MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Mơtíp là đơn vị cơ bản cấu tạo cốt truyện của truyện cổ tích.
Nghiên cứu mơtíp là tìm hiểu truyện cổ tích từ góc độ hình thái học, một
phương diện nghiên cứu quan trọng trong thi pháp học. Trong truyện cổ tích,
mơtíp xuất hiện rất phong phú trở thành một đặc trưng cấu trúc thể loại:
mơtíp sinh nở thần kì, mơtíp người lấy tiên, mơtíp dũng sĩ diệt đại bàng,
mơtíp sự bắt chước khơng thành cơng…Mơtíp hóa thân là một mơtíp độc
đáo, gắn liền với yếu tố thần kì. Đây là một yếu tố khơng thể thiếu trong
truyện cổ tích, ẩn chứa nhiều tầng văn hóa và quan niệm nhân sinh của
người Việt. Vì thế nghiên cứu mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích của người
Việt khơng chỉ có ý nghĩa soi sáng móc xích kết cấu truyện cổ tích mà cịn
làm rõ, lý giải những quan niệm văn hóa và triết lý nhân sinh được thể hiện
trong truyện cổ tích của người Việt.
1.2. Sự lặp lại của mơtíp hóa thân ở nhiều truyện cổ tích của người
Việt là một tín hiệu nghệ thuật đáng được chú ý, trong đó một số truyện
được đưa vào chương trình ngữ văn ở trường phổ thơng. Nghiên cứu mơtíp
hóa thân vừa có ý nghĩa làm rõ đặc trưng thể loại truyện cổ tích, vừa có ý
nghĩa thực tiễn góp phần tích cực vào việc giảng dạy tác phẩm văn học dân
gian ở trường phổ thơng.
1.3. Mơtíp hoá thân là một đề tài mới, trước nay chưa có cơng trình
nào đề cập tới. Do đó nghiên cứu đề tài này chúng tơi hi vọng đóng góp
được một phần nào đó trong việc tìm hiểu mơtíp truyện cổ tích nói riêng,
trong khoa học folklore nói chung.
1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích của người Việt nhằm
làm rõ sự hiện diện của một mơtíp độc đáo, vai trị chức năng của mơtíp
trong việc cấu tạo cốt truyện và thể hiện chủ đề của một nhóm truyện cổ
tích, đồng thời lý giải sự hình thành mơtíp từ góc độ văn hóa, tín ngưỡng.Để
giải quyết mục tiêu đó chúng tôi đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
2.1. Khảo sát, thống kê, phân loại để mô tả sự hiện diện cụ thể của
mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích của người Việt.
2.2. Mơ tả kết cấu mơtíp hóa thân và một số chức năng mà mơtíp này
đảm nhận trong việc cấu tạo cốt truyện và thể hiện chủ đề của truyện cổ tích.
2.3. Tìm hiểu một số cơ sở hình thành của mơtíp từ góc độ văn hóa, tứ
đó thấy được lớp văn hóa - lịch sử, quan niệm của nhân dân được hội tụ ở
mơtíp và ảnh hưởng của tơn giáo tín ngưỡng, phong tục…lên sự hình thành
của mơtíp trong truyện cổ tích.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích của người Việt.
Sự biến hóa hay hóa thân xuất hiện khá phổ biến trong thần thoại và truyện
cổ tích. Trong giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ chọn đối tượng nghiên cứu
là mơtíp hóa thân xuất hiện tập trung ở cuối truyện, gắn với cách kết thúc
truyện nhằm giải quyết số phận của nhân vật trong truyện cổ tích người Việt.
Về khái niệm và giới hạn của mơtíp này chúng tơi sẽ trình bày cụ thể hơn ở
phần nội dung.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chỉ khảo sát và nghiên cứu mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích của
người Việt. Tư liệu chúng tơi dung để khảo sát là cuốn Tổng tập văn học dân
2
gian người Việt [10,11], gồm 2 tập, trong cả 3 tiểu loại: truyện cổ tích thần
kì, truyện cổ tích sinh hoạt, truyện cổ tích lồi vật.
