Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

So sánh tu từ trong truyện ngắn nguyễn khải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.02 KB, 88 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong số các nhà văn hiện đại, Nguyễn Khải là một trong những tác
giả nổi bật nhất.Với một chặng đường sáng tác dài, gắn liền với lịch sử của
đất nước, Nguyễn Khải đã có một khối lượng tác phẩm lớn trên nhiều thể
loại như tiểu thuyết, ký, kịch, truyện ngắn, tạp văn, tự truyện, tuỳ bút. Qua
những sáng tác ấy, ông đã khẳng định được một phong cách nghệ thuật độc
đáo, mới mẻ, được giới nghiên cứu đánh giá cao. Nguyễn Khải đã từng
nhận các giải thưởng như: Giải tác phẩm xuất sắc của hội văn nghệ Việt
Nam (1953), hai giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam (1982, 1989),
Giải thưởng Hồ Chí Minh (2000), Giải thưởng ASEAN (2000)...
Do những cống hiến to lớn trong gần 6 thập kỷ qua, Nguyễn Khải
được giới phê bình, nghiên cứu đặt ở vi trí đáng kể trong nền văn xuôi hiện
đại Việt Nam "Nguyễn Khải là một trong những cây bút tiêu biểu cho nền
văn xuôi cách mạng" (Hà Công Tài - Những chặng đường văn Nguyễn
Khải). Nhà nghiên cứu văn học Vương Trí Nhàn cũng từng khẳng định: "
Từ 1975 đến nay, Nguyễn Khải luôn luôn thuộc loại những cây bút dẫn đầu
trong đời sống văn học" (Nguyễn Khải - sự vận động của văn học cách
mạng từ sau 1975). Tác phẩm của ông đã đem lại một cái nhìn nghệ thuật
độc đáo, mới mẻ chỉ có ở riêng ơng và là một thành tựu quan trọng của nền
văn học nước nhà. Do Nguyễn Khải có vị trí, vai trị quan trọng như vậy
cho nên việc nghiên cứu, tìm hiểu những tác phẩm của ơng là việc cần thiết
và chắc chắn sẽ rút ra được nhiều bài học bổ ích.
Mặt khác trong chương trình ngữ văn phổ thông trung học, rất
nhiều học sinh đã biết đến và thực sự yêu thích nhà văn Nguyễn Khải qua
truyện ngắn như Tầm nhìn xa, Mùa lạc. Thực hiện chương trình đổi mới

1


sách giáo khoa hiện nay, tác phẩm Một người Hà Nội, một tác phẩm rất tiêu


biểu của ông viết ở giai đoạn sau 1975 đã được chọn để đưa vào sách Ngữ
văn 12. Điều đó cho thấy rằng cùng với thời gian và sự sàng lọc, Nguyễn
Khải vẫn là cây bút trụ vững và có ý nghĩa đặc biệt trong những biến động,
phát triển của nền văn học dân tộc.
Trong sỏng tạo văn học việc sử dụng cỏc biện pháp tu từ có vai trị
rất quan trọng trong đó so sánh tu từ là một biện pháp nghệ thuật thường
được các nhà văn, nhà thơ dùng phổ biến với mật độ khá dày đặc trong tác
phẩm. Biện pháp này có vai trị rất quan trọng. Nó làm cho sự vật, hiện
tượng được tác giả nói đến trở nên cụ thể, cung cấp một quan niệm rõ rệt
về chúng, thể hiện đựơc tình cảm, thái độ, tư tưởng của tác giả. Tuy vậy
mảng nghiên cứu về so sánh tu từ vẫn cịn thiếu vắng. Đó là lý do chúng tơi
chọn đề tài này.
Dưới đây chúng tôi chỉ đi sâu vào nghiên cứu "So sánh tu từ trong
truyện ngắn Nguyễn Khải" nhằm góp thêm một tiếng nói khẳng định
những cống hiến của Nguyễn Khải đối với nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Mặt khác việc thực hiện đề tài này sẽ góp phần cung cấp kiến thức cho việc
dạy học ở trường phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề.
2.1 Lịch sử nghiên cứu so sánh tu từ
So sánh tu từ là biện pháp nghệ thuật độc đáo, việc sử dụng nó cho
thấy được tài năng và sự tinh tế của tác giả. Vì thế việc tìm hiểu SSTT là
việc làm cần thiết và được nhiều người nghiên cứu. Điểm qua các cơng
trình nghiên cứu về SSTT ta thấy nổi bật là các công trình của:
- Nhúm tỏc giả Vừ Bỡnh, Lờ Anh Hiền, Cự Đỡnh Tỳ, Nguyễn Thỏi
Học trong cuốn Phong cỏch học Tiếng việt, NXB Giỏo dục, 1982 cho rằng

2


“So sánh tu từ là sự đối chiếu hai đối tượng có cùng một dấu hiệu chung

nào đấy nhằm biểu hiện một cách hỡnh tượng đặc điểm của một trong hai
đối tượng đó”.
- Cũng đề cập đến so sánh tu từ nhưng tác giả Nguyễn Thế Lịch
trong bài Cỏc yếu tố và cấu trỳc của so sỏnh nghệ thuật, tạp chí tiếng việt
tháng 1 năm 1988 lại nhấn mạnh đến tính mục đích của so sánh tu từ, tác
giả viết: “So sánh nghệ thuật thường được biểu hiện là một sự vật ra đối
chiếu về một mặt nào đó đối với một sự vật khác loại nhưng lại có đặc
điểm tương tự mà giác quan có thể nhận biết để hiểu việc đưa ra đó dễ
dàng hơn”.
- Các tác giả Nguyễn Thái Hoà và Đinh Trọng Lạc trong cụng trỡnh
viết chung cú tờn: Phong cỏch học tiếng việt, NXBGD, 1995 lại cho rằng
tớnh cụ thể của hỡnh ảnh, tớnh cảm xỳc thẩm mỹ là hai yếu tố của so sỏnh
tu từ: “So sánh là phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu
với sự vật khác miễn là giữa hai sự vật có một nét tương đồng nào đó để
gợi ra hỡnh ảnh cụ thể, những cảm xỳc thẩm mỹ trong nhận thức của
người đọc, người nghe”.
Theo Nguyễn Lân trong cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam, NXB
TPHCM, 2000 thì cho rằng: “So sánh là xem xét để tìm ra những điểm
giống và khác nhau về mặt số lượng, kích thước, phẩm chất. Trong văn
học, so sánh dùng để gọi tên một thuật ngữ, chỉ một biện pháp tu từ nhằm
tạo hiệu quả nghệ thuật"
Và việc nghiên cứu SSTT không chỉ được nghiên cứu ở mặt lý
thuyết mà nó cũng được đi sâu vào phân tích trong các tác phẩm văn học cụ
thể của các tác giả như: Xuân Diệu , Nam Cao, Nguyên Ngọc, Nguyễn
Tuân...

