Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

nghệ thuật trần thuật của hai tác phẩm văn học người đẹp say ngủ (yasunari kawabata) và hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (g marquez)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.23 KB, 40 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Giao lưu là xu thế của thời đại là động lực cho sự phát triển
R.Tagore từng cho rằng: “sức sống của một nền văn hoá là biết thừa kế tinh
hoa từ hai nguồn truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, dung hợp cái
muôn đời vào cái khoảng khắc”. Nghĩa là giữ lại cái tinh tuý nguồn cội, bản
sắc, đồng thời giao lưu tiếp thu tinh hoa nhân loại. Tư tưởng này của Tagore
khơng chỉ đúng với văn hố ấn Độ thời kỳ Phục hưng mà còn đúng với xu thế
hội nhập, giao lưu quốc tế hoá của thế giới ngày này. Và tất nhiên văn học
cùng nằm trong xu thế đó bởi “khơng có nền văn học nào khơng nảy sinh từ
một nền văn hoá nhất định”. Khi văn học nằm trong xu thế này thì sẽ có các
mối quan hệ ảnh hưởng và tiếp nhận văn học trên bình diện quốc tế. Có con
mắt quốc tế một hiện tượng văn học của một nền văn học sẽ được định vị,
đánh giá một cách có căn cứ và tăng độ nhạy cảm của việc phát hiện ra những
cái riêng. Từ đó ch khẳng định được cái độc đáo có ý nghĩa đặc trưng của
hiện tượng văn học. Vì vậy, nhìn nhận nghệ thuật trần thuật của hai tác phẩm
văn học Người đẹp say ngủ (Yasunari Kawabata) và Hồi ức về những cô gái
điếm buồn của tôi (G. Marquez) trong mối quan hệ giao lưu quốc tế dưới cái
nhìn đối sánh là con đường mà chúng tôi lưạ chọn ở đây.
1.2. Giọng điệu trần thuật là một trong những yếu tố hàng đầu trong tác
phẩm tự sự, là yếu tố quan trọng tạo nên phong cách nhà văn.
Giọng điệu là một trong những yếu tố hàng đầu của phong cách nhà
văn, là một phương diện biểu hiện trong tác phẩm tự sự, đồng thời cũng là
nhân tố đóng vai trị thống nhất các thành phần khác của tác phẩm trong một
chỉnh thể.
Vì vậy giọng điệu giữ vai trị phân biệt sự khác nhau của các tác giả, vai
trò chuyển tài tư tưởng, ý đồ sáng tạo của nhà văn. Nó là phương diện biểu

1



hiện quan trọng của chủ thể tác giả, phong cách cá tính sáng tạo của nhà văn
được thể hiện hết sức rõ nét qua giọng điệu.
Chính vì thế, tìm hiểu về giọng điệu trần thuật là việc làm cần thiết
trong cái nhìn đối sánh hai tác phẩm Người đẹp say ngủ (Y.Kawabata) và Hồi
ức về những cô gái điếm buồn của tôi (G.Marquez) để nhận ra phong cách, tài
năng cá tính sáng tạo của nhà văn.
1.3 Yasunari Kawabata là một bậc thầy, một trong những nhà tiểu thuyết
xuất sắc nhất thế giới với bộ ba tác phẩm đoạt giải Nôbel văn học: Xứ tuyết,
Cố đô, Ngàn cánh hạc. Đồng thời, ông cũng là một trong những phong cách
đại diện cho nên văn hố phương Đơng, duy mỹ, duy cảm, duy tình. Người
đẹp say ngủ là tiểu thuyết cuối đời của ông khi bút lực và phong cách đạt đến
điểm chín của nó. Đó là cuốn tiểu thuuyết dịng ý thức đỉnh cao của ơng, nó
khơng chỉ mang tính hồi cổ mà còn khá hiện đại, phảng phất màu sắc huyền
ảo. Marquez là nhà văn Côlômbia, đại diện cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo,
đạt giải Noben văn học năm 1982. Trong tác phẩm của ông, ta bắt gặp ảo
mộng ngập tràn. Thế nhưng Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi ra đời
sau khi Marquez đọc Người đẹp say ngủ làm ông chú ý đến văn học Nhật bản
lại giàu hiện thực, ít mộng ảo hơn. Cùng một đề tài nhưng họ cú cách chiếm
lĩnh và thể hiện khác nhau. Qua cái nhìn đối sánh, nó góp phần cho ta hiểu
được những đóng góp của những nhà văn lớn cho nền văn học thế giới, thấy
được sự giao thoa của các nền văn hoá, văn học dù khác xa nhau.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Kawabata là một hiện tượng văn học đặc biệt ở thế kỷ XX. Ông
được xếp vào vị trí quan trọng trong văn học thế giới và được bạn đọc khắp
thế giới đón đọc, nghiên cứu về ông.
Năm 1971, Nxb Mátcơva đã cho xuất bản tuyển tập tác phẩm của
Kawabata với nhan đề Kawabata sinh ra bởi vẻ đẹp nước Nhật. Đến năm
1975, Nxb này lại một lần nữa cho in cuốn Y. Kawabata sự tồn tại và khám

2



phá cái đẹp, từng có cả tình u và lịng căm thù. Việc dịch tác phẩm của Y.
Kawabata ra tiếng Nga sớm tạo điều kiện cho bạn đọc ở Nga và cho cả bạn
đọc trên tồn thế giới trong đó có Việt Nam được tiếp xúc với hiện tượng văn
học độc đáo này.
Ở Việt nam, tác phẩm của Y. Kawabata được biết đến lần đầu tiên vào
năm 1969 với bản dịch tiểu tuyết, Xứ tuyết của Chu Việt. Cùng năm này, Tạp
chí văn (Sài Gịn) đã cho ra số đặc biệt về Y. Kawabata. Trong đó có hàng loạt
truyện ngắn cùng các bài nghiên cứu về cuộc đời cũng như sự nghiệp của ông.
Tuy nhiên từ sự nhạy cảm đầu tiên này đối với “hiện tượng văn học”, Y.
Kawabata, chúng ta mới có được biết tác phẩm thứ hai của ông thông qua bản
dịch. Tiếng rền của núi của Ngô Quý Giang. Kể từ đó, tác phẩm của Y.
Kawabata liên tục được giới thiệu rộng rãi vào Việt Nam. Năm 1990, Giang
Hà Vị dịch Ngàn cánh hạc, Vũ Đình Phịng dịch Người đẹp say ngủ. Đến
2001 Nxb Hội nhà văn cho xuất bản Tuyển tập Y. Kawabata gồm 4 tiểu
thuyết: Xứ Tuyết, Ngàn cánh hạc, Tiếng rền của núi, Người đẹp say ngủ. Gần
đây nhất, trung tâm văn hố ngơn ngữ Đông Tây đã cho ra đời tuyển tập Y.
Kawabata gồm khá đầy đủ các tác phẩm của ông trên tất cả các thể loại: 6
truyện ngắn, 46 Tuyện trong lòng bàn tay, 6 tiểu thuyết cùng một số bài
nghiên cứu về Y. Kawabata trong và ngoài nước. Đây là cuốn sách tổng hợp,
tạo điều kiện tiếp xúc một cách khá đầy đủ và có hệ thống về các sáng tác của
Y. Kawabata.
Trong hệ thống các sáng tác của Y. Kawabata được dịch vào Việt Nam,
Người đẹp say ngủ được dịch và giới thiệu muộn hơn (1990). Người đọc chủ
yếu biết đến bộ ba tác phẩm nổi tiếng của ông là: Xứ Tuyết, Ngàn cánh hạc,
Cố đô. Khi tư duy văn chương được cởi mở hơn, Người đẹp say ngủ, cũng
được nhỡn nhận và thu hút bạn đọc Việt Nam khám phá. Đặc biệt khi cuốn
hồi ức được thể hiện dưới dạng truyện ngắn là Hồi ức về những cô gái điếm
buồn của tơi được dịch vào Việt Nam thì Người đẹp say ngủ càng trở nên hấp