4. Lịch sử vấn đề
4.1. Lịch sử nghiên cứu mơtíp nói chung
Mơtíp là thuật ngữ vay mượn tiếng Pháp (motif), thuật ngữ này đã
được nhiều nhà khoa học, nhiều đề tài nghiên cứu trong và ngồi nước đề
cập đến. Ở đây, chúng tơi chỉ điểm qua một số cơng trình tiêu biểu.
4.1.1. Lịch sử nghiên cứu mơtíp ở nước ngồi
Ở nước ngồi người đầu tiên đưa ra khái niệm motif là nhà Folklore
học người Nga ở thế kỷ XIX A.N Vexelopxki trong công trinh Thi pháp học
sử. Năm 1910, A. Aarnes và năm 1949 S. Thompson đã làm từ điển về típ và
mơtíp.
V. Ia. Propp trong cuốn Những gốc rễ lịch sử của truyện cổ tích thần
kì, bằng những tri thức văn hóa học, dân tộc học ơng đã lí giải sâu về những
mơtíp (tức là các chức năng) của truyện cổ tích thần kì.
4.1.2. Lịch sử nghiên cứu mơtíp ở Việt Nam
Lê Bá Hán trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, đã đưa ra một cách
khái qt về khái niệm mơtíp.
Trần Đình Sử trong cuốn Dẫn luận thi pháp học, cũng đã giới thiệu về
mơtíp và đưa ra khái niệm về mơtíp.
Nguyễn Tấn Đắc trong cuốn Truyện kể dân gian đọc bằng type và
motif đã khái quát bảng mục lục tra cứu tupe và motif của A.Aarnes và
S.Thompson.
Nguyễn Bích Hà khi trong cuốn Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ
trong truyện cổ tích Việt Nam và Đơng Nam Á cũng đã nói đến khái niệm
mơtíp và đưa ra nhiều mơtíp trong truyện cổ tích Thạch Sanh.
3
4.2. Lịch sử nghiên cứu mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích của
người Việt.
Khi phân tích một số truyện cổ tích người Việt có xuất hiện sự hố
thân như truyện trầu cau, Sự tích ơng Táo, Sự tích đá Vọng phu, một số tác
giả như Hồng Tiến Tựu, Lê Chí Quế, Chu Xuân Diên [21,24] đã nêu lên ý
nghĩa của chi tiết hoá thân trong việc phản ánh bi kịch của con người, đi
kèm với nó là chức năng giải thích phong tục. Tuy nhiên các tác giả này chỉ
dừng lại ở việc phân tích tác phẩm cụ thể chứ chưa nêu lên sự xuất hiện của
mơtíp hố thân ở nhiều truyện khác nhau cũng như nghiên cứu một cách hệ
thống mơtíp này. Dù vậy, sự phân tích của các tác giả đã khẳng định sự tồn
tại và ý nghĩa của mơtíp hố thân và gợi mở cho chúng tơi mạnh dạn nghiên
cứu mơtíp này.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1.Phương pháp thống kê
Đây là phương pháp thường được dùng khi nghiên cứu những vấn đề
thuộc thi pháp bởi phương pháp này giúp người nghiên cứu có thể đưa ra
những số liệu khách quan, tránh được sự cảm nhận chủ quan. Ở đề tài này
chúng tôi khảo sát thống kê các truyện có mơtíp hóa thân trong truyện cổ
tích của người Việt.
5.2.Phương pháp phân tích, tổng hợp
Từ việc phân tích các tác phẩm cụ thể để rút ra những kết luận cho
từng vấn đề cụ thể hay vấn đề chung cho cả đề tài nghiên cứu.