3


Tuy nhiên việc nghiên cứu SSTT trong các tác phẩm văn học cịn

q ít và chúng tơi nhận thấy rằng chưa có cơng trình nầo nghiên cứu
SSTT trong truyện ngắn Nguyễn Khải.
2.2 Lịch sử nghiên cứu Nguyễn Khải và truyện ngắn Nguyễn
Khải
Nguyễn Khải là một người đi nhiều viết nhiều, hơn năm mươi năm
cầm bút Nguyễn Khải luôn bám sát từng bước đi của dân tộc, phản ánh kịp
thời những nhiệm vụ chính trị, cách mạng, những đổi thay trong đời sống
con người và xã hội. Ngịi bút của ơng không né tránh mà rất bản lĩnh khi
xông vào những lĩnh vực nhạy cảm phức tạp mang tính thời sự, chính trị để
phát hiện vấn đề. Vì vậy, tác phẩm của ông ra đời luôn gây được sự chú ý
của giới phê bình văn học. Tìm hiểu về sáng tác của Nguyễn Khải là một
hành trình dài. Mặt khác, Nguyễn Khải là nhà văn có cá tính, có phong
cách nên các tác phẩm của ông trong mỗi giai đoạn luôn thu hút được sự
khám phá, tìm hiểu của độc giả.
Theo thông kê của Phan Diễm Phương trong cuốn Nguyễn Khải tác gia và tác phẩm có tới 107 cơng trình nghiên cứu về Nguyễn Khải. Đó
là chưa kể những luận án, luận văn, khóa luận của các sinh viên, học viên
các trường Đại học tìm hiểu về Nguyễn Khải nhưng chưa cơng bố. Trước
hết phải kể đến cơng trình nghiên cứu về Nguyễn Khải như Đặc điểm sáng
tác của Nguyễn Khải của Chu Nga, Nhà văn Nguyễn Khải của Đoàn Trọng
Huy. Ngồi ra cịn có các tác giả Vương Trí Nhàn với tác phẩm Nguyễn
Khải trong sự vận động của văn học cách mạng Việt Nam từ sau 1945. Tác
phẩm Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải của Nguyễn Tuyêt Nga, Nguyễn
Khải của Phan Cự Đệ … Tác giả Phan Cự Đệ trong bài nghiên cứu về
Nguyễn Khải đã cho rằng: “Nguyễn Khải là cây bút trí tuệ ln suy nghĩ
lắng sâu về những vấn đề cuộc sống đặt ra và cố gắng tìm lời giải đáp
4


thuyết phục theo cách riêng của mình”, tác giả cho rằng: "Ngòi bút Nguyễn
Khải là ngòi bút hiện thực tỉnh táo, ngịi bút ấy ln gắn liền với cảm hứng

cách mạng về ngày mai" (Nhà văn Việt Nam 1945 – 1975, tập 2, NXBGD
và THCN, H, 1983).
Trong bài Vài ý kiến về tác phẩm Nguyễn Khải, tác giả Nguyễn Văn
Hạnh nhấn mạnh đến phong cách viết văn của Nguyễn Khải, ông gọi phong
cách Nguyễn Khải là phong cách hiện thực tỉnh táo. Ơng cho rằng thành
cơng của Nguyễn Khải là ở chỗ “Ông biết lựa chọn, sử dụng những chi tiết
đúng lúc, đặt ra trong các tác phẩm nghệ thuật nên có hiệu quả nghệ thuật
cao” (Nguyễn Khải - về tác gia và tác phẩm, NXBGD, H, 2003)
Tác giả Đoàn Trọng Huy trong cuốn Văn học Việt Nam 1945 - 1975),
tập 2, NXBGD, Hà Nội, 1990 đã lưu ý rằng trong phong cách Nguyễn Khải
có 3 đặc điểm nổi bật đó là: Cái nhìn hiên thực nghiêm ngặt, tính chính
luận, tính thời sự - năng động. Ba đặc điểm này là nên sức mạnh riêng của
Nguyễn Khải đồng thời làm cho Nguyễn Khải không lẫn được với gương
mặt các nhà văn Việt Nam hiện đại khác, đó là 3 trong những đặc điểm cơ
bản xuyên suốt đời văn Nguyễn Khải.
Nhưng có lẽ chiếm số lượng nhiều nhất là những bài viết, những cơng trình
đi sâu tìm hiểu về các tác phẩm cụ thể của Nguyễn Khải như Đọc thời gian
của người của tác giả Nam Giao đăng trên tạp chí Đất Việt, Thành Duy với
bài viết Mùa lạc - một thành công mới của Nguyễn Khải. Hồ Phương với
bài Đọc xung đột của Nguyễn Khải, Tác giả Song Thành với tác phẩm Đọc
đường trong mây, Nguyễn Văn Hạnh với Chủ tich huyện và nghệ thuật viết
truyện của Nguyễn Khải, Mai Liên với bài Đọc hãy đi xa hơn nữa của
Nguyên Khải...

5


Trong số đó tiêu biểu có bài viết của Thành Duy "Với Mùa lạc,
khơng những Nguyễn Khải chọn cho mình phương hướng tốt trong sáng
tác, mà còn vượt các tác phẩm trước của anh về tính tư tưởng và tính nghệ

thuật" hay: "Trong mùa lạc anh tập trung sự chú ý của mình vào việc diễn
tả cuộc đấu tranh giưã cái mới và cái cũ nêu lên những vấn đề thiết thực
nóng hổi của đời sống, của con người".
Và bài viết của Nguyễn Văn Hạnh: "Nguyễn Khải có khả năng phân
tích cuộc sống mạnh mẽ, có sức phát hiện, biết nhìn, biết nghe, biết chọn
lọc hiện thực, biết dùng lối kể chuyện xen kẽ với nhận xét và bình luận...
Đây là biện pháp quan trọng của truyện ngắn nó cho phép đối tượng nói
trực tiếp bằng ngơn ngữ của bản thân nó, do đó tạo nên sự biến hố cho
bút pháp và đồng thời dễ gây cho độc giả những ấn tượng bất ngờ thú vị"
(Chủ tịch huyện của Nguyễn Khải, báo đăng trên tạp chí văn nghệ quân đội,
số 10, 1972).
Số lượng bài viết về tác phẩm của Nguyễn Khải rất nhiều mà phần
lớn đều xoay quanh việc xác định tư tưởng, lập trường của người cầm bút
để bày tỏ nhận định của mỡnh về mức độ giá trị của tác phẩm, cũng như
gắng tỡm cỏch đánh giá hợp lý về vai trũ, vị trớ của nhà văn.
Những sáng tác văn chương của Nguyễn Khải mặc dù được các nhà
nghiên cứu, phê bỡnh, cụng chỳng bạn đọc quan tâm tỡm hiểu trờn cỏc
phương diện song rất ít bài viết tập trung nghiến cứu về một phương diện
cụ thể và đặc biệt là về cấu trúc SSTT trong truyện ngắn Nguyễn Khải chưa
từng được nghiên cứu.
Xuất phát từ thực tế đó chúng tơi muốn đi vào nghiên cứu một cách
cụ thể, toàn diện SSTT trong truyện ngắn Nguyễn Khải.
3. Mục đích của đề tài

6


Qua nghiờn cứu cấu trỳc so sỏnh tu từ trong truyện ngắn Nguyễn
Khải khóa luận muốn đạt được ba mục đích sau:
3.1. Làm sáng tỏ cấu trúc so sánh tu từ (SSTT) trong truyện ngắn

