Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Dân dã, hóm hỉnh - một sắc thái giọng điệu nổi bật trong truyện ngắn Nguyễn Khải." pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.85 KB, 9 trang )




Báo cáo nghiên cứu
khoa học:

"Dân dã, hóm
hỉnh - một sắc thái
giọng điệu nổi bật
trong truyện ngắn
Nguyễn Khải"



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4b-2008


85
Dân d, hóm hỉnh - một sắc thái giọng điệu nổi bật
trong truyện ngắn Nguyễn Khải



Cao Thị Anh Tú
(a)


Tóm tắt. Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu những yếu tố làm nên chất giọng
dân dã, hóm hỉnh trong truyện ngắn của Nguyễn Khải. Chính chất giọng này đã làm
cho những tác phẩm vốn đợc xem là mang tính vấn đề, tính t tởng của nhà văn
trở nên chân thực, tơi mới và dung dị hơn. Một thứ giọng điệu bớc đầu đã làm cho


truyện ngắn của nhà văn trở nên dân chủ hơn trong mối quan hệ với bạn đọc. Đây
cũng là một trong những phơng diện làm nên phong cách truyện ngắn của Nguyễn
Khải.

rong tác phẩm văn học nói
chung, giọng điệu của nhà văn
đợc tạo nên bởi rất nhiều yếu tố. Nó
đợc thể hiện qua Thái độ, tình cảm,
lập trờng, t tởng, đạo đức của nhà
văn đối với hiện tợng đợc miêu tả, thể
hiện trong lời văn quy định cách xng
hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu, tình cảm,
cách cảm thụ xa, gần, thân sơ, thành
kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm
biếm [2, tr. 111]. Một trong những yếu
tố hết sức quan trọng để tạo nên giọng
điệu riêng của mỗi nhà văn chính là yếu
tố ngôn ngữ đợc sử dụng trong đó. Tìm
hiểu sáng tác của Nguyễn Khải, nhiều
nhà nghiên cứu đã chỉ ra một số đặc
điểm về giọng điệu trong tác phẩm của
ông. Bích Thu cho rằng giọng điệu chủ
yếu trong tác phẩm của ông là giọng
triết lí, tranh biện, giọng điệu thể
hiện sự trải nghiệm cá nhân, tâm tình,
chia sẻ giọng điệu hài hớc, hóm
hỉnh [3, tr. 123]. Tuyết Nga trong một
công trình nghiên cứu về văn xuôi
Nguyễn Khải cũng đã chỉ ra: giọng kể
chuyện cà kê, hóm hỉnh và dân dã [5,

tr. 174] v v Mặc dù có bàn đến giọng
điệu dân dã và hóm hỉnh, nhng những
tác giả vừa kể trên mới chỉ dừng lại ở
những nhận xét chung nhất, cha chỉ
ra một cách cụ thể những yếu tố làm
nên chất gọng đó. Trong bài viết này,
chúng tôi bớc đầu đi vào tìm hiểu một
số phơng diện làm nên giọng điệu dân
dã, hóm hỉnh trong truyện ngắn của
nhà văn Nguyễn Khải. Chính chất
giọng này đã làm cho những tác phẩm
vốn đợc xem là mang tính vấn đề của
ông trở nên hấp dẫn, sinh động hơn, lời
văn vì thế cũng trở nên ý nhị và có
duyên hơn. Đây cũng là một trong
những yếu tố quan trọng làm nên
phong cách truyện ngắn của Nguyễn
Khải.
1. Sử dụng ngôn từ chắt lọc từ lời
ăn tiếng nói hằng ngày của đời sống là
một trong những yếu tố làm nên giọng
điệu dân dã, hóm hỉnh trong truyện
ngắn của nhà văn Nguyễn Khải. Ngôn
ngữ đợc sử dụng hằng ngày của nhân
dân vốn hết sức đa dạng và sinh động.
Việc vận dụng loại ngôn ngữ này vào
trong tác phẩm đã làm cho văn phong
Nguyễn Khải có một sức quyến rũ đặc
biệt, đa ta đến với một thế giới chân
thực mà cũng hết sức sống động và đa

dạng của đời sống. Đúng nh Lại
Nguyên Ân đã nhận xét: Thực ra đặc

Nhận bài ngày 30/10/2008. Sửa chữa xong 13/11/2008.