5.3. Phương pháp so sánh liên ngành
Đây là phương pháp vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực vào nghiên
cứu. Cụ thể ở đây chúng tôi đã dùng kiến thức của văn hóa học, dân tộc học
để soi sáng vấn đề cần nghiên cứu.
4
6. Cấu trúc của tiểu luận
Phù hợp với lôgic khoa học của vấn đề nghiên cứu, ngoài phần Mở
đầu và Kết luận, nội dung chính của tiểu luận được triển khai trong 3
chương:
Chương 1: Thống kê, phân loại mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích
của người Việt.
Chương 2: Chức năng của mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích của
người Việt.
Chương 3: Một số cơ sở hình thành mơtíp hóa thân trong truyện cổ
tích của người Việt.
5
CHƯƠNG I
THỐNG KẾ, PHÂN LOẠI MƠTÍP HỐ THÂN TRONG TRUYỆN
CỔ TÍCH CỦA NGƯỜI VIỆT
1.1. Khái niệm mơtíp và mơtíp hố thân trong truyện cổ tích của người Việt
1.1.1. Khái niệm mơtíp
Mơtíp là thuật ngữ vay mượn tiếng Pháp (motif), thuật ngữ này đã
được nhiều nhà khoa học, nhiều đề tài nghiên cứu trong và ngoài nước đề
cập đến. Theo định nghĩa trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, mơtíp “từ
Hán Việt là mẫu đề (Do người Trung Quốc phiên âm chữ motif của tiếng
Pháp) có thể chuyển thành các từ khuôn, dạng hoặc kiểu trong tiếng Việt,
nhằm chỉ những nhân tố, những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình thành
ổn định, bền vững và được sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ
thuật, nhất là trong văn học nghệ thuật dân gian”[14,tr.197]. Như vậy có thể
hiểu mơtíp là đơn vị tham gia cấu tạo cốt truyện được hình thành ổn định
bền vững, được sử dụng phổ biến và lặp đi lặp lại trong các sáng tác văn
học, nhất là trong văn học nghệ thuật dân gian nhằm thể hiện một tư tưởng
một quan niệm nào đó của tác giả.
Trong loại hình tự sự dân gian, mơtíp là đơn vị tham gia cấu tạo cốt
truyện, được hình thành ổn định bền vững, được sử dụng lặp đi lặp lại trong
nhiều tác phẩm như một tín hiệu nghệ thuật nhằm thể hiện một tư tưởng,
một quan niệm nào đó của tác giả. Mơtíp có tính bền vững, tính lặp lại, tính
quan niệm.
1.1.2. Mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích người Việt
Mơtíp hóa thân là một loại mơtíp đặc sắc trong truyện cổ tích của
người Việt. Theo từ nguyên, hóa nghĩa là “thay đổi thành cái khác”, hóa
thân là “biến hóa thành người hay thành vật khác” [19, tr.817,819]. Như
vậy, mơtíp hóa thân là mơtíp trong đó nhân vật biến hóa thành dạng khác
(người khác, thần linh, các lồi vật…).
6
Nhân vật trong thần thoại có khả năng biến hóa từ dạng này sang dạng
khác: thần biến thành người trần, thành con vật, cây cối… và từ các dạng đó
lại biến hóa trở lại thành thần. Sự biến hóa trong thần thoại thể hiện năng lực
siêu tự nhiên, kết quả của tư duy thần linh chủ nghĩa, cụ thể là niềm tin vào
mối quan hệ qua lại giữa con người với thần linh, vạn vật. Tuy nhiên sự biến
hóa trong thần thoại khác sự biến hóa trong truyện cổ tích. Trong truyện cổ
tích, sự hóa thân của nhân vật từ người sang các dạng khác không bắt nguồn
từ năng lực tự thân của nhân vật mà là kết quả nhân vật nhận lấy từ một tác
nhân bên ngồi. Sự hóa thân này là một dạng, một hình thức cụ thể của yếu
tố kì ảo trong truyện cổ tích.