Nguyễn Khải trên cơ sở so sánh mô hỡnh cấu trỳc SSTT trờn lý thuyết.
3.2. Thụng qua khảo sỏt cấu trỳc SSTT trong truyện ngắn Nguyễn
Khải khóa luận rút ra những nét độc đáo trong việc sử dụng phương thức tu
từ của Nguyễn Khải.
3.3. Nêu lên những đóng góp của ơng về phương thức SSTT đối với
văn học Việt Nam hiện đại trên phương diện SSTT.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này là những phép SSTT được
thể hiện trong truyện ngắn Nguyễn Khải rỳt ra từ 34 truyện ngắn trong
Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải, NXB Hội nhà văn, 2002. Đú là:
1. Nằm vạ
2. Mựa lạc
3. Tầm nhỡn xa
4. Hai ông già ở Đồng Tháp Mười
5. Nắng chiều
6. Một người Hà Nội
7. Đời khổ
8. Người ngu
9. Luật trời
10. Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức
11. Hậu duệ dũng họ Ngụ Thỡ

7


12. Chuyện tỡnh của mỗi người
13. Anh hựng bĩ vận
14. Đổi đời
15. Sống giữa đám đông
16. Nơi về

17. Người già
18. Mẹ và bà ngoại
19. Thầy Minh
20. Đó từng cú những ngày vui
21. Lớnh chữa chỏy
22. Lóng tử
23. Một bàn tay và chớn bàn tay
24. Đàn ụng
25. Một chiều mùa đông
27. Phớa khuất mặt trời
28. Đàn bà
29. Chị Mai
30. Mẹ và cỏc con
31. Sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu
32. Một giọt nắng nhạt
33. Cỏi thời lóng mạn
34. Những năm tháng yên tĩnh
5. Cái mới của đề tài

8


Đề tài này cố gắng đi sâu nghiên cứu cấu trúc SSTT trong truyện
ngắn Nguyễn Khải một cách cụ thể, hệ thống và tồn diện. Qua đó thấy
đuợc những nét độc đáo và đóng góp của ụng về phương diện này.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp thống kê phân loại
Bằng phương pháp thống kê phân loại chúng tơi đó tiến hành thống
kờ phõn loại tất cả các dạng SSTT trong 34 truyện ngắn của Nguyễn Khải,
được in trong Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải, NXB Hội nhà văn,

2002
6.2. Phương pháp so sánh đối chiếu
Sau khi tiến hành thống kê, phân loại chúng tơi lấy kết quả đó để so
sánh, đối chiếu giữa các dạng của cấu trúc SSTT trong truyện ngắn Nguyễn
Khải với cấu trúc so sánh tu từ trong lý thuyết phong cách học từ đó chỉ ra
nét khác biệt và tương đồng giữa chúng .
6.3. Phương pháp phân tích tổng hợp
Từ sự phân tích các dạng cấu trúc SSTT cụ thể, khóa luận khái quát
những nét đặc sắc của biện phỏp SSTT trong truyện ngắn Nguyễn Khải.
7. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khúa luận triển khai trong
3 chương:
Chương I: Một số giới thuyết liên quan đến đề tài.
Chương II: So sánh tu từ trong truyện ngắn Nguyễn Khải.
Chương III: Giá trị biểu hiện của SSTT trong truyện ngắn Nguyễn
Khải.

9


CHƯƠNG 1: NHỮNG GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Truyện ngắn
1.1.1.Khái niệm truyện ngắn
Thuật ngữ “truyện ngắn” được dùng như một thói quen ít khi người
ta đưa ra bàn luận nhưng trên thực tế vấn đề không hề đơn giản. Đã có
nhiều quan niệm khác nhau khi đưa ra định nghĩa truyện ngắn. Theo nhà
thơ Đức J.Gớt xác định: “Là một câu chuyện lạ đang xảy ra có thể làm ta
kinh ngạc”. Theo giáo sư văn học người Pháp D.Grônôpxki trong sách Đọc
truyện ngắn viết: “Truyện ngắn là một thể loại mn hình mn vẻ biến

đổi khơng cùng, nó là một vật biến hoá như quả chanh của Lọ Lem. Biến
hố về khn khổ: ba dịng hoặc ba mươi trang. Biến hố về kiểu loại: tình
cảm, trào phúng, kỳ ảo, hướng về biến cố thật hay tưởng tượng, hiện thực
hoặc phóng túng. Biến hố về nội dung: thay đổi vơ cùng tận.Muốn có chất
liệu để kể, cần một cái gì đó xảy ra, dù đó là một thay đổi chút xíu về sự
cân bằng, về các mối quan hệ. Trong thế giới của truyện ngắn cái gì cũng
thành biến cố. Thậm chí sự thiếu vắng tình tiết diễn biến cũng gây hiệu
quả, vì nó làm cho sự chờ đợi bị hẫng hụt”
Cịn về phía những người sáng tác truyện ngắn, mỗi người quan
niệm về truyện ngắn thật mn hình mn vẻ, nếu thống kê đầy đủ chắc
chắn có đến hơn 100 định nghĩa về “thể loại tự sự cỡ nhỏ” này. Sau đây ta
sẽ tìm hiểu một vài quan niệm tiêu biểu:
K.Pauxtôpxki, tác giả của những cuốn sách quen thuộc với độc giả
Việt Nam như Bơng hồng vàng, Bình minh mưa, Một mình với mùa thu.

10


Ơng xác định: “Thực chất truyện ngắn là gì? Tơi nghĩ rằng truyện ngắn là
một truyện viết ngắn gọn, trong đó, cái khơng bình thường hiện ra như một
cái gì bình thường, và cái gì bình thường hiện ra như một cái gì khơng
bình thường”.(Dẫn theo Vương Trí Nhàn: Sổ tay truyện ngắn, NXB Tác
phẩm mới, H, 1980, tr.105)
Nhà văn Nguyễn Kiên “Tôi cho rằng nỗi truyện ngắn là một trường
hợp...Trong quan hệ giữa con người và đời sống, có những khoảnh khắc
nào đó, một mối quan hệ nào đó được bộc lộ. Truyện ngắn phải nắm bắt
được cái trường hợp ấy. Trường hợp ở đây là một màn kịch chớp nhống,
có khi là một trạng thái tâm lý, một biến chuyển tình cảm kéo dài chậm rãi
trong nhiều ngày. Nhưng nhìn chung thì vẫn có thể gọi là một trường
hợp” .(Dẫn theo Vương Trí Nhàn: Sổ tay truyện ngắn, NXB Tác phẩm

mới, H, 1980, tr.105)
Theo Nguyễn Công Hoan: “Truyện ngắn không phải là truyện mà là
một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái
độ với cách đặt câu dùng tiếng có cân nhắc...Muốn truyện ấy là truyện
ngắn, chỉ nên lấy một trong ngần ấy ý làm ý chính, làm chủ đề cho
truyện...Những chi tiết trong truyện chỉ nên xoay quanh chủ đề ấy thôi”.
(Nguyễn Công Hoan: Đời viết văn của tơi, NXB Văn học, H, 1971, tr.301)
Cịn nhà văn Ngun Ngọc lại xác nhận: “Truyện ngắn là một bộ
phận của tiểu thuyết nói chung, vì thế khơng nên nhất thiết trói buộc truyện
ngắn vào những khn mẫu gị bó. Truyện ngắn vốn nhiều vẻ. Có truyện
viết về cả một đời người, lại có truyện chỉ ghi lại một vài giây phút thống
qua” ”.(Dẫn theo Vương Trí Nhàn: Sổ tay truyện ngắn, NXB Tác phẩm
mới, H, 1980, tr.105)
1.1.2 Những đăc điểm chính của thể loại truyện ngắn