T



Cao Thị Anh Tú Dân d, hóm hỉnh truyện ngắn Nguyễn Khải, TR. 85-92


86
sắc của thứ ngôn ngữ này là ở chỗ nó
miêu tả lời ăn tiếng nói ngoài đời, miêu
tả một ngôn ngữ sống chứ không chỉ
dùng ngôn ngữ ấy đơn thuần nh một
phơng tiện kể chuyện [1, tr. 82]. Chính
việc vận dụng ngôn ngữ đời sống một
cách tự nhiên, tởng nh không dụng
công gì cả vào trong tác phẩm đã tạo
nên nét linh hoạt, dí dỏm trong văn
chơng Nguyễn Khải.
Trong ngôn ngữ của đời sống hàng
ngày, khẩu ngữ là một thành phần hết
sức quan trọng. Sử dụng khẩu ngữ là
một điều không thể thiếu đợc trong
sáng tác văn học, đặc biệt là khi tạo
dựng hội thoại. Nhà văn Nguyễn Khải

là ngời dờng nh đã thâu tóm đợc
cái hồn của khẩu ngữ để vận dụng
một cách thật đặc sắc trong tác phẩm
của mình. Trong Tầm nhìn xa, một
truyện ngắn rất thành công của
Nguyễn Khải, mỗi lời nói của nhân vật
đều mang đậm chất đời thờng của cuộc
sống. Từ trong những lời nói tởng nh
bình thờng đó, những suy nghĩ, thái độ
của nhân vật đã đợc bộc lộ. Biết Tuy
Kiền là ngời nhiều mu mô, tinh khôn,
khi nói chuyện với anh cán bộ Ty kiến
trúc, Biền bóng gió: Ông ấy vẫn cha
dở cái ngón chính ra với anh đâu. Tuy
Kiền đã giận giữ đáp lại: Còn ngón nào
nữa. Anh đa nghi nh Tào Tháo ấy.
Quả là trong những câu nói nh vậy,
thái độ của mỗi nhân vật đã đợc nhà
văn chuyển tải một cách thật tự nhiên.
Còn đây là lời của mấy anh xã viên nói
với cán bộ Biền khi bàn công việc của
hợp tác xã: ừ, cũng phải nói từ gốc đến
ngọn chứ. Em với thằng Bài mỗi thằng
gánh sáu nghìn con, toàn cá bốn năm
phân cả hoặc nh Ăn đợc bữa cơm
lại thiệt mẹ nó hai trăm đồng, bát cơm
quá bát yến Khi một nhân vật trong
tác phẩm hỏi Tuy Kiền với nội dung tối
nay có đợc uống rợu không, thì
Nguyễn Khải cũng đặt vào nhân vật

một câu nói rất thú vị mà cái chất của
đời thờng không thể lẫn vào đâu đợc:
Tối nay có chén bác chén chú gì không
đấy?. Có thể nói rằng, trong tác phẩm
của Nguyễn Khải, ngôn ngữ của nhân
vật là thứ ngôn ngữ hàng ngày rất giàu
có về hình ảnh, hiểu nó thì thật đơn
giản, mà lại còn rất thú vị nữa, nhng
để có những câu nói có màu sắc hài
hớc, dí dỏm nh vậy là kinh nghiệm,
tích luỹ của cả một đời của cha ông, gói
ghém trong đó cái chiều sâu văn hoá
của một dân tộc. Vận dụng một cách
linh hoạt vào tác phẩm của mình,
Nguyễn Khải đã làm cho mỗi lời nói
nh vậy mang cái tạng của nhân vật,
tạo nên đợc cái chất giọng rất riêng
trong tác phẩm của mình.
Đọc Nguyễn Khải, chúng tôi nhận
thấy truyện của ông có một số lợng lớn
những nhân vật là phụ nữ. Mỗi ngời
một số phận nhng dờng nh đều
giống nhau ở một điểm, đó là sự tận
tụy, lòng hi sinh cho chồng con và ngời
thân mà không bao giờ nghĩ đến chuyện
đợc đền đáp lại. Tiêu biểu nh chị
Vách (Đời khổ), ngời vợ (Cặp vợ chồng
ở chân động Từ Thức) ngời mẹ và
ngời bà (Mẹ và bà ngoại), bà Bơ (Nắng
chiều), bà Tuất (Ngời của nghề), bà