Trong truyện cổ tích của người Việt, sự hóa thân của nhân vật thường
xuất hiện ở cuối truyện, gắn với cách giải thích về kết cục số phận của nhân
vật. Kết thúc truyện, nhân vật bị biến thành các dạng khác như cây cối, con
vật, vật thể, thần linh. Sự hóa thân này là kết quả của những chuỗi hành
động của nhân vật trước đó hay bi kịch cuộc đời của nhân vật. Nhân vật hóa
thân đồng thời kết thúc số phận của mình, khơng có sự biến hóa ngược lại.
Chẳng hạn, trong truyện Sự tích con khỉ, vợ chồng lão nhà giàu bị thần trừng
phạt biến thành con khỉ, hay truyện Sự tích Đá vọng phu kết thúc bằng việc
người vợ đứng ngóng trơng chồng đến hóa đá. Trong giới hạn của đề tài,
chúng tơi chỉ nghiên cứu mơtíp hóa thân xuất hiện ở cuối truyện, gắn với
cách lí giải kết cục số phận nhân vật nói trên.
Trong truyện cổ tích, sự hóa thân của nhân vật cịn có thể xuất hiện ở
đầu hoặc giữa truyện. Trong truyện Tấm Cám, Tấm trải qua nhiều lần biến
hóa: Tấm hóa thành con chim vàng anh, cây xoan, khung cửi, quả thị. Trong
truyện cổ tích của nước Nga và phương Tây, hoàng tử bị mụ dì ghẻ biến
thành cóc, thành chim Thiên Nga…(Hồng tử cóc, Bầy chim Nhiên Nga).
Những mơtíp này thuộc chức năng sự gây hại của nhân vật ác đối với nhân
vật chính trong truyện cổ tích thần kì, xuất hiện trong q trình phiêu lưu
của nhân vật chính trải qua nhiều thử thách, trước khi đi đến kết thúc có hậu
thường là nhân vật chính thốt khỏi sự phù phép trở lại đúng nguyên hình và
địa vị của mình. Như vậy, sự hóa thân ở đây khơng phải là kết quả về số
7
phận của nhân vật. Sự hóa thân này khơng thuộc phạm vi mơtíp hóa thân mà
chúng tơi nghiên cứu.
1.2. Thống kê mơtíp hố thân trong truyện cổ tích của người Việt
Sau khi khảo sát truyện cổ tích của người Việt được sưu tầm, biên
soạn trong cuốn Tổng tập văn học dân gian người Việt, tâp 6, 7 [7,8], chúng
tôi thống kê được 37 truyện xuất hiện mơtíp hóa thân, ở cả 3 tiểu loại: truyện
cổ tích thần kì (24/37 truyện), truyện cổ tích sinh hoạt (9/37 truyện), truyện
cổ tích lồi vật (3/37 truyện). Như vậy, mơtíp hóa thân xuất hiện nhiều trong
truyện cổ tích thần kì và trong truyện cổ tích sinh hoạt. Nhưng ở truyện cổ
tích thần kì có xuất hiện mơtíp hóa thân, yếu tố kì ảo đã giảm, chỉ tập trung ở
cuối truyện, đa số khơng cịn kết thúc có hậu. Những truyện này đã có xu
hướng chuyển sang cổ tích sinh hoạt. Trong đó, có nhiều truyện, mơtíp hóa
thân xuất hiện đối với hơn một nhân vật ( 2 hoặc 3 nhân vật).
Mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích của người Việt phong phú về các
dạng hóa thân như hóa thành cây cối, thành con vật, đồ vật, vật thể, thần
linh…, đa dạng về chức năng của mơtíp như: chức năng giải thích nguồn
gốc, đặc điểm con vật, lồi vật, chức năng giải thích địa danh, chức năng
giải thích phong tục, chức năng trừng phạt, chức năng hóa giải bi kịch.