3


dẫn, cuốn hút bạn đọc bởi sự tương đồng nhất định ở hai tác phẩm. Cho đến
nay, bạn đọc Việt Nam đã quen và yêu thích Người đẹp say ngủ, đặc biệt là
những người hâm mộ Kawabata.
Năm 1968, Kawabata nhận được giải thưởng Nobel văn học, Viện Hàn
lâm Thụy Điển đã có bài giới thiệu giải Nobel văn chương đã bao hàm sự
nghiên cứu sơ giản về Kawabata. Đồng thời đây cũng chính là cơng trình đầu
tiên trực tiếp bàn đến “nghệ thuật kể chuyện” của Kawabata. Bài giới thiệu
đã ngợi ca nghệ thuật bậc thầy của Kawabata qua hai tác phẩm Xứ tuyết và
Ngàn Cánh hạc. Từ đó đi đến khẳng định mang tính bao quát về nghệ thuật kể
chuyện của Kawabata “làm lu mờ kỹ thuật kể chuyện của châu Âu”. Đây là
cơ sở gợi ý để chúng tơi tìm hiểu về giọng điệu trần thuật vì giọng điệu nằm
trong nghệ thuật trần thuật tài tình của Kawabata ở tác phẩm Người đẹp say
ngủ trờn cơ sở đối sánh với nghệ thuật trần thuật của G. Marquer trong tác
phẩm Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tơi.
Ở Việt nam những cơng trình nghiên cứu khái qt về cuộc đời và sự
nghiệp của Kawabata cũng đã có những nhận định khái quát chung về phong
cách nổi bật của Kawabata. Tiêu biểu là chuyên luận Kawabata, cuộc đời và
tác phẩm (1997) của Lưu Đức Trung. Trong chuyên luận của mình Lưu Đức
Trung đã kết luận, Phong cách nổi bật của Kawabata mà người đọc dễ dàng
cảm nhận được là “chất trữ tính sâu lắng, nổi buồn êm dịu”. Chất trữ tình và
nỗi buồn đó chính là hơi thở giọng điệu làm nên phong cách Kawabata.
Còn Chu Sỹ Hạnh trong Yasunarri Kawabata dưới nhãn quan phương
Đơng (1969) đã có những cảm nhận sắc sảo về bút pháp của nhà văn này như
âm hưởng chung về cái cô đơn, những suy ngẫm nội tâm… trong tác phẩm
của Kawabata. Bút pháp này cũng là những gợi ý về giọng điệu cho chúng tơi
khi tìm hiểu về giọng điệu của Kawabata trong tác phẩm Người đẹp say ngủ.

Cơng trình bàn về nghệ thuật kể chuyện của Kawabata mang tính cơng
phu nhất đó là Văn hoá Nhật Bản và Yasunari Kawabata của Đào Thị Thu

4


Hằng xuất bản năm 2007. Trong cơng trình này tác giả đã đi sâu vào nghệ
thuật kể chuyện, một hướng tiếp cận từ góc độ tự sự học. Từ đó đã có nhiều lý
giải sau sắc về sáng tạo nghệ thuật cũng như khái quát phong cách Kawabata
thông qua nghệ thuật trần thuật. Trong đó có khái quát về giọng điệu trần
thuật là những cơ sở vô cùng quan trọng để chúng tơi tiến hành tìm hiểu về
những vấn đề đó trong giọng điệu trần thuật của Người đẹp say ngủ. Điều đặc
biệt là chúng tơi tìm thấy ở cơng trình này bài nghiên cứu so sánh Yếu tố
huyền ảo trong tác phẩm của Yasunari Kawabata và Garcia Marauez. Đây là
bài nghiên cứu đầu tiên về hai tác giải Marquer và Yasunari Kawabata trong
cái nhìn đối sánh. Nó gợi ý cho chúng tôi trong thực hiện đề tài đối sánh
giọng điệu trần thuật trong hai tác phẩm cụ thể của hai nhà văn này. Nhất là
khi trong bài viết đó có sự đối sánh về giọng điệu hai tác giả tuy đang ở mức
sơ lược khái qt.
Ngồi ra cịn có một số luận văn, luận án tuy không đi sâu vào giọng
điệu trần thuật nhưng ở đó cũng có một số ý kiến nghiên cứu về vấn đề này.
Chẳng hạn trong luận văn thạc sỹ Nghệ thuật trữ tình trong tiểu thuyết
Yasunari Kawabata (qua khảo sát tuyển tập Yasunari Kawabata) có đề cập
đến giọng điệu cùng sự linh hoạt điểm nhìn và thủ pháp trong tiểu thuyết Y.
Kawabata.
2.2. Là một nhà văn đại diện cho một khuynh hướng văn học “chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo”, Marquez từ lâu đã được bạn đọc trên thế giới biết đến.
Tuy nhiên đến giải Nobel văn chương (1982) mới là sự tôn vinh của cả thế
giới giành cho Marquez ở tầm cao tài năng nhân loại. Vị trí của Marquez trên
bầu trời văn học MỹLatinh và văn học thế kỷ XX được xác lập rõ ràng hơn,

và cũng từ đây tên tuổi của ông được đọc và nghiên cứu trên khắp thế giới,
đặc biệt là ở phương Tây.
Tại Việt Nam, những tác phẩm của Marquez ngày càng được độc giả
biết đến nhiều hơn qua các bản dịch của các dịch giả: Nguyễn Trung Đức,

5


Phạm Đình Lợi, Nguyễn Quốc Dũng, Phan Quang Minh, Lê Xn Quỳnh,
Nguyễn Mạnh Tứ, Đồn Định Ca… mà cơng đầu tiên thuộc về cố dịch giả
Nguyễn Trung Đức. Những tác phẩm của ông đựơc dịch và giới thiệu vào
Việt Nam từ cuối thập niên 60 thế kỷ XX. Đến nay số lượng tác phẩm của ông
được giới thiệu vào Việt Nam khá nhiều. Về tiểu thuyết có: Giờ xấu (1963),
Trăm năm cơ đơn (1967), Tình u thời thổ tả (1985), Tướng quân giữa mê
hồn trận (1989), Tình yêu và những con quỷ khác (1994). Về truyện ngắn:
Bão lá (1955), Ngài đại tá chờ thư (1961), Đám tang của mẹ vĩ đại (1962),
Chuyện buồn không thể tin được của Erendiran ngây thơ và người bà bất
lương (1972), Mười hai truyện phiêu dạt (1992), Hồi ức về những cô gái
điém buồn của tơi (2004)… Về ký sự, phóng sự: Chuyện kể của người bị
chìm tàu (1970), Chi lê đảo chính và bọn Mỹ (1974), Tin tức về một cuộc bắt
cóc (1997), Sống để kể lại (2002). Tuy nhiên, trên thực tế mọi sự chú ý của
các dịch giả và các nhà nghiên cứu về Marquez chưa toàn diện, hầu như chỉ
tập trung ở một số tác phẩm, nhiều tác phẩm chưa được chú ý đến, đặc biệt là
kịch và kịch bản phim chưa được giới dịch thuật quan tâm. Do đó, Marquez
vẫn là một hiện tượng, môt ẩn số chưa được giải đáp đối với độc giả Việt
Nam.
Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi được xuất bản năm 2004. Tin
cuốn sách sắp xuất bản lập tức thu hút hàng triệu người hâm mộ Marquez trên
thế giới, mọi người đã mong chờ sự kiện này rất lâu. Chỉ sau tuần lễ phát
hành, cuốn sách đã được bán với số lượng lớn và hiện đã được dịch ra nhiều

nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay dù tác phẩm
đã được nhiều bạn đọc Việt Nam biết đến nhưng độc giả vẫn chưa có sự định
hướng khi tiếp cận tác phẩm.
Marquez đã được bạn đọc Việt nam biết đến từ cuối những năm 60 của
thế kỷ XX. Vậy nhưng, cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu
nào về những tác phẩm của ơng một các quy mô, công phu. Trong số tác