11


Trước tiên Truyện ngắn là tỏc phẩm tự sự cỡ nhỏ, khuụn khổ ngắn
nhiều khi làm cho truyện cú vẻ gần gũi với cỏc hỡnh thức truyện kể dõn
gian như truyện cổ, giai thoại, truyện cười hoặc gần hơn cả bởi vỡ là hỡnh
thức tự sự tỏi hiện cuộc sống đương thời.
Đặc điểm về Cốt truyện: Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra
trong một thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là
nhận ra điều gỡ đó sâu sắc về cuộc đời, về tỡnh người.
Gớt đã khẳng định: ”Đúng vậy! Cịn gì quan trọng hơn cốt truyện
và nếu thiếu nó thì cả nền lý luận nghệ thuật sẽ cịn ra gì nữa? Nếu cốt
truyện khơng dùng được thì tài năng ta cũng sẽ lãng phí vơ ích. Và chính
nghệ sĩ hiện nay khơng có những cốt truyện xứng đáng nên tình hình nghệ
thuật hiện đại mới bi đát như thế”. Như vậy cốt truyện có vai trò rất quan

trọng trong truyện ngắn mà như Moom - nhà truyện ngắn Anh thời hiện đại
đã khẳng định: “Nhà văn sống bằng cốt truyện y như hoạ sĩ sống bằng
màu và bút vẽ vậy”
Vai trò của chi tiết trong sáng tác truyện ngắn: Truyện ngắn có thể
khơng có một cốt truyện tiêu biểu nhưng sống đuợc lại nhờ vào các chi tiết
hay vì nhờ chúng mà khơng khí, cảnh trí, tình huống, tính cách, hành động,
tâm tư nhân vật được bộc lộ đầy đủ. Những chi tiết hay cịn có khả năng
nâng tác phẩm lên đến cấp độ tượng trưng, tạo sức ám ảnh (hay là có ấn
tượng mạnh). Trong nhiều tác phẩm có những chi tiết phát sáng, nghĩa là
nhờ vào nó mà tư tưởng - chủ đề tác phẩm được khắc sâu.
Nhà văn Nguyên Ngọc rút từ kinh nghiệm sáng tác của mình đã nhấn
mạnh: “Truyện ngắn có thể có cốt truyện, thậm chí cốt trun ly kỳ, gay
cấn, kể được. Truyện ngắn cũng có thể chẳng có cốt truyện gì cả, khơng kể
được nhưng truyện ngắn khơng thể nghèo chi tiết. Nó sẽ như nước lã”

12


Đặc điểm về Kết cấu: Kết cấu là một yếu tố của hình thức vì thế vai
trị của nó được thể hiện trong việc thực hiện nhiệm vụ đối với các yếu tố
của nội dung như chủ đề, tư tưởng, tính cách, cốt truyện, các yếu tố ngồi
cốt truyện. Vì lẽ đó kết cấu tuy là một yếu tố của hình thức tác phẩm,
nhưng xét đến cùng thì tuân thủ theo những yêu cầu tối cao của nội dung
mà nó thể hiện.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (NXB giáo dục, H, 1991) thì “Kết
cấu là tồn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm, kết cấu thể
hiện nội dung rộng rãi phức tạp hơn. Tổ chức tác phẩm, không chỉ giới
hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận,
chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc
nội dung cụ thể của tác phẩm. Kết cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu

của khái quát nghệ thuật, kết cấu phải đảm nhiệm chức năng đa dạng bộc
lộ tốt chủ đề, tư tưởng của tác phẩm; triển khai trình bày hấp dẫn cốt
truyện, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả tạo nên tính tồn vẹn của
tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mỹ”
Đặc điểm về Nhân vật. Truyện ngắn thường khơng nhằm khắc hoạ
những tính cách điển hỡnh, cú cỏ tớnh đầy đặn trong tương quan với hoàn
cảnh. Nhân vật truyện ngắn thường hiện thân cho một trạng thái quan hệ xó
hội, ý thức xó hội hoặc trạng thỏi tồn tại của con người. Mặt khác, truyện
ngắn có thể mở rộng diện nắm bắt các kiểu loại nhân vật đa dạng của cuộc
sống, của quan hệ… Những kiểu loại mà trong tiểu thuyết thường hiện ra
thấp thoáng trong các nhân vật phụ.
Đặc điểm về Ngôn ngữ: Cũng như ngôn ngữ tiểu thuyết, ngôn ngữ
truyện ngắn là sự mô tả đối thoại (nội tại). Truyện ngắn chứa đựng nhiều
phong cách, nhiều giọng nói, những phong cách xen lẫn nhau, hồ hợp. Có
tranh luận, cói vó và đối chọi, có mâu thuẫn, xung đột và giải quyết. Như
13


“một đứa con lai”, nó khoẻ đẹp và đầy sức sống. Đặc biệt, ngơn ngữ truyện
ngắn hiện đại đó tỏ rừ “chất tiềm thức lấn ỏt ý thức”(Chữ dùng của Đỗ
Đức Hiểu). Mỗi từ, câu trong truyện ngắn phải tự mô tả lấy mỡnh, phải
động. Ngôn ngữ tự đối thoại, tự tranh cói hay núi cỏch khỏc ngụn ngữ
lưỡng lự nước đôi … khiến cho truyện ngắn hiện đại là truyện ngắn của các
khả năng. Mỗi truyện ngắn hay thường khơng tự nó đem đến cho ta một kết
luận, khẳng định hay bác bỏ dứt khốt áp đặt. Nó đặt ra cho ngơn ngữ sự
lựa chọn hoặc như M.Bakhtin nói trước sự liên minh của lưỡng lự. Nhà văn
Nguyên Ngọc khi nói về ngơn ngữ của truyện ngắn có phát biểu: "Truyện
ngắn nào của Tsekhop cũng làm giàu đời sống tinh thần của ta vỡ chỳng
đánh thức dậy ở ta ý thức ham muốn, giác ngộ về sự biết phân vân, hoặc
đắn đo hoặc nói như các nhà hiền triết phương Đông - biết tỡm cỏi cú