Mão (Mẹ và các con) Nếu theo dõi,
chúng ta sẽ rất dễ dàng nhận ra, ngay
trong loại nhân vật này ở truyện ngắn
Nguyễn Khải cũng có một vốn ngôn ngữ
rất riêng, gần với đời sống nhất. Trong
Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức,
ngời vợ của anh thơng binh tên Toàn
nói về nỗi lo canh cánh của mình đối với



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4b-2008


87
chồng con nh sau: Mỗi lần váng mặt,
nhức đầu là em sợ lắm, chỉ lo bệnh nhẹ
hoá bệnh trọng, nửa chừng gãy gánh thì
bố con phải dắt nhau đi ăn mày. Trong
Chuyện tình của mỗi ngời, bà mẹ nói
với ngời con trai khi đau ốm: Chiều
nay mẹ đã húp đợc lng cháo, xem
chừng cái bụng đã êm. Chất dân dã ở
đây đợc tạo nên bằng cái duyên của
thứ ngôn ngữ mộc mạc đợc chng cất
bởi nhiều khó nhọc của cuộc đời ngời
phụ nữ - một thứ ngôn ngữ khi đi vào
tác phẩm Nguyễn Khải đã hàm chứa
trong đó thái độ tin yêu, trân trọng của
ngời cầm bút.

Ngôn ngữ hàng ngày của nhân dân
là vô cùng phong phú. Đó là cả một thế
giới rộng lớn, thâm sâu để cho nhà văn
tự do lựa chọn. Đọc văn Nguyễn Khải,
ta có cảm giác nh ông không phải bỏ
công nhiều để lựa chọn lời nói cho nhân
vật. Mỗi lời nói đều tự nhiên và hóm
hỉnh. Nó đợc phát ra một cách tự
nhiên từ những suy nghĩ thiết thực và
cá tính của từng nhân vật. Truyện
Nắng chiều nói về nhân duyên của một
ngời phụ nữ khi tuổi đã về già, thái độ
của bà Bơ khi đợc hỏi chuyện này đợc
tác giả miêu tả gián tiếp qua lời thoại
của một nhân vật nh sau: Giẫy nẫy
nh đỉa phải vôi. Mặt mũi đỏ nhừ đỏ tử.
Gái cha chồng nói chuyện hôn nhân ai
mà chả thế. Đọc những câu nh vậy
mấy ai không mỉm cời. Tác phẩm của
ông vì thế cũng nh tơi lại, hấp dẫn
hơn rất nhiều. Có thể tìm thấy rất
nhiều câu tơng tự nh vậy trong
truyện ngắn của Nguyễn Khải.
Làm nên giọng điệu dân dã, hóm
hỉnh trong tác phẩm của Nguyễn Khải
không thể không kể đến việc vận dụng
những yếu tố của ngôn ngữ dân gian
nh thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào lời
thoại của nhân vật. Đây cũng là một
nét đặc sắc trong phong cách của nhà