6


phẩm của ơng dường như chỉ có Trăm năm cơ đơn là được chú ý nhiều. Bạn
đọc Việt Nam mới biết về Marquez qua cuộc đời, sự nghiệp và những tác
phẩm của ông dưới dạng đơn thuần văn bản. Trong Cái kỳ ảo trong tiểu
thuyết Trăm năm cô đơn của G. Marquez, khoá luận tốt nghiệp 2008, Trần Thị
Thanh Tâm đã giới thiệu về tiểu sử, sự nghiệp, về chủ nghĩa hiện thực huyền
ảo. Trong đó, Trần Thị Thanh Tâm có đề cập đến những đột phá trong nghệ
thuật biểu hiện của Marquez, như: phản ánh nghệ thuật truyền thống, tiêu
biểu là chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX như: Sự miêu tả cuộc sống y như thật
bằng hình thức tương ứng với bản thân cuôc sống […] đồng thời ông cũng đã
sáng tạo ra những phản ánh mới phù hợp với việc biểu hiện tâm trạng bất an,
lạc loài nổi lo âu và tình trạng lưu đày của con người trước hiện tại.
2.3. Điểm lại quá trình dịch, giới thiệu, nghiên cứu về hai tác giả và hai
tác phẩm trong phạm vi tài liệu bao quát được chúng tôi nhận thấy:
- Cho đến nay, các cơng trình nghiên cứu về Kawabata nhìn chung đã
đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên cịn khiêm tốn. Các cơng trình
đã bước đầu đề cập đến một số phương diện nghệ thuật của Kawabata nhưng
chưa có tính hệ thống. Cho đến nay chưa có cơng trình nào bàn về giọng điệu
trần thuật trong Người đẹp say ngủ.
- Từ cuối những năm 60 độc giả Việt Nam biết đến Marquez qua các
tác phẩm dịch nhưng đến nay những tác phẩm dịch chưa bao quát được hết

các mảng tác phẩm của ông. Đặc biệt chưa có được những cơng trình chun
sâu nghiên cứu về tác phẩm của ông bằng tiếng Việt. Bởi vậy, cho đến nay
Marquez vẫn là hiện tượng văn học lạ đối với bạn đọc Việt Nam. Cơng trình
nghiên cứu về tác phẩm Marquez còn khiêm tốn, chỉ tập trung vào Trăm năm
cơ đơn. Cịn lại các tác phẩm của ơng hầu như chỉ dừng lại ở dạng giới thiệu.
Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi cũng nằm trong số đó.

7


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Nghiên cứu giọng điệu trần thuật của tiểu thuyết Người đẹp say ngủ
(Kawabata) và Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tơi (Marquez) trong
cái nhìn so sánh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khảo sỏt của khúa luận là tiểu thuyết Người đẹp say ngủ
(1991), NXb văn học và Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (2007),
Nxb tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. Ngồi ra, chúng tơi cịn liên hệ những tác
phẩm có liên quan.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích của đề tài được thể hiện ngay ở tên đề tài đó là nghiên
cứu giọng điệu trần thuật trong Người đẹp say ngủ (Kawabata) và Hồi ức về
những cô gái điếm buồn của tôi (Marquez) trong cái nhìn đối sánh.
4.2. Với mục đích đó, đề tài đặt ra nhiệm vụ:
Chỉ ra được giọng điệu trần thuật trong cái nhìn so sánh hai tác phẩm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận vận dụng lý luận văn học so sánh trên cơ sở sử dụng các
phương pháp, như:
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại.

- Phương pháp phân tích, so sánh.
- Phương pháp tổng hợp.
6. Cấu trúc tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung chính của tiểu luận gồm
ba chương:
Chương 1: Giọng điệu trần thuật và vai trò trần thuật.

8


Chương 2: Giọng điệu trần thuật trong Người đẹp say ngủ.
Chương 3: Giọng điệu trần thuật trong Hồi ức về những cô gái điếm
buồn của tôi.
Cuối cùng là mục Tài liệu tham khảo.

9


Chương 1
GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT VÀ VAI TRÒ CỦA
GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT
1.1. Giọng điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự
Mỗi nhà văn có một giọng điệu riêng, góp phần tạo nên cá tính phong
cách nhà văn. Do đó nghiên cứu nghệ thuật trần thuật của một nhà văn qua tác
phẩm khơng thể khơng nghiên cứu tìm hiểu giọng điệu của họ bởi trong tác
phẩm đó. Giọng điệu là một trong những yếu tố hàng đầu của phong cách nhà
văn, là một phương tiện biểu hiện quan trong trong tác phẩm văn học, đồng
thời cũng là nhân tố đóng vai trò thống nhất các thành phần khác của tác
phẩm trong một chỉnh thể.
Từ trong mỹ học phương Đông các khái niệm như “hơi văn”, “khí văn”

“tình điệu” đã được đề cập và chúng là những khái niệm gần gũi với “giọng
điệu” ngày nay chúng ta dùng, thể hiện dấu hiệu cơ bản nhận diện phong các
nhà văn. Nhờ nó mà từ đời Tố Nghi Vũ đã có nhận xét tinh tế về thơ Lý Bạch
và Đổ Phủ: “Đỗ Phủ không làm nổi cái bay bổng của Lý Bạch, Lý Bạch
không làm nổi cái trầm uất của Đổ Phủ”.
Ngày nay, trong đời sống hàng ngày hay trong văn học khái niệm giọng
điệu được đề cập đến nhiều. Trong đời sống hàng ngày, giọng điệu được hình
dung trước hết như một tín hiệu âm thanh có âm sắc, trường độ, cao độ… Nó
gắn liền với mơi trường giao tiếp, có khả năng tạo nên tính khác biệt và biểu
thị một thái độ nhất định của người nói. Cịn giọng điệu trong văn học Từ
điểm thuật ngữ văn học đã định nghĩa: Giọng điệu là “thái độ tình cảm lập
trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể
hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm,
cách cảm thụ xa gần, thân sơ thành kính hay suồng sã, gợi ca hay châm
biếm…” [8;134].

10


Nguyễn Thái Hoà cũng đưa ra khái niệm giọng điệu tương tự: “giọng
điệu chính là mối quan hệ giữa chủ thể và hiện thực khách quan thể hiện bằng
hành vi ngơn ngữ trong đó bao hàm cả việc định hướng đánh giá và thói quen
cá nhân sử dụng ngơn ngữ trong những hoàn cảnh cụ thể” [12;154]. Xét về
bản chất giọng điệu, tác giả Nguyễn Văn Hạnh cho rằng “Bản chất của giọng
điệu trong tác phẩm được nhận thức không phải như một yếu tố tự nhiên mà
là sản phẩm của một quá trình sáng tạo, gắn liền với quan niệm nghệ thuật
cách nhìn thế giới của nhà văn. Nói một cách khái quát hơn, giọng điệu là một
biểu hiện của mối quan hệ giữ nhà văn với cuộc đời. Nếu quan niện tác phẩm
là một đơn vị trung tâm của văn học, là đối tượng của mọi nghiên cứu văn
học, dù là trực tiếp hay gián tiếp, thì giọng điệu là một phạm trù thẩm mỹ của

tác phẩm được hình thức hố qua những phương tiện biểu hiện của tác phẩm,
là hệ quy chiếu của các yếu tố: thời đại, thể loại, tài năng, cá tính sáng tạo
phong cách nhà văn..” [10,197]. Nguyễn Đăng Điệp cũng khẳng định giọng
điệu thể hiện lập trường, thái độ thị hiếu sở trường ngơn ngữ, nhấn mạnh vai
trị của đối tượng giao tiếp, cách tổ chức lời lẽ diễn đạt biểu hiện giọng điệu.
Tóm lại, từ những ý kiến trên chúng tơi có thể hiểu giọng điệu là một
phạm trù thẩm mỹ của các phẩm văn học. Giọng điệu thể hiện tình cảm, thái
độ, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu
tả trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điều tình cảm,
cách cảm thụ xa gần, thơ sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm.
Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ
của tác giả có vai trị rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác
dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn
chưa thể viết ra được tác phẩm mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ
thống nhân vật. Tuy nhiên, giọng điệu nhất định đó trong tác phẩm khơng
phải lúc nào cũng thuần nhất. Dựa vào các tiêu chí khác nhau người ta chia
giọng điệu thành các loại hình. Theo tiêu chí cấu trúc, người ta chia thành