trong cỏi khụng, cỏi khụng trong cỏi cú . Một trong những đặc điểm nổi bật
của ngôn ngữ truyện ngắn là lối hành văn cơ đọng, súc tích, khơng dẫn dắt
dài dũng mà đi thẳng, trực tiếp đề cập đến các vấn đề được đặt ra. Đặc
điểm này cũng đó được các nhà văn Nga M.Gorky nhấn mạnh như sau:
"Muốn học viết phải bắt đầu từ truyện ngăn nú rốn luyện cho tỏc giả biết
tiết kiệm ngụn ngữ, biết cỏch viết cụ đọng". Nhà văn Việt Nam Ma Văn
Kháng khi nói đến ngơn ngữ truyện ngắn cũng đó bộc bạch rằng: “Câu chữ
cho một truyện ngắn là yếu tố quyết định, là cả một nỗ lực to lớn và… như
đó là yếu tố quyết định thành bại của một truyện ngắn. Truyện ngắn hay ở
văn. Ai đó đó núi ra và tụi đó nhận ra đúng như vậy. Bởi vỡ cú những
truyện ngắn, nội dung cõu chuyện hỡnh như khơng có gỡ là đặc sắc mà
sao khi đọc xong cứ mê ly thế nào? Câu chữ đó hỳt hồn ta đấy” Hay như
nhà văn Bùi Bỡnh Thi núi: “Chữ trong văn xi có men”. Đây thực sự là
một ý kiến xác đáng bởi vỡ cõu chữ nú toả huơng, nó rủ rê dẫn dắt, nó
quyến rũ ta, nú là cỏi hồn của cõu chuyện.

14


1.2 Nhà văn nguyễn Khải và truyện ngắn Nguyễn Khải
1.2.1.Nhà văn Nguyễn Khải
1.2.1.1. Nguyễn Khải – Đôi nét về cuộc đời
Nguyễn Khải tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải, ông sinh ngày 3
tháng 12 năm 1930 tại Hà Nội trong một gia đỡnh viờn chức, quờ nội ụng ở
phố Hàng Than, thành phố Nam Định; q ngoại ơng ở xó Hiếu Nam,
huyện Tiờn Lữ, tỉnh Hưng Yên.
Theo Nguyễn Khải, ông vồn là một giọt máu nhà quan nhưng là giọt
máu bị bỏ rơi bởi ông là một đứa con thờm bị sỉ nhục từ một ụng bố thiếu
tỡnh thương và trách nhiệm. Tuổi thơ của Nguyễn Khải cũng lắm điều cay
đắng nhưng cuộc đời ơng đó bước sang một trang mới khi cuộc khỏng

chiến chống thực dõn Phỏp bựng nổ. ễng tham gia khỏng chiến rồi trở
thành một y tỏ lỳc 18 tuổi, trong thời gian này ơng đó thử viết bài cho tờ
Dân quân Hưng Yên. Nhờ chút năng khiếu ấy, năm 19 tuổi, ơng được điều
lên làm phóng viên cho tờ báo này. Cũng từ đó, Nguyễn Khải đó được
nhiều lần cử đi dự các lớp nghiên cứu văn nghệ, ở đây ông được gặp và làm
quen nhiều nhà văn lớn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Nguyễn Huy
Tưởng… Họ đó trở thành những người thầy, người bạn văn chương tâm
huyết của ơng. Người săn sóc, động viên, chỉ bảo nhiều nhất trờn từng
trang viết cho ụng trong những ngày chập chững vào nghề đó là Nguyễn
Tuân. Năm 26 tuổi Nguyễn Khải được điều về công tác tại Tổng cục chính
trị (sau 1956 là tạp chí văn nghệ quân đội). Liên tục sau 2 năm (1957 –
1958) ông lần lượt cho in các tập trong phần đầ của tiểu thuyết Xung đột –

15


một tác phẩm được đánh giá cao. Với tác phẩm này Nguyễn Khải bắt đầu ý
thức về chức năng của người cầm bút và thật sự bước vào con đường viết
truyện.
Như vậy cách mạng đó cú ảnh hưởng rất lớn đối với cuộc đời sáng
tạo của Nguyễn Khải, vỡ lẽ đó mà ụng luụn tõm niệm và bày tỏ lũng biết
ơn sâu sắc đối với cách mạng: “Nếu khụng cú cỏch mạng thỡ mói hắn sẽ bị
ỏm ảnh là một đứa trẻ bị ruồng bỏ… chỉ xứng đáng có một thân yếu hèn
mọn. Chính cách mạng đó cho hắn lũng tự tin, biết lóng mạn, biết mộng
mơ và biết xây đắp chí hướng” và Nguyễn Khải khơng những đó vươn lên
khẳng định mỡnh mà cũn để lại danh tiếng của mỡnh cho hậu thế.
Nhà văn Nguyễn Khải đã vĩnh biệt văn đàn Việt Nam vào lúc 19h25
ngày 15 - 1 - 2008 tại TP. Hồ Chí Minh. Sự ra đi của ông đã để lại niềm
thương tiếc cho vô vàn cho người thân và độc giả nhưng cũng tràn đầy
niềm tự hào về ông - một nhà văn hàng đầu, quạn trọng nhất của văn học ta

suốt một thời kỳ cực kỳ sôi động. Tất cả những chuyển động bão táp, phức
tạp, trăn trở đó của số phận đất nước và nhân dân ta sẽ được in đậm dấu ấn
trong sáng tác của Nguyễn Khải.
1.2.1.2. Nguyễn Khải – những chặng đường sáng tác
Nguyễn Khải thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành từ cuộc kháng chiến
chống Pháp, kể từ đó cho đến khi ông từ giã cõi đời này, nhà văn đã đều
đặn hàng năm cho ra đời những đứa con tinh thần của mình, ơng sáng tác
trên nhiều thể loại như ký sự, tạp văn, tiểu thuyết, truyện ngắn, tự truyện,
tùy bút,... Và hầu như những tác phẩm nào của Nguyễn Khải khi ra đời dù
ở thời chiến hay thời bình, dù khi ơng cịn trẻ hay khi đã già, kể cả những
năm tháng cuối đời đều đựơc đông đảo bạn đọc và giới phê bình đón nhận
và đánh giá cao.

16


Để hiểu thêm về cuộc đời sáng tác của Nguyễn Khải chúng tơi sẽ
trình bày những chặng đường sáng tác của ông theo những chặng đường
như sau: Từ 1955 - 1977, từ 1978 - 1986, từ 1986 - 2008.