Mơtíp hóa thân có thể xuất hiện nhân vật thực hiện sự biến hoá (Bụt,
Đức Phật, Phật Bà, Ngọc Hồng, Vị Tiên…) hoặc khơng.
Sự đa dạng về hình thức biểu hiện cụ thể trong từng truyện của mơtíp
hóa thân cho thấy sự quan sát, trí tưởng tượng phong phú của tác giả dân
gian, làm cho mơtíp này vừa có yếu tố bất biến, ổn định, vừa có yếu tố khả
biến, linh hoạt. Vì thế, việc khảo sát và nghiên cứu đề tài này càng lí thú và
hấp dẫn.
1.3. Phân loại mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích của người Việt
Sau khi khảo sát, thống kê mơtíp hố thân trong truyện cổ tích của
người Việt, chúng tơi thấy mơtíp hóa thân tồn tại ở 4 dạng như sau:
8
1.3.1. Dạng mơtíp người hố thân thành con vật
Trong truyện cổ tích người Việt xuất hiện 22/37 truyện có mơtíp hóa
thân dạng nhân vật hố thân thành con vật, nhằm giải thích nguồn gốc hay
đặc điểm của con vật đồng thời gửi gắm quan niệm của tác giả dân gian.
1.3.2. Dạng mơtíp người hóa thân thành cây cối, đồ vật, vật thể
Trong truyện cổ tích của người Việt xuất hiện 9/37 truyện có mơtíp
hóa thân dạng nhân vật hố thân thành cây cối, đồ vật, vật thể cũng nhằm
giải thích nguồn gốc hay đặc điểm của cây cối, đồ vật, vật thể đồng thời gửi
gắm quan niệm của tác giả dân gian.
1.3.3. Dạng mơtíp người hóa thân thành đá
Trong truyện cổ tích của người Việt xuất hiện 9/37 truyện có mơtíp
hóa thân dạng nhân vật hố thân thành đá nhằm giải thích địa danh, đồng
thời thể hiện triết lí nhân văn cao cả của tác giả dân gian.
1.3.4. Dạng mơtíp người hố thân thành thần
Trong truyện cổ tích của người Việt xuất hiện 1/37 truyện có dạng
mơtíp người hố thân thành thần.
Như vậy, qua bảng phân loại trên, ta thấy các dạng mơtíp hóa thân rất
phong phú và đa dạng.
9
CHƯƠNG II
CHỨC NĂNG CỦA MƠTÍP HỐ THÂN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH
CỦA NGƯỜI VIỆT
1.1. Chức năng giải thích
Từ sự quan sát tinh tế và nhu cầu nhận thức nguồn gốc, đặc điểm các
con vật, loài vật, các vật thể, các hiện tượng tồn tại xung quanh, tác giả dân
gian đã sáng tạo ra những câu truyện cổ tích trong đó mượn mơtíp hóa thân
để lí giải sự ra đời cũng như đặc điểm của các con vật, loại vật, các hiện
tượng tự nhiên và xã hội đó. Trong 37 truyện có mơtíp hóa thân thì có đến
36 truyện có chức năng này.
1.1.1. Giải thích nguồn gốc, đặc điểm của các con vật, loài vật, vật
thể trong tự nhiên và trong đời sống con người
Các con vật, loài vật, vật thể được lựa chọn để nhận thức, lí giải hết
sức phong phú, từ những con vật gần gũi với cuộc sống của con người như
con trâu (Sự tích con trâu), con muỗi (Sự tích con muỗi), con khỉ (Sự tích
con khỉ), con thiêu thân (Sự tích con thiêu thân), cái chổi (Sự tích cái chổi),
cái bình vơi (Sư ơng hố thành bình vơi), cây vú sữa (Sự tích cây Vú Sữa),
bơng sen (Sự tích bơng sen)…đến những sự vật, hiện tượng trong tự nhiên
như sao hôm, sao mai, con dã tràng, các lồi chim mng (Sư tích chim
Chìa Vơi, Sự tích con chim Phướng, Năm Trâu Sáu Cột, Sự tích chim Hít cơ,
Sự tích chim Gọi Vịt, Chim Đa Đa...). Điểm chung của các truyện này là
đều dựa vào yếu tố kì ảo, sự hóa thân của nhân vật để giải thích sự ra đời của
các sự vật, hiện tượng. Vì thế, cách lí giải của dân gian hết sức hấp dẫn, lơi
cuốn.