11


giọng chính và giọng phụ, “gam ngữ điệu chủ yếu” và các sắc điệu bao quanh
có tính bè đệm, đơn thanh và đa thanh… Nếu căn cứ vào sắc thái tình cảm có
giọng gay gắt hay bình thản, trang trọng hay suồng sã, mạnh hay yếu, kính
cẩn hay châm biến. Dựa vào các dạng thức tình cảm có giọng bi, giọng hài,
giọng hùng ca… Dựa vào khuynh hướng tư tưởng có giọng: thơng cảm hay
lên án, u thương hay tố cáo, khẳng định hay phủ định… Dựa vào cái nhìn
ngơn ngữ học có giọng trần thuật giọng nghi vấn, giọng cảm thán… Từ cái
nhìn nhận thức đánh giá có giọng bình luận, nhận xét, triết lý, suy luận. Từ
điểm nhìn thời gian có giọng hồi niệm, mơ tưởng… từ cấu trúc thể loại có

giọng trữ tình và văn xi, giọng chủ quan và khách quan. Như vậy giọng
điệu đa dạng và phong phú có mn vàn sắc thái khác nhau. Giọng điệu cũng
là một hiện tượng siêu ngơn ngữ. Nó phụ thuộc vào cấu trúc tác phẩm nghệ
thuật, khuynh hướng tư tưởng, tình cảm, nhận thức và thời đại. Nó cịn là hình
thức, phương thức thể hiện cá tính của nhà văn. Vì vậy giọng điệu thể hiện tư
tưởng, tình cảm, cảm xúc của tác giả trước mọi vấn đề của cuộc sống. Đó là
sự khẳng định hoặc phủ định, là thái độ tôn trọng hoặc mỉa mai, là khen hay
chê đối với sự vật hiện tượng.
Giọng điệu trong văn chương trước hết phụ thuộc vào chất giọng “trời
phú” của nhà văn. Mặt khác là một hiện tượng nghệ thuật giọng điệu thống
nhất với toàn bộ chỉnh thể trong tư cách là một yếu tố của cái sinh thể nghệ
thuật toàn vẹn. Giọng điệu phải mang nội dung khái quát nghệ thuật và phải
phù hợp với đối tượng nó thể hiện. Trong tiểu thuyết tác giả thường hoà vào
các nhân vật và thế giới riêng của nó bằng tiết tấu của chính nó. Vì thế nhà
văn dường như trao ngịi bút cho nhân vật để nhân vật tự viết lấy với giọng
điệu riêng của nó. Với cách kể như vậy giọng điệu trong tiểu thuyết có tính đa
thanh, đa giọng, có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng chủ đạo chứ khơng
đơn điệu. Nó địi hỏi người trần thuật, người kể chuyện phải có khẩu khí,
giọng điệu riêng để tạo nên phong cách riêng độc đáo của chính mình, không

12


hoà lẫn vào bản hợp âm đa thanh, đa sắc của giọng điệu văn học. Và nhiệm vụ
của độc giả là phải nhận ra được cái giọng điệu riêng đó để hiểu được tư
tưởng, tình cảm, thái độ, thị hiếu thẩm mỹ của nhà văn. ở đây khái niệm giọng
điều chúng tôi sử dụng dựa trên cách hiểu này.
1.2. Vai trò của giọng điệu trong tác phẩm tự sự
Nhà văn chân chính bao giờ cũng thể hiện giọng điệu đặc trưng của
mình trong phong cách độc đáo khơng lẫn khuất vào ai. Nói đến giọng điệu là

nói đến một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác phẩm. Một nhà
văn có phong cách bao giờ cũng ghi được dấu ấn riêng qua giọng điệu. Vì vậy
giọng điệu mang màu sắc chủ quan của cá nhân có vai trò quan trong giúp ta
nhận ra được sự khác biệt giữa các nhà văn và nhận diện được tiếng lòng của
họ trong tác phẩm. M. Khrápchencơ có lý khi cho rằng: những người sành sọi
về văn học có thể căn cứ vào những đặc điểm giọng điệu của một giai đoạn
văn tự sự nhất định mà học chưa biết đến hoặc căn cứ vào mấy dòng thơ của
một nhà thơ mà để xác định tác giả của những tác phẩm ấy. Và qua giọng điệu
ta nhận ra lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của nhà
văn.
Thực chất giọng điệu là một hiện tượng toát ra từ tác phẩm văn học và
mang nội hàm tư tưởng thẩm mỹ, mang nội dung tình cảm, thái độ ứng xử của
nhà văn trước hiện thực đời sống. Vì vậy đòi hỏi người trần thuật, người kể
chuyện phải định hình cho mình khẩu khí, giọng điệu riêng. Nhà văn dù lĩnh
hội đủ tài năng và cả tài liệu nhưng sẽ không sản sinh được tác phẩm nếu
thiếu một giọng điệu, các giọng của câu văn mới bắt đầu có ý nghĩa quyết
định cảm hứng chủ đạo và nội dung của toàn bộ tác phẩm. Giọng điệu mang
thần thái của tác phẩm nên chưa có nó thì tác phẩm chưa ra đời. Vì vậy giọng
điệu giữ vai trị phân biệt sự khác nhau giữa các tác giả, vai trò chuyển tải tư
tưởng, ý đồ sáng tạo của nhà văn và quy định thần thái. Nhưng không những

13


thế giọng điệu còn là một phương diện biểu hiện quan trọng của chủ thể tác
giả, cái nhìn của nhà văn được thể hiện hết sức rõ nét qua giọng điệu.
Ngồi ra, giọng điệu cịn có vai trị khơng nhỏ trong việc định hướng
tiếp nhận và thái độ tình cảm cho độc giả để làm sao giữa người cầm bút và
người thưởng thức có mối quan hệ “đồng minh” khi đánh giá về hiện thực
phản ánh. Hoàng Ngọc Hiến khi nói Văn học là nghệ thuật ngơn ngữ có đoạn

nói: “Câu văn có hồn là câu văn có giọng, có ngữ điệu, bởi vì từ ngữ của bài
văn được chọn có thể thơng báo nhiều điều quan trọng nhưng bài văn khơng
có giọng điệu đọc lên vẫn nhạt nhẽo, vơ vị. Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị
đậm đà của bài văn trước hết là ở giọng. Năng khiếu văn ở phần tinh tế nhất là
ở năng lực bắt được trúng các giọng của văn bản mình đọc và cảm nhận về
giọng điệu của tác phẩm mình viết” [13;62]. ở đây khẳng định vai trị của
giọng tạo nên tính đa nghĩa đậm đà của bài văn đồng thời nói lên sự định
hướng của giọng điệu để người đọc bắt được trúng cái giọng của văn bản
mình đọc. Hay trong Những vấn đề thi pháp của truyện Nguyễn Thái Hoà
khẳng định: “giọng điệu chính là mối quan hệ giữa chủ thể và hiện thực khách
quan thể hiện bằng hành vi ngơn ngữ trong đó bao hàm cả việc định hướng
đánh giá và thói quen cá nhân sử dụng ngơn từ trong những tình huống cụ
thể” [12]. Như vậy, giọng điệu tự thân nó cũng đã bao hàm cả việc định
hướng đánh giá, tiếp nhận cho người đọc đối với hiện thực được phản ánh.
Nói chung, giọng điệu có vai trị hết sức quan trọng tác phẩm tự sự, qua
giọng điệu ta thấy được phong cách tài năng của nhà văn này khác biệt với
nhà văn khác, thấy được chiều sâu tư tưởng, sở trường ngôn ngữ và cảm hứng
sáng tạo của người nghệ sỹ.