* Giai đoạn 1955 - 1977
Năm 1945, khi cách mạng tháng Tám thành cơng, đó cũng là thời
gian mà Nguyễn Khải đã bắt đầu đến độ tuổi thanh niên, bắt đầu có những
hiểu biết, những suy nghĩ và trăn trở về cuộc sống. Những năm sau 1945
khi cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra sôi nổi và hào hùng cũng là lúc
ông bắt đầu tham gia cách mạng và làm quen với nghề viết, có thể nói
phong cách của ơng cũng được hình thành từ những năm đó.
Truyện ngắn "Ra ngồi" (1950) được trình làng và sau đó 5 năm ơng
đã cho ra đời truyện "Xây dựng" và " Người con gái quang vinh” Và đến
năm 1956, khi truyện "Nằm vạ" ra đời đã được độc giả đón nhận và nó đã

đánh dấu con đường cầm bút của Nguyễn Khải. Liên tục trong 2 năm 1957
- 1958, ông lần lượt xuất bản những phần đầu của tiểu thuyết "Xung đột".
Với tác phẩm này, như một nhà phê bình đã nhận xét: Nguyễn Khải đã bắt
đầu ý thức về chức năng của người cầm bút và thật sự bước vào con đường
viết truyện".
Trong phong trào xây dựng vùng kinh tế mới, hàn gắn vết thương
chiến tranh, Nguyễn Khải đã lên với nông trường Điện Biên, nơi xưa là
chiến trưòng oanh liệt, nay là công truờng với bạt ngàn màu xanh của cây
cỏ, ông đã viết tập truyện Mùa lạc (1960) trong niềm tin tưởng, lạc quan
trước cuộc sống mới. Mặc dù viết để cổ vũ cho một phong trào xây dựng
nền kinh tế mới nhưng tập truyện Mùa lạc đã thể hiện ngòi bút nhân đạo
sâu sắc, một lối viết bám sát vào vấn đề thời sự của đất nước nhưng không

17


minh họa giản đơn một chiều mà từ những thay đổi của cuộc đời nhân vật
tác giả đã đem đến cho người đọc một lời thức ngộ nhẹ nhàng nhưng cũng
đỗi tha thiết, chân thành: chúng ta đang sống trong một xã hội tốt đẹp và
giàu tình cảm nhân đạo. Năm 1963 tác giả lại cho ra đời tập truyện ngắn
"Tầm nhìn xa" để tiếp tục cổ vũ cho phong trào hợp tác hóa nhằm đưa nơng
thơn miền Bắc tiến lên con đường XHCN. Dù tập truyện ra đời cách đây
hơn nửa thế kỷ nhưng nó vẫn cịn mang ý nghĩa thời sự khi nói đến vấn đề
nơng thơn và mối quan hệ giữa lợi ích các nhân với lợi ích tập thể trong
công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Khi đế quốc Mĩ leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc, Nguyễn
Khải đã xông pha chiến trận, đến với những nơi nóng bỏng nhất của cuộc
chiến và đã ghi lại được khơng khí chiến trận ở nhiều thể loại: ở thể loại ký
sự có: Họ sống và chiến đấu (1966), Tháng ba ở Tây Nguyên (1976). Tiểu
thuyết có: Đường trong mây (1970), Ra đảo (1970), Chiến sĩ (1973). Qua

những tác phẩm ấy, Nguyễn Khải đã đóng góp một tiếng nói riêng, một
cách nhìn và tiếp cận riêng trước hiện thực cách mạng.
Nhìn chung giai đoạn này phong cách của Nguyễn Khải bắt đầu định
hình và phát triển. Nếu như nói rằng Nguyễn Khải là nhà văn của vấn đề,
nhà văn của thời sự với một giọng điệu chính luận khơng thể trộn lẫn thì đó
là giai đoạn này.
* Giai đoạn 1978 - 1986
Khi nước nhà được thống nhất hoàn tồn thì Nguyễn Khải đã vào
miền Nam, tiếp xúc với một hiện thực cực kỳ đa dạng và mới mẻ. Cùng với
những trải nghiệm của bản thân,sự truởng thành trong nhận thức, ơng bắt
đầu có những tác phẩm mà ở đó bộc lộ độ chín của một cây bút. Nhiều tác
phẩm mang ý nghĩa thâm trầm và giàu tính triêt lý của nhà văn đã ra đời

18


trong hồn cảnh đó như kịch: Cách mạng (1978), Hành trình đến tự do
(1980), Khoảnh khắc đang sống (1982), tiểu thuyết: Cha và con và ...
(1979), Gặp gỡ cuối năm (1982), Thời gian của người (1985)... Có lẽ
khơng phải ngẫu nhiên hay vơ tình mà Nguyễn Khải đến với thể loại kịch.
Hẳn ở đó nhà văn đã tìm đựoc một cách tối đa nhất để cho nhân vật được
đối thoại, được triết lý với nhau mà còn đối thoại, triết lí với tác giả, với
bạn đọc để tranh luận đi đến làm sáng tỏ một vài vấn đề nào đó. Tiểu thuyết
Cha và con và ... tiếp tục đề tài tơn giáo nhưng trong một hồn cảnh mới:
chủ nghĩa xã hội đã có những cơ sở vững chắc ở nơng thôn. Và vấn đề mà
Nguyễn Khải đưa ra là tôn giáo sẽ đối thoại với xã hội như thế nào khi
quan hệ XHCN đã chiến thắng? Tác phẩm Gặp gỡ cuối năm thể hiện khả
năng lựa chọn tình huống, sở trường trong việc miêu tả và phản ánh những
cái ngổn ngang, bề bộn của "ngày nay". Xung quanh cái bàn tròn nhân dịp
gặp gỡ cuối năm ấy, nhà văn đã nói lên được bao điều vẫn tồn tại trong hiện

tại. Chỉ năm tiếng đồng hồ chờ đón phút giao thừa mà bao số phận, tình ý
đựơc đưa ra. Thời gian của người cũng là cuốn tiểu thuyết triét lí về cuộc
đời. Tất nhiên, đó khơng phải là thứ triết lý suông mà qua từng việc, từng
số phận của nhân vật tác giả đã bàn luận, đối thoại với bạn đọc về những
khía cạnh để làm nên cuộc đời mỗi con người. Mỗi người chúng ta sống
trong cuộc đời chỉ có một khoảng thời gian không dài lắm trong cái vô hạn
của vũ trụ, vậy thì chúng ta phải làm thế nào để kéo dài cuộc đời đó? Đó là
câu hỏi mà tác phẩm muốn đặt ra và mời gọi mọi ngưòi cùng trả lời và giải
quyết. Vấn đề đặt ra mang tầm triết học lớn lao nhưng lại được Nguyễn
Khải giải quyết một cách nhẹ nhàng, khơng q giáo điều.
Nói tóm lại, giai đoạn này đã có một sự vận động trong phong cách
của Nguyễn Khải. Nếu như trước đây ngịi bút của nhà văn thiên về tính
chính luận thì nay đã chuyển sang giọng điệu suy tư, chiêm nghiệm. Đây là

19


thời kỳ ơng có dun nhất với thể loại tiểu thuyết và ít viết truyện ngắn.
Những đặc điểm trong văn phong của ông thời kỳ này vẫn tiếp tục được
phát huy và thể hiện dưới nhiều dạng vẻ với một sự chín lắng hơn ở giai
đoạn sau, cho dù giai đoạn sau ơng lại dường như có dun với thể loại
truyện ngắn hơn.