Chức năng giải thích nguồn gốc của các sự vật, hiện tượng cũng
thường xuất hiện trong thần thoại. Nhưng cách giải thích của thần thoại khác
với truyện cổ tích. Nếu như sự lí giải hoang đường trong thần thoại xuất
phát từ nhận thức ấu trĩ và niềm tin ngây thơ vào thế giới siêu nhiên thần
10
thánh thì sự hóa thân thành các con vật, lồi vật trong truyện cổ tích là yếu tố
hư cấu nghệ thuật có chủ tâm. Mặt khác, trong truyện cổ tích, chức năng giải
thích bao giờ cũng gắn liền với một câu chuyện xã hội, về thế sự và nhân
sinh. Như Đinh Gia Khánh nhận xét: “Nếu hai cách giải thích đều chất
phác, thơ ngây, đều thể hiện óc tưởng tượng phong phú kết hợp với nhận xét
tinh vi các sự vật trong tự nhiên, thì thái độ của truyện cổ tích đối với sự
giải thích đó khác thái độ của thần thoại. Truyện cổ tích khơng hề có tham
vọng cho rằng sự giải thích đó là chân lí. Hơn nữa truyện cổ tích thường
mượn cách giải thích đó để nêu bật lên một vấn đề xã hội”[12,tr. 300].
1.1.2 Giải thích địa danh
Trên đất nước ta ở bất kỳ vùng nào cũng có những địa điểm, những
ngọn núi, con sơng.... đã từ lâu trở thành đối tượng giải thích của truyện cổ
tích. Trong truyện cổ tích của người Việt, có nhiều truyện xuất hiện mơtíp
con người hố thân thành các địa danh như: Hịn Trống Mái, Nàng Tơ Thị,
Sự tích đá Vọng Phu, Sự tích núi Vàng, Sự tích đá Bà Rầu, Sự tích núi Mẫu
Tử. Nhân dân lao động đã dựa trên những đặc điểm, những hình dáng của
các địa danh đó để sáng tạo ra những câu chuyện vừa lí giải sự ra đời của địa
danh, vừa mang triết lý nhân sinh sâu sắc.
Chẳng hạn, dựa vào hình dáng của đá Vọng Phu giống hình ảnh của
người phụ nữ bồng con đứng trên núi người ta đã sáng tác ra truyện Nàng
Tơ Thị, Sự tích đá Vọng Phu nhằm giải thích sự ra đời của các địa danh như
đá Vọng Phu ở cửa biển Đề Di, thuộc huyện Phú Cát tỉnh Bình Định (Sự
tích đá Vọng Phu), hay là đá Trông Chồng ở trên chùa Tam Thanh Lạng Sơn
(Nàng Tơ Thị)... Cũng như vậy, khi thấy hình dáng của hai hịn đá giống
hình hai con chim chụm đầu vào nhau người ta sáng tạo câu chuyện Hòn
Trống Mái giải thích cho sự ra đời của địa danh này ở biển Sầm Sơn (Thanh
Hoá). Hay dựa vào đặc điểm của những ngọn núi vào buổi tối được phủ bởi
ánh sao lấp lánh nhân dân đã sáng tạo câu chuyện Sự tích núi Vàng giải thích
sự ra đời của dãy núi Vàng dưới dải Tam Điệp, dựa vào hình dáng của hịn
đá giống hình ảnh người phụ nữ mắt hướng ra biển trong sự chờ đợi để giải
thích cho địa danh đá Bà Rầu ở Quảng Nam (Sự tích đá Bà Rầu).