14


Chương 2
GIỌNG ĐIỆU TRONG NGƯỜI ĐẸP SAY NGỦ (Y.KAWABATA)
Giọng điệu chung trong tồn sáng tác của Kawabata mang tính đa
thanh. Nhân vật chính trong các tác phẩm của ơng rất phong phú bao gồm từ
người già tới người trẻ, từ đàn ông đến đàn bà nên tác phẩm nhiều giọng điệu
là điều tất yếu. Thông thường giọng điệu bị yếu tố điểm nhìn chi phối nên dù
đa dạng, các tiểu thuyết của ơng vẫn có những giọng chính, được coi là chủ
âm.

Qua khảo sát hệ thống tác phẩm Kawabata, Đào Thị Thu Hằng đã khái
quát ba giọng chính trong tác phẩm của ơng: giọng hồi nghi do dự, giọng
trầm tư triết lý và giọng tiếc muối hồi niệm, trong đó giọng hồi nghi do dự
có thể coi là giọng chủ đạo. Ba giọng chính đó bao trùm lên tồn tác phẩm
của ơng trong đó có Người đẹp say ngủ. Tuy nhiên, tuỳ từng tác phẩm cụ thể
mà giọng chủ đạo khác nhau chứ không phải mang giọng chủ đạo bao qt
tồn bộ tác phẩm của ơng, ở Người đẹp say ngủ giọng tiếc muối, hoài niệm là
giọng chủ dạo nổi bật hơn cả.
2.1 Giọng tiếc muối hoài niệm
Do nhân vật trần thuật trong Người đẹp say ngủ nhìn sự vật hiện tượng
bằng con mắt của nhân vật, dựa vào điểm nhìn của nhân vật để “kể”, kể lại
câu chuyện bằng nhãn quan nội tâm của nhân vật Êguchi nên có sự ảnh hưởng
chất giọng của điểm nhìn nhân vật này.

15


Êguchi là nhân vật được người trần thuật trao điểm nhìn để tự kể về
cuộc đời bằng chính cái giọng của chính mình. Mà Êguchi lúc này sáu mươi
bảy tuổi – tuổi của một người già sống trải qua cái “hỉ - nộ - ái - ố” ở cuộc đời
nên giọng điệu sẽ mang cái giọng của một người già. Mà người già thì thường
nhìn lại quãng đời đã qua. Suy nghĩ về nó và thường hồi niệm, tiếc nuối về
thời đã qua. Người ta thường nói trẻ viết mộng kí, trung niên viết nhật ký và
già viết hồi ký là có cái lý của nó bởi đúng với tâm ký từng lứa tuổi của đời
người.
Giọng tiếc nuối hoài niệm đúng như tên gọi của nó thường kể về những
gì đã qua, những gì khơng được như ý nguyện hoặc là những điều trong hiện
tại song lại làm cho người ta cảm thấy phí hồi nên tiếc nuối và hồi niệm về
những điều trong quá khứ.
Giọng điệu này thật tự nhiên trong Người đẹp say ngủ bởi cũng giống

như vui, buồn, tiếc nuối hoài niệm cũng là cảm giác của con người. Thông
qua người kể chuyện hàm ẩn, Êguchi thể hiện sự tiếc muối của mình từ những
cái tầm thường, nhỏ nhặt nhất của cuộc sống hằng ngày.
Êguchi cũng như các ơng già thường lui tới “ngơi nhà bí mật” đã nhận
thức được tuổi già, sự ngắn ngủi của đời người, thấy được sự bất lực của
chính mình bởi khơng còn và sắp mất đi cái hấp dẫn của người đàn ơng.
Chính vì vậy mà họ thường lui tới “ngơi nhà bí mật” hưởng niềm khối lạc
của cái cảm giác được ngủ bên những cơ gái trẻ cịn trinh ngun ở tuổi “cổ
lai hi” của mình nhằm đánh lừa bản thân, có được ảo giác của tuổi trẻ để
muốn kéo dài tuổi thanh xuân bất tận. Tuy nhiên Êguchi đã nhận thấy sự bất
lực của chính mình khi nằm bên cạnh ông là những cô gái xinh đẹp trẻ trung
nhưng lại vơ ý thức khơng thể nói năng khóc cười. Cũng như các ơng già
Êguchi chỉ có được ảo giác chứ khơng có được tuổi thanh xn trong thực tế.
Do đó họ đã tiếc muối “tình trạng già nua của các cụ già thảm hại vẫn thường
lui tới ngôi nhà này chẳng bao lâu nữa cũng xảy ra với ông […]. Xung quanh

16


những ông già ngày một ốm họ vẫn cứ lớn lên từng lớn từng lớp vô vàn
những thiếu nữ xinh tươi, da thật mơn mởn. Các ông già bất lực nhìn theo
những niềm vui ngày một lùi xa thêm càng muối tiếc những tháng ngày hạnh
phúc của một thời đã trôi qua không bao giờ trở lại” [14;32].
Lời kể tràn ngập những cảm giác hồi niệm tiếc muối, có thể thấy đây
là cảm giác rất thông thường của con người và vì thế nó gắn liền với sự uổng
phí và hồi niệm về thời gian. Ơng già Êguchi khơng muốn để tuổi thanh
xn trơi qua một cách uổng phí những quỹ thời gian của ông gần hết, ông
sắp trở thành một ơng già “hồn tồn”. Về hình thức thì đoạn văn trên là lời
của người trần thuật nhưng thực chất lại là lời của Êguchi. Với giọng kể đó
trong Người đẹp say ngủ càng thể hiện sự đối thoại giữa ảo vọng và thực tại.

Ảo vọng là muốn kéo dài tuổi thanh xuân bất tận bên các người đẹp trẻ trung
nhưng thực tại là tình trạng già nua thảm hại, ngắn ngủi của tuổi thanh xuân
và cuộc đời. Cũng chính vì vậy mà chất giọng này khơng khỏi mang lại
những cảm giác xót xa.
Bởi thực tại khơng có được nên Êguchi nuối tiếc thời trai trẻ và nuối
tiếc nên hoài niệm về tuổi trẻ của mình khi ở bên cạnh cơ gái trẻ trung xin đẹp
bên cạnh mà mình khơng còn là một chàng trai trẻ. Nhớ về tuổi trẻ với mối
tình đầu chạy trốn khỏi nhà cùng người yêu và được chiêm ngưỡng thân thể
của cô người yêu tuyệt đẹp mà dù sau này thân thể các phụ nữ khác tuyệt mỹ
hồn chỉnh đến đâu cũng khơng đẹp bằng dưới con mắt của ơng. Và cái tình
u xn sắc ấy giờ đây ơng khơng có được và cũng khơng bao giờ có được
cảm xúc chiêm nghiệm lúc đó. Ơng nhớ lại những mối tình thời trai trẻ của
mình đã trải qua mà giờ đây nó chỉ cịn là dĩ vãng. Từ mùi sữa ơng nhớ đến
mối tình vụng trộm với người phụ nữ mà mùi sữa trẻ em vương trên áo ông
khi ông đến gặp cô mà cô đả nổi đố lên với nỗi uất hận và ghen tng dữ dội
mà giờ đây cô gái đẹp say ngủ cạnh ông không cử động, không nói, không
cười kia không có được. Đó là nhớ về sự thoải mái khơng chút tội lỗi với