* Giai đoạn 1986 - 2008
Năm 1986, đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, đặc biệt là sự xuất
hiện của nền kinh tế thị trường đã làm thay đổi xã hội trên nhiều lĩnh vực,
làm thay đổi cả về quan niệm về con người của nhà văn. Có thể nói Nguyễn
Khải là một trong những người đi đầu trong công cuộc đổi mới văn học.
Giai đoạn này sự ra đời của 3 cuốn tiểu thuyết Điều tra về một cái chết
(1986), Vịng sóng đến vơ cùng (1987), Một cõi nhân gian bé tí (1989) đã

cho thấy sự tiếp tục về mạch văn của giai đoạn trước. Đặc biệt thời gian
này ông viết nhiều truyện ngắn như Một giot nắng nhạt (1988) có thể xem
như là tự truyện của ông. Tập truyện Một người Hà Nội (1990) bao gồm
những truyện ngắn cực kỳ nổi tiếng như: Nếp nhà, Chúng tôi và bọn hắn,
Đất kinh kỳ, Người vợ, Nắng chiều, Một người Hà Nội... chủ yếu viết về
những con người mà nhân cách, nếp sống của họ là những tinh hoa của một
Tràng An xưa nay cịn xót lại. Và giữa bao bề bộn của cuộc sống, những
tinh hoa đó vẫn ln lấp lánh trong mỗi con người nhỏ bé, sống lặng lẽ ở
mỗi ngõ phố, giữa chốn phồn hoa náo nhiệt Hà thành. Trong lúc cơ chế thị
trường đang tấn cơng quyết liệt vào con ngưịi, vào làng văn, nhiều cây bút
đã chạy theo thị hiếu với những mức độ khác nhau thì Nguyễn Khải vẵn
giữ được phong cách của mình, vẫn ln trân trọng, tìm về phía tốt đẹp,
những gì gọi là bất biến của con người, lúc đầu có vẻ như lạc dịng nhưng
càng ngày ơng càng đứng vững. Đây cũng là thơì kỳ mà Nguyễn Khải cho
20


xuất bản những tập truyện có chất luợng, được đánh giá cao, thể hiện được
phong cách như: Sư già chùa Thắm và ơng đại tá về hưu (1993), Một thời
gió bụi (1993). Năm 1996, nhà xuất bản hội nhà văn cho xuất bản tập
truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Khải và Nguyễn Khải truyện ngắn. Cùng năm
đó, nhà xuất bản Văn học tiếp tục xuất bản Tuyển tập Nguyến Khải gồm 3
tập. Năm 1997, Nhà xuất bản trẻ, TP. Hồ Chí Minh xuất bản cuốn Truyện
ngắn và tạp văn. Năm 1999, nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội xuất bản
cuốn Truyện nghề bao gồm các bài viết nói về nghề viết của nhà văn. Cùng
năm này, nhà xuất bản Hội nhà văn cuất bản Tuyển tập tiểu thuyết. Năm
2002, Nhà xuất bản trẻ, TP Hồ Chí Minh xuất bản tập Sống ở đời gồm
những truyện mới viết của nhà văn vào thời gian này. Cũng năm này nhà
xuất bản Hội nhà văn đã cho xuất bản Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải
với 34 truyện. Dễ thấy rằng ở thời kỳ này Nguyễn Khải rất ưu ái và đặc biệt

có duyên với thể lọai truyện ngắn. Đây cũng là thể loại phát huy được sở
truờng ngòi bút của Nguyễn Khải. Truyện ngắn Nguyễn Khải giàu tính chất
chiêm nghiệm, sự lịch lãm, trải đời, khiến nhiều người đọc bị cuốn hút
trước bao nhiêu những suy tư, trăn trở và số phận nhân vật. Việc xuất bản
những sáng tác của nhà văn, có những tác phẩm được tái bản nhiều lần đã
chứng tỏ rằng Nguyễn Khải không bao giờ cũ và lạc thời.
Tưởng như bấy nhiêu năm cầm bút đã đủ để cho nhà văn có quyền
được hãnh diện và nghỉ ngơi thì bất ngờ năm 2003, một cuốn tiểu thuyết
mang tính chất tự truyện của nhà văn mang tên Thượng đế thì cười ra mắt
bạn đọc. Với tác phẩm này, dù viết khi tuổi xế chiều nhưng người đọc vẫn
dễ nhận ra cái giọng ưa triết lí, thích giễu nhại, đùa cợt, tự trào của ơng
trước đây. Đọc Thượng đế thì cười, chúng ta thấy Nguyễn Khải đã làm một
cuộc "tổng rà sốt" khá cơng phu về các tác phẩm đã in của mình trong một
đời cầm bút. Và trong mỗi trường hợp, mỗi tác phẩm, Nguyễn Khải đều có

21


những đánh giá, bình phẩm cụ thể từ cái nhìn chủ quan của chính bản thân
mình. Nếu như những cuốn viết từ thời kháng chiến, rất hiếm khi ông dùng
tới lời khen ngợi, sự vừa ý thì những cuốn xuất bản vào đầu những năm 80,
nhà văn lại tỏ ra vừa ý hơn khi bình xét. Và như lời ơng nói, những tác
phẩm viết trong thời gian ấy đều có giọng điệu hơn cả.
Chia hành trình sáng tạo của một nhà văn chỉ là một cơng việc có
tính chất tuơng đối, điều đó lại càng đúng hơn đối với một nhà văn sớm
hình thành được phong cách như Nguyễn Khải. Vậy nên, theo chúng tơi,
đây là một cách để có thể thấy được sự thống nhất cũng như sự vận động ở
một cây bút tài năng.
1.2.2. Phong cỏch truyện ngắn Nguyễn Khải
Cả một đời gắn bó với nghề viết văn và đó để lại một sự nghiệp văn

chương khơng nhỏ cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, nhà văn Nguyễn
Khải đó từ gió chỳng ta vào một ngày đầu năm 2008 với bao điều chưa nói
hết, chưa viết hết. Ông là nhà văn sáng tác trờn nhiều thể loại và ở thể loại
nào cũng thành công, để lại những tác phẩm văn chương bất hủ trong lũng
người đọc. Có thể nói giá trị văn chương của ơng sống lâu trong lũng bạn
đọc như vậy là do phong cách sáng tác của ông được hỡnh thành từ rất sớm
và rất độc đáo. Sau đây chúng tôi sẽ chỉ trỡnh bày phong cỏch của ụng ở
thể loại truyờn ngắn trờn phương diện nội dung tư tưởng và hỡnh thức nghệ
thuật .
1.2.2.1 Phong cỏch truyện ngắn Nguyễn Khải nhỡn ở phương diện
nội dung tư tưởng.
Nguyễn Khải là một trong số ít nhà văn ở nước ta có một hành trỡnh
sỏng tạo gắn liền với một chặng đường dài của dân tộc, từ những năm
kháng chiến chống Pháp gian khổ cho đến những năm đất nước bước vào