văn Nguyễn Khải. Điều này có lí do của
nó. Con ngời trong sáng tác của
Nguyễn Khải là con ngời đợc ngắm
nhìn từ góc độ nhận thức, t tởng. Để
chuyển tải một vấn đề qua tác phẩm
của mình, Nguyễn Khải đã thực sự chú
ý cái đầu của nhân vật hơn là khắc
hoạ một khuôn mặt. Và để làm đợc
điều đó, không có cách nào hữu hiệu
hơn là chú ý đặc biệt vào lời nói của
nhân vật, để nhân vật đợc tự do phát
ngôn, tranh luận, triết lí, bộc bạch nỗi
lòng, suy nghĩ của mình. Nhân vật
trong sáng tác của ông, ngoài tầng lớp
trí thức nh nhà văn, nhà báo, nhà
giáo, những ngời thuộc dòng dõi danh
gia vọng tộc còn một số lợng lớn
những ngời lao động chân tay thuần
tuý. Họ là những ngời không có điều
kiện học hành tử tế, nhng những gì
mà họ học đợc trong đời sống cũng đủ
giúp họ có một bản lĩnh, một triết lí,
một quan niệm sống cho riêng mình.
Điều đó đã làm cho loại nhân vật này
trong sáng tác của ông có một kiểu ứng
xử hết sức thông minh, dí dỏm thông
qua những phát ngôn của mình, cái
thông minh dí dỏm mang đậm màu sắc
dân gian.
Trong Mùa lạc, một tác phẩm rất

xuất sắc của Nguyễn Khải ở thời kì đầu,
ngời đọc không thể quên một cô Đào
với lối ăn nói đầy cá tính, sắc sảo nhờ có
một cái vốn ngôn ngữ dân gian.
- Trâu qua xá, mạ quá thì, hồng
nhan bỏ bị còn gì là xuân nữa hở các
anh?
- Các anh đã biết đời em rồi đấy.
Mỗi năm một tuổi, cái tuổi nó đuổi xuân



Cao Thị Anh Tú Dân d, hóm hỉnh truyện ngắn Nguyễn Khải, TR. 85-92


88
đi. Nồi nào vung ấy, em đã có bốn cháu
dới xuôi rồi
- Huê thơm bán một đồng muời.
Huê tàn nhị rữa giá đôi lạng vàng. Giá
đôi lạng vàng chứ cha vị tất đã bán
đâu anh Huân ạ.
- Khi buồn non nớc cũng buồn. Khi
vui gánh đá lên nguồn cũng vui
Chính nhờ vào những câu nói giàu
chất liệu dân gian nh vậy mà tính
cách nhân vật đợc bộc lộ một cách rõ
ràng hơn, hình tợng nhân vật trong
tác phẩm vì thế cũng trở nên sống động
hơn. Dờng nh tác giả không phải mất

nhiều thời gian lắm trong khâu trần
thuật để làm rõ tính cách nhân vật.
Trong truyện ngắn Đời khổ, một
truyện ngắn cũng rất tiêu biểu của nhà
văn, việc vận dụng rất nhiều lần thành
ngữ dân gian vào lời nói của nhân vật
cũng làm cho tác phẩm này có một cái
duyên rất riêng. Chị Vách trong truyện
dù tự nhận mình là nông dân ít học,
nhng tự trong mỗi lời nói của chị
chúng ta vẫn thấy vô cùng giàu có cái
vốn của đời sống. Khi nói về bản thân
mình trong mối quan hệ với ông chồng
thiếu tá nhiều chữ nghĩa, chị Vách thổ
lộ:
- Quân tử ẩn hình, tiểu nhân lộ
tớng. Ông ấy vẫn phê bình tôi nói
năng vô chính trị, không đợc nh các
bà cán bộ của tỉnh
- Giàu vì bạn, sang vì vợ, có một bà
vợ nh tôi ông chồng cũng hóa hèn
- Ông ấy học cao lắm chú ạ, một
rơng vàng không bằng một nang chữ.
Một đời chỉ biết đánh giặc và đọc sách
thôi.
- Ngời khôn nhọc lo, ngời dại ăn
no lại nằm. Tôi mới là ngời sớng chú
ạ. Chị Vách nói về chuyện dạy dỗ con ở
thành phố:
- Làm có chúa, múa có trống, một

