trâu anh lại bán bị
Được o( cơ) má thắm, bỏ o có chồng
( Câu 645/ 296)
- Ai làm cho ách xa cày
Trâu xa chạc mũi( dây thừng), đôi ta rày xa nhau.
( Câu 20/ 220)
- Mật ong bấm với khoai mài
…Trái cà bấm với cục dưa trong nồi
15


( Câu 140/ 237)
Tóm lại, có thể thấy, những biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao dun
xứ Nghệ vừa mang đặc trưng chung cuả biểu tượng sóng đơi trong ca dao Việt
Nam, vừa mang sắc thái địa phương độc đáo. Trên mảnh đất khắc nghiệt nắng
lắm mưa nhiều, gió Lào cát trắng này, cuộc sống nông nghiệp là chủ yếu của
người dân gặp khơng ít khó khăn, vất vả. Tuy vậy, họ vẫn luôn lạc quan và

bằng sự sáng tạo của mình, những sự vật, hiện tượng trong đời sống hàng ngày
đã được đưa vào ca dao một cách độc đáo. Cũng nhờ đó mà ca dao giao duyên
xứ Nghệ trở nên ấn tượng, hấp dẫn hơn nhưng vẫn giữ được nét riêng của nó.
1.3 Khảo sát, thống kê, phân loại
1.3.1. khảo sát thống kê
Hệ thống biểu tượng sóng đơi trong ca dao người Việt nói chung và ca
dao giao duyên xứ Nghệ nói riêng rất đa dạng, phong phú. Theo Nguyễn Thị
Ngọc Điệp, trong 286 biểu tượng trong ca dao người Việt thì số biểu tượng
sóng đơi đã chiếm gần phân nửa, gồm 114/ 286 biểu tượng [ 2, Tr 53 ]. Điều
này cho thấy biểu tượng sóng đơi có vị trí, vai trị khơng nhỏ trong việc giãi
bày tâm tư, tình cảm của nhân dân lao động. Nó góp phần làm cho mỗi bài ca
dao thêm hay, thêm đẹp, giàu sức biểu cảm, tứ độc đáo mà ý tình cũng sâu sắc,
thiết tha.
Nếu ca dao người Việt sử dụng biểu tượng sóng đơi gần phân nửa trong
những bài ca của mình, thì ca dao xứ Nghệ cũng không thua kém. Theo thống
kê của chúng tôi, trong 1894 bài ca dao giao duyên ở xứ Nghệ, có tới 373 bài
xuất hiện biểu tượng sóng đơi (chiếm 19,69 %), với 206 biểu tượng, tần số lặp
lại là 475 lần.
Nhìn vào số liệu trên có thể thấy, mặc dù ca dao giao duyên xứ Nghệ chỉ
là một mảng nhỏ của ca dao người Việt, nhưng tần số biểu tượng sóng đơi xuất
hiện nhiều hơn hẳn: Người Việt chỉ có 114 biểu tượng sóng đơi, trong khi đó ca
dao giao dun xứ Nghệ có tới 206 biểu tượng sóng đơi (gấp 1,8 lần). Điều này
một lần nữa khẳng định sự phong phú, đa dạng của ca dao giao duyên xứ Nghệ
16


và khả năng tư duy, sự vận dụng tài tình hiện thực cuộc sống vào trong sáng tác
của người dân Nghệ.
1.3.2. Phân loại
Hệ thống biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao duyên xứ Nghệ tồn tại

thành các tiểu loại, các hệ thống nhỏ dựa trên các tiêu chí khác nhau. Nếu dựa
vào dạng hình ảnh (chất liệu để xây dựng nên biểu tượng là cái biểu đạt) có các
dạng: Biểu tượng sóng đơi tương đồng, biểu tượng sóng đơi đơi lập. Nếu dựa
vào nguồn gốc hình thành nên biểu tượng có các tiểu loại: Biểu tượng sóng đơi
là các sự vật và hiện tượng tự nhiên, biểu tượng sóng đơi là các vật thể nhân
tạo, biểu tượng sóng đơi là con người.
Biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao duyên xứ Nghệ rất phong phú,
dựa vào nguồn gốc hình thành nên các biểu tượng đó có thể phân thành những
tiểu loại sau:
1.3.2.1. Biểu tượng sóng đơi là các sự vật, hiện tượng trong mơi trường
tự nhiên
Tiểu loại này có 109/ 206 biểu tượng sóng đơi( chiếm 52,91%). Tỉ lệ này
trong ca dao người Việt là 166/ 286 biểu tượng, bao gồm cả biểu tượng đơn và
đôi [ 2 ]. Trong 113 biểu tượng kể trên gồm các nhóm:
- Biểu tượng sóng đơi là hiện tượng tự nhiên: rồng - mây, trăng - sao,
trăng - cuội, gió - mây, nước - non, sao hôm - sao mai, sông - nước, mây mưa…
- Biểu tượng sóng đơi là thực vật: hoa lý - hoa lài, liễu - đào, cây - lá,
trúc - mai, hòe - quế, dâu cỏ - dâu tàu, thiên lý - mẫu đơn, sen - bèo…
- Biểu tượng sóng đơi là động vật: tằm - nhện, nghé - trâu, bướm - tằm,
phượng - loan, én - nhạn, cá - chim, rắn - rồng, phượng - rồng, trâu- bò, ong bướm, quạ - cị…
1.3.2.2 Biểu tượng sóng đơi là các vật thể nhân tạo