17


người đàn bà ở Kơbê mặc dù cơ đã có chồng và hai đứa con đối lập với cảm
giác như người cha đối với người con lúc ở bên người đẹp say ngủ… Tất cả là
những nỗi nhớ thể hiện sự hoài niệm về thời trai trẻ đầy xuân sắc của Êguchi
đối lập với thực tại bất lực kèm theo đó là sự nuối tiếc. Êguchi cịn nhớ đến
đứa con gái với mối tình giữa hai người đàn ơng cuối cùng bị một người làm
mất trinh tiết và lấy người kia. Nỗi nhớ này phải chăng ngầm định cái giọng
điệu tiếc muối về việc đã xảy ra và nếu ông có sự can thiệp, cách ứng xử phù
hợp thì con gái ơng đã có một kết quả tốt đẹp hơn để giờ đây ơng khơng phải
hối tiếc và thấy có lỗi với đứa con gái? Phải chăng vì tiếc muối mà các ơng

già đã đến đây để cố tình cứu vãn để giảm đi sự tiếc nuối ấy bằng cách cố
gắng kéo dài tuổi thanh xuân bằng ảo giác thông qua những hồi niệm? Ngay
Êguchi cũng đốn rằng: Những ơng già lui tới đây đều là những ông già mang
quá nhiều tội lỗi hối hận trong thái độ đối xét với đàn bà. Những cụ già đã kề
miệng lỗ không cịn hi vọng gì nữa [14;84].
Sự ám ảnh thời gian trong Người đẹp say ngủ và giọng hoài niệm tiếc
nuối ln gắn liền với nhau như hình với bóng vì thời gian đã lấy đi của họ
tuổi trẻ, tình yêu, danh vọng để rồi giờ đây nó đã mất đi rồi thì họ lại tiếc nuối
hồi niện về q khứ trai trẻ của mình. Bởi vậy mà cùng với việc người trần
thuật trao điểm nhìn cho Êguchi trần thuật bằng cái giọng của mình cuộc đời
của Êguchi hiện lên hồn chỉnh qua những hoài niệm, lần nhớ được gợi nhắc
từ hiện tại do các người đẹp mang lại mang trong nó sự tiếc nuối đã tạo nên
giọng chủ đạo trong tác phẩm là giọng tiếc nuối hoài niệm. Bên cạnh giọng
tiếc nuối hoài niệm là giọng hoài nghi do dự.
2.2. Giọng hoài nghi do dự
Giọng điệu hoài nghi do dự là giọng điệu chủ đạo trong sáng tác của
Kawabata. Trong tất cả các tác phẩm của ông, từ mỗi chương, mỗi trang sách
độc giả đều có thể thấy tốt ra một sự “hoài nghi do dự” của nhân vật với
cuộc đời, với những người xung quanh và với cả chính bản thân mình.

18


Tuy vậy, trong tiểu thuyết của ông càng nhiều thoại thì tính chất hồi
nghi do dự càng lớn. Nếu như Người đẹp say ngủ tác phẩm được các nhà
nghiên cứu nước ngồi đánh giá là một cuốn tiểu thuyết “dịng ý thức” nhất
của Kawabata với những chuỗi hồi ức, kỉ niệm triền miên làm cho giọng điệu
tiếc muối hoài niện đâm nét thì những đoạn văn xi chiếm tới 2/3 câu
chuyện chất hồi nghi do dự chỉ mang tính thoảng qua, mơ hồ. Song trên thực
tế giọng điệu hoài nghi do dự này vẫn khá rõ nét trong tác phẩm.

Êguchi ln mang tính tâm lý hồi nghi do dự. Ngay lúc đầu đến với
ngơi nhà bí mật” đầy bí ẩn với sự tị mị đã cho ta thấy sự hồi nghi do dự đó
thể hiện qua sự lo âu phấp phỏng, mơ hồ, phi lí trước từng động thái, từng sự
vật. Êguchi đến ngơi nhà bí mật được mụ chủ quán tiếp. Tuy người đàn bà
này có những cách hành xử nói năng làm cho các vị khách cảm thấy đàng
hồng và khơng có gì ám muội hết nhưng Êguchi vẫn cảm thấy nghi ngờ, bất
an. Mặc dù cách pha trà tỉ mỉ đúng quy cách của mụ chủ nhà làm cho ông yên
tâm và bớt căng thẳng và không có gì khiến ơng có thể nghi ngờ căn phịng
tám chiếu này chứa đựng thứ gì nguy hiểm đối với ông nhưng sự trấn an đó
đã mất đi một cách dễ dàng với hành động dùng tay trái mở khoá cửa của mụ
chủ nhà. Chỉ một hành động nhỏ đó thơi cũng đủ để ơng băn khoăn, hồi nghi
bằng những câu hỏi tư vấn, khơng có câu trả lời và bằng việc theo dõi một
cách tỉ mỷ: “bà này thuận tay trái hay sao phải chăng làm gì bà cũng dùng tay
trái? chi tiết này chẳng quan trọng gì, nhưng mắt nhìn chằm chằm vào bàn tay
mở khố của bà khách nín thở hồi hộp để ý đến từng chi tiết nhỏ” [14;13].
Ngay cả một vật vô tri vô giác cũng làm cho ơng hồi nghi, sợ hãi: “tại sao
con chim được thể hiện theo lối cách điệu mà cặp mắt và đôi chân lại hiện
thực đến như thế để làm gì? Tất nhiên con chim đính vào kia chẳng có gì kiến
ơng phải nghi ngại chỉ là một hình vẽ vụng về, nhưng việc nó được đính vào
thắt lưng của người phụ nữ thì đúng là khơng bình thường” [14;13]. Sự hồi
nghi khơng bình thường đối với những hành động những sự vật vô hại trong

19


khi chính ơng cũng đã biết là chúng chẳng quan trọng gì, chẳng có gì đáng
ngại thì thật khó mà lý giải nổi. Sự hoài nghi, tâm trạng bất an này thật khó
mà lý giải vì sao, chính vì sự không lý giải được này mà sự nghi ngờ của tâm
lý bất an, sự hoang mang này càng được tô đậm tạo nên giao điểm tâm hồn ở
ông già Êguchi. Chính sự hồi nghi đó đã làm cho Êguchi do dự, mặc dù đã