mình tôi dạy con ở quê thì đợc, chứ
dạy ở tỉnh thì biết dạy những gì.
Nuôi con lớn mà con chẳng nên
ngời, chị bất lực mà than thở:
- Con thẳng da bụng, mẹ chùng da
mắt, nuôi con hai chục năm trời mà con
trả công cha mẹ thế này ?
Những câu nói nh vậy trong tác
phẩm đã làm cho hình tợng nhân vật
sống động hẳn lên. Nó mang cái gu
rất riêng của nhà văn mà nhân vật lại
rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày.
Bởi những con ngời ấy, lời nói ấy ta
vẫn gặp hàng ngày, rất nhiều trong
cuộc sống đời thờng.
Sử dụng ngôn từ chắt lọc từ đời
sống là một trong những sở trờng của
Nguyễn Khải. Đó là thứ ngôn ngữ mà
tự bản thân nó đã mang trong mình nét
dân dã, hóm hỉnh. Đây cũng là một
thành công rất cần đợc ghi nhận ở
Nguyễn Khải.
2. Đối thoại là hình thức không thể
thiếu đợc ở truyện ngắn. Trong đó nhà
văn phải luôn nắm vững đợc những
vấn đề nh quy tắc tơng tác, qui tắc
đối đáp, quy tắc lợt lời Nhng đó mới
chỉ là cái tối thiểu nhất khi xây dựng
đối thoại. Khả năng sáng tạo của tác
giả, phong cách của nhà văn chỉ có thể

đạt đợc khi từ ngữ, cú pháp và đặc biệt
là ngữ điệu mà nhà văn đó sử dụng
mang một dấu ấn riêng, không lặp lại.
Nguyễn Khải là nhà văn đã làm đợc
điều đó khi ông luôn tạo ra đợc trong
tác phẩm của mình những cuộc hội
thoại sinh động và giàu kịch tính,
những cuộc đối thoại nh kéo ngời đọc



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4b-2008


89
lại gần hơn để cùng bàn bạc và trao đổi
bởi sự dân dã và hóm hỉnh trong đó.
Trong truyện ngắn của Nguyễn
Khải, ngời đọc nh nghe thấy những
cuộc tranh cãi, những luồng suy nghĩ,
những luồng t tởng đang có thực ở
ngoài đời[1, tr. 59]. Không khó để nhận
ra rằng nhân vật của Nguyễn Khải dù
là trí thức hay nông dân đều thích đợc
tranh luận và triết lí. Đối thoại trong
tác phẩm Nguyễn Khải có khi đợc thể
hiện một cách trực tiếp nhng có khi lại
đợc thể hiện gián tiếp xen cài vào
trong lời trần thuật. Điều đặc biệt là
những đoạn đối thoại nh vậy trong

sáng tác của ông thờng vẫn rất sinh
động và giàu kịch tính nhng cũng rất
hóm hỉnh, có một cái duyên rất riêng.
Ngay từ tác phẩm đầu tay nh
truyện ngắn Nằm vạ, đặc điểm này
cũng đã đợc hình thành. Nói về cái
truyền thống nằm vạ của một bà già,
nhà văn rất thuận lợi để phát huy tính
hài hớc, hóm hỉnh trong mỗi đoạn
thoại nh vậy. Đây là đoạn hội thoại
của những giáo dân trớc tình trạng
nằm vạ của bà Bột:
- Bà ấy lại ăn vạ bộ đội đấy mà,
chứng nào vẫn tật ấy.
- Ăn vạ bộ đội thì đợc cái gì, chết
cứng đờ kia kìa, không đánh sao chết?
- Đã chết đâu, thở rốc nh con cá
mè kia! Hay:
- Đã chết đâu?
- Cũng sắp chết!
- Tự dạo xa đến giờ đã chết mấy
lần nhng có thấy đa đám lần nào?
Những đoạn đối thoại nh vậy tự nó
đã nói lên đợc chân thực và sinh động
tính cách nhân vật mà không cần phải
dài dòng, lắm lời trong trần thuật. Hình
tợng bà Bột với thói nằm vạ đã hiển
hiện một cách rõ nét trong những mẩu
hội thoại ngắn gọn.
Một đoạn khác trong Nắng chiều,