17


Theo khảo sát của chúng tơi, tiểu loại này có 76/ 206 biểu tượng sóng
đơi( chiếm 36,89%). ( Ca dao người Việt là 102/ 286 biểu tượng, gồm cả biểu
tượng đơn và đơi [2] ). Trong đó gồm:
- Biểu tượng sóng đơi là các đồ dùng cá nhân và dụng cụ sinh hoạt gia
đình: chăn - gối, nồi đồng - nồi đất, quạt - lài, cửa - then, kim - chỉ, nút - khuy,

bát sứ - bát đàn, khóa - rương, bút - nghiên, màn - chiếu, sáo - nhị, sách bìa…
- Biểu tượng sóng đơi là các cơng cụ, phương tiện sản xuất: ách - cày,
thuyền - bến, ván - đò, cuốc - thuổng, sào - nước, thuyền chài - lưới đăng, bừa
- chạc mũi…
- Biểu tượng sóng đơi là các cơng trình kiến trúc: chợ - đình, nhà ngói nhà tranh, sơng - cầu, cầu ván - cầu tre, giếng - bàu…
- Biểu tượng sóng đơi liên quan tới ẩm thực: cơm - canh, rượu - nem,
mật ong - khoai mài, trầu - rượu, trầu - thuốc…
1.3.2.3. Biểu tượng sóng đơi là con người
Tiểu loại này ít hơn cả, chỉ có 21/ 206 biểu tượng sóng đơi( chiếm
10,20%). ( Ca dao người Việt là 18/ 286 biểu tượng, gồm cả biểu tượng đơn và
đôi). Trong tiểu loại này lại gồm có:
- Biểu tượng sóng đơi là các nhân vật lịcch sử, văn học, nghệ thuật: Kim
Trọng - Thúy Kiều, Ngưu Lang - Chức Nữ, Ông Tơ - Bà Nguyệt, Tấn - Tần,
Châu - Trần, Phạm Công - Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa, Lưu Bình - Dương
Lễ, Phan - Trần…
Biểu tượng sóng đơi chỉ các bộ phận cơ thể con người: môi - răng, ruột gan
Như vậy, từ số liệu trên có thể thấy số lượng biểu tượng sóng đơi trong
ca dao giao dun xứ Nghệ được sử dụng với số lượng lớn. Trong đó nhiều
nhất là biểu tượng thuộc hệ thống I: Các sự vật hiện tượng tự nhiên (chiếm
52,91 %), tiếp đó là hệ thống II: Các vật thể nhân tạo (chiếm 36,82 %), sau
cùng là hệ thống III: Biểu tượng là con người (chiếm 10,20 %). Điều này sẽ
18


được trình bày một cách cụ thể, rõ nét trong bảng phân loại biểu tượng sóng đơi
dưới đây.

Bảng phân loại biểu tượng sóng đơi trong ca dao giao dun xứ Nghệ
I: Biểu tượng sóng đơi là các sự vật, hiện tượng trong
mơi trường tự nhiên


Nhóm biểu tượng

Biểu tượng sóng đơi

Số lần xuất hiện

Các hiện tượng
tự nhiên.

Rồng - mưa

2

Rồng - trăng
Trăng - cuội
Gió - mây
Trăng - trời
Khúc sơng - ngọn nguồn
Nước - non
Trăng - gió
Sao hơm - sao mai
Sơng - nước
Nước - mương
Trăng - sao
Trăng - mây
Trăng - nồm
Trăng - mặt trời
Sương - núi
Mây - rồng

Trăng - đèn

1
2
2
1
2
4
5
1
1
1
3
2
1
1
1
9
3

Trăng - hoa/ nguyệt- hoa

4

Thủy - ngư
Cỏ héo - mưa rào

19

2

2


Thế giới thực vật

Trầu - cau

21

Cây cả bóng cao - cây cả lá thưa
Sen - hồ
Hoa lí - hoa lài/ hoa lăng
Liễu - đào
Cau - hạt
Cây - lá/ rễ
Trúc - mai
Hoa - cành/ cội
Lá - tàu( tàu lá)
Hòe - quế
Dâu cỏ - dâu Tàu
Dâu - tằm/ tơ/ kén
Cà - cây

1
3
1
13
3
5
10

3
1
1
1
6
1

Cải/ muối - gừng

1

Thiên lí - mẫu đơn
Cau - bẹ
Lá hẹ - lá gừng
Bèo - nước
Sen - bèo
Hoa bông hoa bụt - hoa đào
Hoa - nhị
Lan - huệ
Khế - chanh
Cau già - cau hoa
Mận - đào
Tùng - cúc
Liễu - mai
Mướp chột - kê tàn
Cây quế - đất xấu
Hoa gạo - cỏ may
Hoa lí - hoa chiêng chiểng
Hoa - mùa xuân
Cam( quýt) - bòng