22


quá trỡnh hội nhập với thế giới. Là một nhà văn nhạy cảm với những thay
đổi của thời cuộc, có trách nhiệm cao trong nghề nghiệp, sáng tác của
Nguyễn Khải nói chung và truyện ngắn nói riêng được giới phê bỡnh, đồng
nghiệp, bạn đọc mệnh danh là nhà văn của thời sự, nhà văn "thông tấn"
(Trần Đăng Khoa), "nhà tư tưởng" (Ngun Ngọc), điều đó khơng hề giảm
đi vẻ đẹp nghệ thuật đích thực trong văn chương Nguyễn Khải. Quả đúng
như vậy, Nguyễn Khải là một trong số ít nhà văn có được tác phẩm bám sát
những vấn đề thời sự của đất nước từ những năm xây dựng nông thôn ở
miền Bắc, thời chống Mỹ và sau này là những vấn đề thiết thực liên quan
đến con người thời hậu chiến, thời hiện đại. Cũng vỡ vậy mà nhà văn
Nguyên Ngọc đó cho rằng ụng là nhà văn trung thực nhất của thời đại. Với
một lối tiếp cận riêng, nên mặc dù bám sát vào những vấn đề thời sự nhưng

tác phẩm của Nguyên Khải, kể cả những tác phẩm viết ở thời kỳ đầu như
tập truyện Mựa lạc, chưa bao giờ là những tác phẩm mang tính chất minh
họa giản đơn đằng sau cái hiện thực sôi động, thậm chí nóng bỏng của cuộc
sống là bao vấn đề mang tầm khái quát, có giá trị nhân văn sâu sắc được
đặt ra. Nguyễn Khải là nhà văn có cái nhỡn sắc sảo, nhạy cảm khụng chỉ
với cỏi đẹp mà cũn với cả những cỏi xấu, cỏi lạc hậu, trỡ trệ trong xó hội.
ễng đó từng thành cụng với nhiều nhõn vật phản diện. Tuy nhiờn, với một
quan niệm về hiện thực sõu sắc, với một lũng tin vào bản chất tốt đẹp của
con người, truyện ngắn của Nguyễn Khải là một minh chứng tiờu biểu cho
hành trỡnh mải miết đi tỡm vẻ đẹp vĩnh hằng của con người trong những
biến đổi vơ cùng của cuộc sống. Đó là vẻ đẹp về mặt trí tuệ, đặc biệt về mặt
nhân cách trong những con người bỡnh thường nhất, lặng lẽ nhất ở trong
cuộc sống vừa đa dạng vừa có chiều sâu như vậy, lẽ đương nhiên là cảm
hứng sáng tạo trong truyện ngắn của cũng trở nên phong phú. Ở đó vừa có
cảm hứng ngợi ca vừa có cảm hứng phê phán. Nhưng điều đặc biệt là ở cây

23


bút này dù ngợi ca hay phê phán cũng không bao giờ dẫn đến một cái nhỡn
cực đoan, đơn giản. Mỗi con người là một thế giới đầy bí ẩn và phức tạp và
không thể đánh giá được trong ngày một ngày hai với một cỏi chủ quan,
hạn hẹp. Thiờn truyện Cỏi thời lóng mạn của ụng là một sự giói bày chõn
thành, thấm thớa về điều đó. Với một quan niêm, một cái nhỡn khụng hời
hợt, giản đơn, Nguyễn Khải đó để lại trong truyện ngắn của mỡnh một thế
giơí với những nhân vật thật đa dạng, sống động, chân thật như chính đời
sống của nó vậy. Cũng chính từ những tác phẩm như vậy mà những chiêm
nghiệm, những triết lý về thõn phận của con người cũng đuợc thể hiện một
cách sâu sắc, cảm động trong mảng truyện ngắn của ơng. Có thể nói rằng,
với một cách tiếp cận hiện thực riờng và một kiểu xử lý đầy sáng tạo trong

cảm hứng, Nguyễn Khải đó thực sự tạo được một dấu ấn độc đáo, khó quên
trong hành trỡnh đến với bạn đọc mọi thời.
1.2.2.2 Phong cỏch truyện ngắn Nguyễn Khải nhỡn ở phương diện
hỡnh thức nghệ thuật.
Truyện ngắn của Nguyễn Khải không chỉ độc đáo trong lối tiếp cận
hiện thực, trong cảm hứng sáng tạo mà cũn độc đáo trong nhiều yếu tố ở
phương diện hỡnh thức nghệ thuật. Là một nhà văn trung thực, xác định
đúng đắn được lập trường của người cầm bút, Nguyễn Khải không ngại
vạch trần những xung đột trong đời sống và con người. Để thực hiện điều
này, Nguyễn Khải đó tạo ra một kiểu tỡnh huống phổ biến, đó là tỡnh
huống kịch. Qua những tỡnh huống kịch như vậy, những xung đột xó hội,
những mõu thuẫn trong lối sống, trong quan niệm cũng như mâu thuẫn giữa
các thế hệ đó đuợc nhà văn đặt ra và thực sự đem đến cho người đọc một
bức tranh chân thực, sống động về đời sống tinh thần đầy phong phú và
phức tạp của con người qua các thời kỳ lịch sử. Bên cạnh tỡnh huống kịch
cũn cú một kiểu tỡnh huống rất phổ biến, đó là tỡnh huống lựa chọn. Ở đó

24


nhân vật luôn được đặt trước những sự lựa chọn, buộc họ phải lựa chọn
một cách, đó có thể là cách nghĩ, cách sống, cách ứng xử... và từ đó làm rừ
tớnh cỏch nhõn vật. Dễ thấy rằng hầu hết cỏc nhõn vật trong truyện ngắn
Nguyễn Khải, khi đứng trước những tỡnh thế như vậy thường có một cách
lựa chọn đầy bản lĩnh, thể hiện được nhân cách đẹp đẽ mà khơng phải trong
hồn cảnh đó ai cũng làm được như vậy. Có thể nói rằng kiểu tỡnh huống
kịch và đặc biệt là kiểu tỡnh huống lựa chọn đó đem lại cho truyện ngắn
Nguyễn Khải những nét độc đáo, không thể trộn lẫn với bất kỳ tác phẩm
của nhà văn nào cùng thời và kể cả sau này.
Tỡm hiểu thế giới nhõn vật trong truyện ngắn Nguyễn Khải ta thấy

ụng đó thực sự xõy dựng được một số kiểu nhân vật mang tính nghệ thuật
cao và đồng thời đó thể hiện được sâu sắc những quan niệm về hiện thực
cũng như quan niệm về con người. Trong thế giới truyện ngắn của Nguyễn
Khải, có một lớp người mà cốt cách, phẩm chất, những nguyên tắc ứng xử
của họ không bao giờ đổi thay trước những biến động của thời cuộc. Điều
đó khơng những khơng làm cho họ trở nên lạc thời mà chính bản thân
những con người đó đó lưu giữ lại được những truyền thống tốt đẹp của gia
đỡnh, dũng họ và rộng ra là cả một dân tộc. Viết về những con người như
vậy, ngũi bỳt Nguyễn khải biết bao trõn trọng, với ụng họ như những "hạt
bụi vàng" cũn sút lại và ụng tha thiết muốn nớu giữ nú. Xó hội hiện đại
đang đổi thay đến chóng mặt và mặt trái của nó đó tỏc động đến thành trỡ
của từng gia đỡnh, từng con người với bao tốt xấu. Nhỡn chung, điều thu
hút các nhà văn hiện đại cùng thời với Nguyễn Khải vẫn là phản ánh, miêu
tả mặt trái của nó. Và vỡ thế khi người đọc thường xuyên phải đối diện với
những nhân cách méo mú, tha húa của nhiều nhõn vật trong cỏc tỏc phẩm
văn học hiện đại và không khỏi giật mỡnh, kinh hoàng; thỡ lại cú thể tỡm
thấy một chỳt bỡnh yờn, một niềm tin khi tiếp xỳc với kiểu nhõn vật như

25


×