nói về cảnh lấy chồng của một bà chị họ
đã nhiều tuổi, nhà văn viết:
- Chúng tao định gả chồng cho bà
Bơ, mày thấy thế nào?
Tôi hét lên:
- Sắp xuống lỗ rồi còn đi lấy chồng,
các bà tính toán rõ hay!
Chị Đại vẫn nói dửng dng:
- Chúng mày đều là quân ích kỉ. Chỉ
nghĩ đến mình mà không nghĩ đến
ngời. Mày sợ xấu hổ à?
Còn đây là đoạn văn kể về mối
nhân duyên của một bà cán bộ với một
anh lính, chuyện tình cảm trai gái, vợ
chồng mà cứ nh nghe một cuộc hội
nghị hay một cuộc thẩm tra lí lịch vậy:
Quen nhau ít ngày thì cô ta hỏi thẳng
tôi: Anh có bằng lòng xây dựng gia
đình với tôi không? Tôi nói đùa Cô
muốn làm lẽ à, tôi sẵn sàng. Cô ta nói
không cời: Tôi đã điều tra lí lịch của
anh rất kĩ, trừ phi anh nói dối tổ chức.
Tôi nín lặng. Cô ta lại nói tiếp: Em và
anh đều là cán bộ, là đảng viên, gia
đình thuộc tầng lớp nghèo, có lấy nhau
cũng không ảnh hởng gì đến sự tiến bộ
của mỗi ngời. Đọc những đoạn nh
vậy, ngời đọc không thể không cời bởi
cái hài đợc tạo ra ở những nghịch lí.
Nguyễn Khải không thiên về miêu tả

ngoại hình, chân dung nhân vật nh
một số tác giả khác, ông thờng có sở
trờng trong việc phát hiện đời sống
tâm hồn, t tởng của nhân vật qua các
màn hội thoại đầy sinh động nh vậy.
Đây là đoạn thoại giữa Tuy Kiền và
ngời vợ của ông ta trong tình huống
Kiền mới từ trụ sơ uỷ ban về với bao
bực dọc trong lòng:




Cao Thị Anh Tú Dân d, hóm hỉnh truyện ngắn Nguyễn Khải, TR. 85-92


90
- Thôi, tôi lại dứt khoát rồi đấy!
Vợ hỏi:
- Dứt khoát gì?
- Dứt khoát xin thôi chức phó chủ
nhiệm, xin thôi tất, làm anh viên xã
viên thờng.
Ngời vợ cời:
- Ông nói khẽ chứ, rồi sáng mai ông
có cắp mũ ra trụ sở cũng đỡ xấu hổ với
làng xóm.

- ừ,
cái tính mình nó vốn thều thào,

nhng chết vì cái thều thào ấy mà.
Chỉ một đoạn thoại nh vậy, tính
cách của Tuy Kiền đã ít nhiều đợc bộc
lộ: đó là con ngời nóng nảy, dễ tự ái,
nhiều mu tính nhng cũng rất nhiệt
tình trong công việc.
Có thể khẳng định rằng, đối thoại
trong truyện ngắn Nguyễn Khải diễn ra
hết sức đa dạng và sinh động nh chính
các nhân vật của ông cũng vốn rất đa
dạng vậy. Tạo dựng những cuộc hội
thoại cực kì sinh động, dí dỏm, nhng
không vì thế mà chiều sâu triết lí trong
đó giảm đi, Nguyễn Khải dờng nh đã
làm đợc cái việc mà Pautôpxki gọi là
dòng chảy ngầm trong đối thoại ở
truyện ngắn.
3. Trong tác phẩm của nhà văn
Nguyễn Khải, ngời kể chuyện luôn là
một nhân vật quan trọng của câu
chuyện. Anh ta chứng kiến, chia sẻ,
bình luận về mọi diễn biến và dẫn dắt
cốt truyện [5, tr. 174]. Lời kể chuyện
trong tác phẩm của ông ít khi là lời trần
thuật trung tính. Nhng cũng cần phải
công nhận rằng, dù có vẻ luôn lộ diện
trong tác phẩm thì đó vẫn là một ngời
kể chuyện rất có duyên. Cái duyên đó có
khi lại đơc tạo nên bởi lối nói tự trào,
đùa tếu của chủ thể trần thuật.