Lá liễu - lá hồng
Trầu- cuống

1
2
1
1
1
1
1
4
1
1
5
1
1
1
1
1
1
2
2
1
1

20


Bá - tùng
Quế - trầm

Hoa lý/ hoa lài - hoa khoai
Cam rịm hồng rim - khế rụng
Tre - măng
Trúc - chồi
Cam - quýt
Cây - dây leo
Cây - gió
Gỗ lim - bìm bìm
Bèo - sóng
Đào - mơ
Hoa - mưa
Kén - tơ
Cây đa - bến đò
Tằm - nhện
Nghé - trâu
Chim - lồng
Chim - cây/ cành
Bướm - tằm
Phượng - loan
Tằm - tơ
Én - nhạn
Cá - chim
Cá - lừ( đó)
Rắn - rồng
Phượng - rồng
Trâu - bò
Chim - bầy
Chim - ngàn
Tằm xoan- tằm già
Cá- lưới/ câu

Phượng hoàng - cây cao
Ong - bướm
Phượng hoàng - chim én
Phượng hồng - cây ngơ đồng
Quạ - cị
Tằm - kén
Ong - mật
Hạc - qui
Tằm - nhộng
Chim nhạn - chim oanh
Cá - sao
21

1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
2
2
1

2
2
1
8
7
2
1
5
1
3
1
1
1
1
2
1
3
1
1
1
1
1
1
1
1
1


Cá - sơng( ao/ đìa)
Cá - mưa

Trâu - chạc mũi
Chim - tổ
Hạc - hương án
Bướm bạch - trăng rằm
Vịt - đồng
Cuông (công) - rú
Ong (bướm) - hoa

9
4
2
2
1
1
1
1
24
Tổng: 268 lần/
109 biểu tượng

II : Biểu tượng sóng đơi là các vật thể nhân tạo

Nhóm biểu tượng
Đồ dùng cá nhân
và dụng cụ sinh
hoạt gia đình

Biểu tượng sóng đơi

Số lần xuất hiện


Chăn - gối
Nồi đồng - nồi đất
Nồi đồng/ kiềng sắt - than lim
Quạt - lài
Cửa - then
Bát sứ - bát đàn
Khóa - rương
Áo ngắn - áo dài
Áo vải - quần lụa
Ngọc - vàng( ngà)
Bút - nghiên
Cán - dao
Bạc - vàng
Màn - chiếu
Đĩa ngọc - mân thau
Lược - gương
Bấc - dầu/ đèn
Nống (nong) - tằm
Thuốc - điếu
Đuốc - đèn
Đĩa ngọc - mâm vàng/ mâm son

5
1
1
3
2
1
2

1
3
9
2
2
2
1
1
4
5
1
1
1
4

22


Cơng cụ, phương
tiện sản xuất

3. Các cơng trình
kiến trúc

Cúc - khuy
Kim - chỉ
Lửa - hương
Giường/ sập - chăn/ chiếu
Bếp- lửa
Sáo/ nhị - đàn/ đờn

Lược - trâm
Lụa - màu điều
Võng điều - chiếu hoa
Giấy - bút
Điếu bạc - đèn đồng
Cơi ngà - chén ngọc
Khăn nhung - nhiễu tàu
Quai đãy - chỉ vàng
Nắp bạc - ấm chè
Sách - bìa
Ngọc lành- giá cao
Kim vàng - lụa đào
Diêm - thuốc
Tơ vương - tơ mành
Kèo - cột
Diều - sáo
Nắp - chum
Gương - thủy
Ách - cày
Thuyền - bến/ biển- tàu
Ván - đò/ cầu
Thuyền - lưới
Cuốc - thuổng
Sào - nước

1
6
2
4
2

3
1
2
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
2
1
1
1
1
1
1
14
2
2
1
1

Bừa - chạc mũi (dây thừng)
Ruộng - bờ
Cưởi - ngành dâu


1
3
1

Chợ - đình
Câu đối - đình
Mõ - đình
Nhà ngói - nhà tranh
Sơng - cầu/ đị
Cầu ván - cầu tre

1
1
1
1
6
1

23


Biểu tượng sóng
đơi liên quan tới
ẩm thực

Giếng - bàu
Phấn - hồ

2
1


Rượu cúc - trà lan
Cà - dưa
Muối- vôi
Cơm - canh
Mật ong - khoai mài
Cá - dưa
Trầu - rượu
Trầu - thuốc
Trầu - cơi( cơi đựng)
Trầu - vôi
Vôi - thuốc
Phấn- hồ
Xôi - gà
Cải - dưa

1
1
1
3
1
1
2
7
2
3
1
1
1
1

Tổng: 157 lần/ 76
biểu tượng

III: Biểu tượng sóng đơi là con người

Tiểu loại

Biểu tượng sóng đơi

Các nhân vật
lịch sử, văn học,

Hán - Hồ
Lưu Linh - rượu
24

Số lần xuất hiện
3
1


×