cầm chìa khố trong tay rồi nhưng ơng khơng dám sang phịng bên có người
đẹp say ngủ. Ngồi yên, nghe thấy tiếng sóng biển dào dạt như đập vào vách
đá dựng đứng ông lại nghi ngờ “ngôi nhà này được xây bên vách đá ấy tiếng
gió như báo hiệu trời bắt đầu rét. Những ý nghĩ ấy là do ngôi nhà gợi lên hay
do ông tưởng tượng ra, Êguchi cũng không hiểu” [14;14]. Êguchi đã tưởng
tượng ra cả những điều khơng có trong thực tế và vẫn do dự, cầm chìa khố
trong tay châm thuốc, dụi rồi lại châm để cố gạt đi sự hồi hộp trống trải trong
lịng. Nghĩ tới hai câu thơ khủng khiếp ơng lại hồi nghi về cơ gái lên phịng:
“Cơ gái đang ngủ bên phịng bên liệu có phải là thứ “chết trơi” nói đến trong
bài thơ hay khơng? Và biết đâu hình dạng cơ ta lại chẳng giống như hình dạng
những kẻ nghiện ngập, da xám xịt, mặt thâm quần, gầy cịm và khố héo như
củi khơ. Mà cũng có thể cô ta béo bệu và da thịt giá lạnh. Biết đâu rằng cô lại
chẳng xanh và vừa ngáy cô ta vừa phả ra mùi hôi hám” [14;15-16]. Sự tự hỏi
rằng: “liệu”, “biết đâu”, “có thể”, “biết đâu rằng” về cơ gái say ngủ đã thể
hiện sự băn khoăn, lo lắng và hoài nghi của Êguchi.
Giọng điệu hoài nghi do dự này còn được thể hiện ở những trang tiếp
theo trong tác phẩm lúc ông đã thực sự là người dấn thân trong các hành trình
của những ơng già đến với “ngơi nhà bí mật” nhưng ở phần đầu này là đậm
nét hơn cả. Tuy đây không phải là giọng chủ đạo trong tác phẩm nhưng nó lại
gợi cho ta niềm suy ngẫm, đặc biệt giọng này tập trung ở phần đầu lúc này
ông già Êguchi vữa bỡ ngỡ đến “ngôi nhà bí mật” đã tạo nên tính có vấn đề rõ
nét, mở ra bí mật về “ngơi nhà bí mật”. Nó vừa thể hiện được ý đồ nghệ thuật
của tác giả vừa đi sâu được vào tâm hồn của nhân vật chính Êguchi. Càng về

20


sau khi vào sâu trong “ngơi nhà bí mật” Êguchi càng sợ hãi bởi sự cô đơn, sợ
hãi cái nguy cơ đang diễn ra, tất yếu sẽ dẫn đến tuổi già và cái chết càng làm
cho Êguchi hồi nghi, ln thấy những nguyên nhân đe dọa ẩn tàng.

2.3 Giọng trầm tư triết lý
Chất giọng trầm tư triết lý này ta cũng bắt gặp khi đọc Người đẹp say
ngủ cùng với giọng tiếc nuối, hoài niệm và hoài nghi do dự. Có thể thấy rằng
chất trầm tư triết lý ln gắn với sự từng trải, bởi triết lý là những gì được đúc
kết qua năm tháng. Ta ít thấy chất giọng này trong tác phẩm của những nhà
văn trẻ tuổi, sôi nổi, và ngược lại nó lại là điều khơng thể thiếu trong các tác
giả đã chịu nhiều thử thách của thời gian. Người đẹp say ngủ là cuốn tiểu
thuyết cuối đời của Kawabata.
Giọng trầm tư triết lý đã góp phần không nhỏ vào việc dựng lên một
người kể chuyện độc đáo, đậm “chất Kawabata”. Các tình huống dẫn đến
giọng triết lý của ơng đơi khi rất đơn giản, bình thường nhưng người kể
chuyện đã khái quát thành chân lý, đặc trưng cuộc sống con người.
Theo Đào Thị Thu Hằng, nhịp điệu kể chuyện trong tồn tiểu thuyết
Kawabata nói chung là “trầm tĩnh, khoan thai, điềm đạm”. Nhịp điệu đó cũng
là đặc trưng trong Người đẹp say ngủ khi câu chuyện được nhìn dưới con mắt
một ơng già trơi theo những hồi ức, hoài niệm. Nhịp điệu câu văn chậm rãi,
khoan thai, ít đối thoại và những đối thoại cũng khơng có gì gấp gáp. Sự tiếp
nối giữa lời thoại này với lời thoại kia luôn khoan thai điềm đạm, chỉ trừ khi
nhớ về sự giận giữ vì uất hận ghen tng thì nhịp điệu ngơn ngữ của lời mắng
chửi có vẻ gấp gáp nhưng rất ít. Nhịp điệu chùng xuống và luôn chững lại ấy
của lời kể chuyện là biểu hiện của giọng trầm tư, luôn ưu tư của nhân vật.
Hay nói cách khác giọng điệu trầm tư đã đẻ ra cái nhịp điệu khoan thai, điềm
đạm đó. Sự trầm tư thường đi với giọng triết lý vì khi trầm tư suy nghĩ con
người ta thường phát hiện và khái quát về những gì mình nhận thấy trong hiện
thực, cuộc đời. Giọng triết lý xuất hiện ngay cả khi tình huống xẩy ra là rất
đơn giản, bình thường. Lúc Êguchi do dự chưa bước sang phòng bên với

21



người đẹp say ngủ mặc dù đã cầm chìa khố trong tay thì người kể chuyện đã
triết lý bằng câu: “đã cầm chìa khố trong tay có nghĩa chuẩn bị bước sang
phịng bên”. Câu nói đơn giản này là để nhằm nói lên rằng Êguchi vẫn ngồi
im do dự, hồi hộp nhưng đã khái quát được quy luật: “Đã thế này có nghĩa sẽ
có thế kia” và vì quy luật này mà Êguchi đã thế này song lại không thế kia,
càng tô đậm sự băn khoăn do dự. ở đây giọng triết lý đã làm nổi bật giọng
hoài nghi do dự.
Khi đến ngủ với các Người đẹp say ngủ nhằm kéo dài tuổi thanh xuân,
các ông già đã cảm nhận được sự thoải mái, được “nghỉ ngơi hoàn toàn” bên
những người đẹp say ngủ mà khơng có mặt của dục tính xuất hiện. Là khái
quát mang tính chất triết lý: “đến đấy ngủ giống như ngủ với Đức Phật nấp
kín đâu đây vậy”. Nhưng dù có được những giây phút thư giãn trong tâm hồn
thì cảm giác cơ đơn và lo lắng về tuổi già, cái chết vẫn cận kề. Và dù cố gắng
kéo dài tuổi thanh xn thì đó cũng là điều không thể bởi vậy Êguchi lại rút ra
triết lý: “dù cho đây là một cách giải khuây nhẹ nhàng, một cách hồi tưởng lại
thời trai trẻ, chắc chắn vẫn là sự cố tình lẫn trốn một sự thật; có tiếc nuối bao
nhiêu thì cái đã qua khơng bao giờ cịn trở lại và dù dùng thuốc gì đi nữa cũng
không thể chữa được bệnh già” [14;48]. Không có ai là bất tử cả, tuổi thanh
xuân cũng là một giai đoạn trong một cuộc đời ngắn ngủi một đi không trở
lại. Và khi nhận ra sự thật tàn nhẫn, Êguchi tự thương hại, tim nhói đau đã
thốt lên: “Người già đứng trước cái chết. Người trẻ đứng trước tình u. Chết
thì chỉ một lần, u thì khơng biết bao nhiêu bận” [14;89]. Mặc dù tính nết
Êguchi khơng phải thích ăn to nói lớn nhưng cũng đã thốt lên triết lý về tuổi
trẻ, tình yêu, cái chết khi đã va đập và trải nghiệm suốt cuộc đời mình. Đây là
sự nhìn thẳng vào sự thật và triết lý về cuộc đời của Êguchi. Giọng điệu triết
lý còn được thể hiện khi nói đến những kỉ niệm, thời gian trong quá khứ.
Những kỷ niệm chôn vùi từ lâu trong quá khứ lại hiện về trong nỗi nhớ kiến
cho không ai ngờ tới và “lạ một điều” đã được lý giải bằng cái giọng mang
tính triết lý: “Thật ra khi đụng đến q khứ thì kí ức con người ta in hình sự
việc đâu có căn cứ vào thời điểm xẩy ra từ lâu nhiều hay lâu ít. Nhiều khi


22


chuyện xẩy ra từ thời thơ ấu, cách đây sáu chục năm mà vẫn được giữ lại
trong kí ức rõ nét hơn cả việc mới xẩy ra hôm qua. Nhất là khi về già, con
người ta lại dễ tái hiện trong đầu óc những kỉ niệm xa xưa. Hơn nữa, nhiều
khi chính những sự việc xảy ra từ thời thơ ấu mới thực sự tạo nên tính cách
riêng cho mỗi chúng ta và quyết định số phận cho cả một cuộc đời” [14;25].
Giọng điệu trầm tư triết lý cùng với giọng tiếc nuối hoài niệm, giọng
hoài nghi do dự đã tạo nên giọng điệu của Người đẹp say ngủ hoà vào bản
hợp âm giọng điệu của tác phẩm Kawabata. Tuy có cùng giọng điệu chung
nhưng Người đẹp say ngủ cũng mang tính đặc thù riêng của nó. Ba giọng điệu
này đã tạo nên tính chất trầm buồn, trữ tình sâu lắng của giọng điệu trong
Người đẹp say ngủ. Nó cũng là những chất giọng đặc trưng tạo nên phong
cách nghệ thuật, bản lĩnh của Kawabata khi chọn giọng điệu để kể mà vẫn giữ
được phong vị truyền thống nhưng cũng đã tiếp thu khơng ít những cách tân
mang tính thời đại.