Trong tác phẩm Nằm vạ, có đoạn
miêu tả những hoài nghi của những
ngời xung quanh về cái chết của bà
Bột, ông viết: Nhng ai là ngời đã
đánh chết? Tiểu đội trởng bộ đội
chăng? không phải. Anh chỉ cầm tay bà
cụ giữ lại. Vậy ai thụi, ai đá, bắt ngời
đó ra nhận tội và xin lỗi. Nhng làm gì
có ai? Mà cũng không ai trông thấy sự
hành hung đó để làm chứng. Vậy làm
thế nào?
á
n mạng xảy ra giữa ban
ngày, trớc đám đông mà đã rắc rối,
phức tạp không tìm ra đầu mối.
Khi nói cái sự bén duyên của một
ông già, trong truyện ngắn Nắng chiều,
Nguyễn Khải đã nói thật hài hớc,
nhng đằng sau đó vẫn thấp thoáng
niềm vui, sự sẻ chia và thông cảm: Bà
lão nấu ngon quá, nghề riêng mà nên
chỉ mấy ngày sau ông lão lại mò đến xin
ăn một bữa nữa. Rồi ngày nào cũng đến
đòi ăn, ăn bữa tra. Rồi ăn cả bữa tối.
Rồi đòi ngủ lại, vì say quá, vì trời tối
quá, thiếu gì lí do xin nghỉ lại của một
ông già đang ngất ngởng trớc hạnh
phúc mới
Trong truyện ngắn Sống giữa đám
đông, khi nhân vật chính của truyện là

ông Bột - vụ trởng của một bộ quan
trọng, một ngời vừa có tài lại vừa có
tâm, nhng sống giữa đám đông vẫn
không đợc vị nể, nhà văn thắc mắc
Nhiều ngời nói, bớc đờng hoan lộ
của ông nh thế là chậm. Vì ông là
ngời có học từ ngày xa, lại nhạy bén
và chịu khó trong công việc, xử sự với
bạn bè cấp dới chân thật, thân tình.
Vậy mà một đời ông không đợc bạn bè,
cấp dới và cả vợ con nể trọng nh ông
xứng đáng đợc có. Vì sao thế? Chẳng vì
sao cả. Ông chả có khuyết điểm gì cả.
Nếu có thì cũng rất nhỏ nhặt, không



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4b-2008


91
thành d luận bao giờ. Còn u điểm thì
nhiều, ai cũng bảo ông là một ngời có
thể chơi đợc, cộng tác đợc, nhờ cậy
đợc. Mà lại không đợc xung quanh
kính trọng. Lạ lùng nhỉ . Đoạn văn
này có tính chất giống nh một đoạn
đặt vấn đề trong tác phẩm và ngời
đọc cũng không khó khăn lắm khi có
thể tự giải quyết vấn đề của tác phẩm

ở chính những đoạn nh vậy. Trong một
đoạn ngay sau đó, ông viết cũng với cái
giọng điệu nh vậy, đằng sau những lời
lẽ đó là một nụ cời cảm thông Một đời
hình nh ông cha làm ai giận, cha
làm ai bực mình chứ cha nói tới sợ.
Nhng hình nh cái tính hiền lành,
biết điều quá mức của ông cũng khiến
những ngời xung quanh coi thờng
ông thật. Đến vợ con tôi là những ngời
tử tế hẳn hoi mà còn coi thờng ông
huống hồ là ngời khác.
Từ sau những năm 1980, ngời kể
chuyện trong tác phẩm của Nguyễn
Khải thờng xuất hiện ở ngôi thứ nhất
trong vai nhân vật Tôi. Tất nhiên
cũng không nên đồng nhất nhân vật
này với chính nhà văn. Nhng điều
không thể phủ nhận là nhân vật Tôi
trong sáng tác Nguyễn Khải vẫn mang
đậm dấu ấn chủ quan t tởng, tình
cảm, tâm t của tác giả. Vậy nên cái
chất tự trào trong những tác phẩm của
ông ở giai đoạn sau lại đậm nét hơn bao
giờ hết. Trong truyện ngắn Phía khuất
mặt ngời, nói về bạn văn, nói về nghề
mình mà ông cứ tng tửng nh đang
đùa cợt: còn tôi thì thuộc loại đang
hãnh tiến, muốn làm gì cũng đợc, đi ào
ào, viết cũng ào ào. Văn của anh cũng

khác với văn tôi Văn buồn, chữ nghĩa
mệt mỏi nhng đã đọc thì chữ nghĩa
không thể quên đợc, nó dính vào da
thịt mình cho đến tận bây giờ. Trong
suốt cả truyện ngắn nói về mình, về
những ngời đồng nghiệp của mình ở
truyện ngắn này, Nguyễn Khải đều sử
dụng cái giọng điệu tự trào, đùa tếu
nh vậy. ở truyện Ngời ngu, ngay ở
phần mở đầu tác phẩm ta đã bắt gặp
đoạn văn có tính chất tự trào nh vậy:
Cho đến tận bây giờ tôi vẫn còn ấm ức
khi nghĩ đến cách xử sự của mình trong
cái vớ vẩn đã xảy ra là đúng hay không
đúng, là ngời biết điều hay là một kẻ
hết sức ngu. Chắc là ngu thì đúng hơn
vì tôi vốn là ngời nhút nhát, sợ ngời
khác to tiếng vì họ phải chịu thua thiệt,
chịu uất ức . Rất nhiều lần trong tác
phẩm của Nguyễn Khải, chúng ta vẫn
gặp một Tôi tự nhận mình là ngờ
nghệch, ngây ngô, thuộc loại máu
loãng Tất cả đều đợc thể hiện qua
một giọng văn có phần thản nhiên, phớt
tỉnh nhng cũng rất hài hớc và dí
dỏm.
Không thể phủ nhận tính vấn đề
trong sáng tác của nhà văn Nguyễn
Khải. Nhng điều thú vị là để chuyển
tải những vấn đề có tính triết lí cao sâu

và nhân văn về con ngời, Nguyễn Khải
đã tạo cho tác phẩm của mình cái giọng
điệu dân dã, hóm hỉnh rất riêng, đầy
sáng tạo mà cũng đậm chất đời sống.
Qua khảo sát ban đầu, chúng tôi nhận
thấy rằng chất giọng dân dã, hóm hỉnh
trong truyện ngắn của Nguyễn Khải
đợc tạo nên từ việc vận dụng một cách
tự nhiên khẩu ngữ, những yếu tố của
ngôn ngữ dân gian nh thành ngữ, ca
dao vào trong lời thoại, tạo dựng đợc
những cuộc đối thoại sinh động, giàu
kịch tính và đặc biệt là tác giả đã sử
dụng môt lối nói tự trào, đùa tếu của
chủ thể trần thuật. Chính vì vậy mà



Cao Thị Anh Tú Dân d, hóm hỉnh truyện ngắn Nguyễn Khải, TR. 85-92


92
câu chuyện ông đem đến cho ngời đọc
chân thực, tơi mới mà cũng thật dung
dị và thoải mái. Đây cũng là yếu tố góp
phần làm cho sáng tác của Nguyễn
Khải trở nên dân chủ hơn trong mối
quan hệ với bạn đọc.



Tài liệu tham khảo

[1] Lại Nguyên Ân, Sống với văn học cùng thời, NXB Văn học, 1998.
[2] Lê Bá Hán (chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
1997.
[3] Nhiều tác giả, Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2004.
[4] Nguyễn Khải, Tuyển tập truyện ngắn, NXB Hội nhà văn, Hà Nôị, 2002.
[5] Tuyết Nga, Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2004.


Sumary

Popularity, humorous an outstanding tongue aspect in
short stories of Nguyen Khai

In this article, we learn about the elements that made up a popularity and
humorous writing style of Nguyen Khai. This writing style itself made up works
which are considored as problem, ideality of the writer become realer, fresher and
easier. It is a writing style that initially made short stories of the writer become
more democratic in a connection with readers. This is one of aspects that created a
style in short stories of Nguyen Khai.


(a)
Cao học 14, chuyên ngành văn học việt nam, trờng đại học vinh.

×