Chương 3
GIỌNG ĐIỆU TRONG HỒI ỨC VỀ NHỮNG CÔ GÁI ĐIẾM
BUỒN CỦA TÔI (G. MARQUEZ)
Nếu như nhịp điệu chung trong các tác phẩm của Kawabata là “trầm
tĩnh, khoan hoà, điềm đạm” tạo nên giọng điệu trầm buồn bởi cốt truyện
không mang tính căng thẳng đột biến nên khơng bao giờ sở hữu một hơi văn
gấp gáp, dồn dập thì với Marquez lại ngược lại. Marquez, người kể chuyện
hiện thực dưới con mắt huyền ảo, giọng điệu lại hết sức sôi nổi, hồn nhiên, kể
những chuyện rất kỳ lạ bằng một thái độ “cứ như không”. Tuy nhiên, như lúc
đầu chúng tơi đã nói, tác phẩm này khơng giống những tác phẩm mang tính
huyền ảo đậm đặc của ơng. Và trước khi viết tác phẩm này ông đã được đọc


23


Người đẹp say ngủ, ông cũng đã thừa nhận học tập được Kawabata. Do đó,
giọng điệu của hai nhà văn thuộc hai nền văn hoá và phong cách khác nhau
này cũng có những găp gỡ nhất định ngay trong sự khác biệt. Qua tìm hiểu,
nhìn chung, chúng tơi nhận thấy ngồi cái giọng điệu sơi nổi thường thấy
trong văn phong Marquez thì Hồi ức về những cơ gái điếm buồn của tơi cịn
có giọng trầm tư triết lý, giọng triết lý hoài niệm của một người đã đi gần hết
cuộc đời mỏi gối chùn chân nhìn lại cuộc đời mình. Chính vì thế mà ta thấy
giọng điệu của tác phẩm này có sự tương đồng nhất định với Người đẹp say
ngủ nhưng cũng có sự khác biệt trong giọng điệu hai tác phẩm.
3.1. Giọng hoài niệm tiếc nuối
Nếu như chất giọng hoài nghi do dự thường thấy ở những tác phẩm có
nhiều đối thoại thì chất giọng này khơng rõ nét trong Hồi ức buồn về những
cô gái điếm của tơi. Bởi gần như tồn bộ tác phẩm được kể bằng lời tự thuật
của nhân vật “tơi”, thoại khơng có, ngồi vài câu thốt lên của nhân vật. Chính
vì thế, mặc dù ta thấy vẫn có lúc giọng điệu này xuất hiện (do dự không biết
nên gọi điện cho Rôsa hay khơng; nghi ngờ về những gì xẩy ra sau vụ chết
của ơng chủ ngân hàng ở qn trọ...) thì giọng điệu này không rõ nét trong tác
phẩm.
Ngược lại, giọng tiếc nuối hoài niệm lại là giọng nổi bật trong tác phẩm
này. Tác phẩm là một truyện ngắn viết dưới dạng hồi ức. Đã là “Hồi ức” thì
tác phẩm là sự tự thuật của chính “tơi” về những gì đã qua cho độc giả biết.
Do vậy, hoài niệm là chất giọng bao trùm lên toàn bộ hồi ức của nhân vật
“tơi”.
Khởi nguồn cho dịng hồi ức ấy của “tơi” chính là cái mốc “vào năm
trịn 90 tuổi, “tơi muốn tự thưởng thức một đêm tình cuồng điên với một thiếu
nữ còn trinh nguyên”. Cái mốc này là nguyên do để “giữa thanh thiên bạch

nhật hơm nay. Tơi đã tự mình quyết định, hồn tồn tự do, kể hết mình là
người như thế nào dù chỉ là làm cho lương tâm bớt nặng nề” [19;11]. Tại sao

24


nhân vật “tơi” lại tự thưởng cho mình một đêm tình nồng say khi trịn 90 tuổi?
Phải chăng vì “tơi” tiếc nuối thời trai trẻ của mình nên muốn kéo dài tuổi
thanh xuân bằng cách ngủ bên cô gái trẻ trinh ngun như Êguchi? Nhưng lý
do đó hồ nghi khơng phải bởi “tôi đã sống chưa trọn vẹn, chưa thực sự như ý
để hơm nay lịng cảm thấy nặng nề. Tổng kết lại cả cuộc đời mình tơi đã nói:
Nói theo lãng mạn thì tơi là hạng người vơ danh tiểu tốt chẳng để lại cho
người đời bất cứ thứ gì ngồi trừ những việc tơi sắp cố gắng kể ra đây trong
ký ức về mối tình lớn của mình” [19;13]. Đây chính là lí do vì sao nhân vật đã
tiếc nuối trước cuộc đời đã qua và kể lại “điều ngoại trừ” để lại cho người đời
nhằm giúp lương tâm bới nặng nề từ cái mốc sinh nhật tuổi 90 của mình. Từ
đây, để cho mọi người tiện theo dõi nhân vật lại kể về cuộc đời đã qua bằng
giọng điệu hồi niệm: kể về ngơi nhà mình ở, nơi “tôi” đã trải qua tất cả
những ngày sống không đàn bà và cũng chẳng có tài sản. Ngơi nhà là do bố
mua và từ đó kể về bố mẹ mình, kể về nghề nghiệp trong suốt bốn mươi năm
rịng:làm nghề biên tập bản tin cho tờ nhật báo El Diano de la paz, từng là
giáo viên dạy tiếng Tây Ban Nha tồi, khơng được đào tạo, khơng có niềm đam
mê nghề nghiệp, viết các bài xã luận cho các báo chủ nhật, các bài cỗ vũ các
nghệ sỹ trên các phụ trương âm nhạc và sân khấu; kể về sức khoẻ của mình
bằng cách nhớ lại lần đi khám ở tuổi bốn hai; kể về mình là một đứa trẻ
nghịch ngợm, cha mẹ mất sớm và tiếp đó là kể về cuộc sống quan hệ với các
người đàn bàn mà sau khi báo đó lên khn, đó là cuộc sống thực của “tơi”.
Tất cả những gì đã qua đó đối với “tơi” mà nói khơng có điều gì đặc biệt có ý
nghĩa cả. Có lúc “tơi” đã nghĩ “bản thống kê chăn gối là phần chính của bản
danh mục những điều hèn mọn trong cuộc sống phóng túng của chính mình”

[19;20]. Đó là một cuộc đời phóng túng, ngay đến cuộc sống xã hội cũng
“chẳng có gì thú vị”. Đó cũng chính là “một cuộc đời bị đánh mất ngay từ
đầu, khi vào một buổi chiều, mẹ dắt tay tơi, lúc mười bốn tuổi, đến tồ soạn
báo El Diano de la paz xem người ta có đăng ký được hay không một bài

25


×