11
1.1.3. Giải thích phong tục
Mơtíp hóa thân trong truỵên cổ tích của người Việt khơng chỉ giải
thích các hiện tượng tự nhiên mà cịn giải thích về nguồn gốc ra đời của các
phong tục dân gian như Tục ăn trầu, tục cúng ông Táo, tục kiêng quét rác
ngày tết...Trong các câu truyện Truyện trầu cau, để giải thích phong tục ăn
trầu là sự kết hợp của ba thứ trầu, cau, vôi tạo thành một thứ thơm cay nồng
màu đỏ thắm, truyện cổ tích đã sáng tạo ra câu chuyện hóa thân của hai anh
em, vợ chồng cũng chết bên nhau để tình nghĩa của họ hịa quyện trong
miếng trầu. Câu chuyện của họ vừa lí giải phong tục, vừa tơ đậm ý nghĩa
nhân văn sâu sắc cho phong tục. Tục ăn trầu và miếng trầu trở thành biểu
tượng cho tình nghĩa, tình u thắm thiết trong văn hóa Việt. Sự gặp gỡ giữa
truyện cổ tích và phong tục chính là sự đề cao tình nghĩa thủy chung giữa
con người với nhau trong quan niệm nhân sinh của người Việt. Trong truyện
Sự tích Ơng Táo cũng vậy, cái chết trong đám lửa vì tình nghĩa vợ chồng đã
hóa thân ba nhân vật thành ba vị thần- bộ ba vua bếp trong tín ngưỡng thờ
Táo Quân của người Việt. Dù bằng sự hư cấu nghệ thuật, nhưng truyện cổ
tích đã lí giải đặc điểm của phong tục và qua việc gắn với phong tục, tác giả
dân gian đã gửi gắm quan niệm nhân sinh về con người và xã hội qua câu
chuyện thấm đẫm tình người.
Để nối một câu chuyện xã hội với chức năng giải thích nguồn gốc, đặc
điểm của các con vật, vật thể, địa danh, phong tục trong cùng một truyện kể,
truyện cổ tích bao giờ cũng tạo ra và dựa vào một mối liên hệ giữa nhân vật,
câu chuyện với đặc điểm của các con vật, loài vật, địa danh, phong tục.
Chẳng hạn, trong truyện Sự tích chim Hít cơ, dựa vào mối liên hệ giữa tiếng
kêu của con chim với câu chuyện hiện thực chua xót về cuộc sống của người
dân lao động nghèo đói, tác giả dân gian đã giải thích nguồn gốc của chim
Hít cơ là hóa thân của đứa trẻ chết đói vì người cơ đã hít mất bát cháo cuối
cùng của nó. Hay những truyện như Sự tích chim Gọi Vịt, Sự tích chim
Phướng, Sự tích chim Chìa Vơi…đều dựa vào tiếng kêu của các loài chim để
12
giải thích sự ra đời của chúng. Ở truyện Sự tích cây Vú Sữa là mối liên hệ
giữa đặc điểm của quả Vú Sữa có nước màu trắng đục và ngọt như dịng sữa
mẹ với câu chuyện về sự hóa thân của người mẹ hết lịng vì con. Ở đây, tác
giả dân gian đã hình tượng hóa cây Vú Sữa thành hình ảnh người mẹ thương
con, hi sinh cả cuộc đời vì con. Hay ở những truyện như Đá Vọng Phu,
Nàng Tơ Thị là mối liên hệ giữa hình thù, hình dáng của hiện tượng tự nhiên
với câu chuyện nhân sinh về con người: người vợ thủy chung ngóng trơng
chồng đến hóa đá. Cũng như vậy, ở Truyện trầu cau để giải thích phong tục
ăn trầu của người Việt, nhân dân ta đã sáng tạo câu chuyện về tình nghĩa vợ
chồng, anh em gắn bó như sự hồ quyện giữa trầu, cau, vôi thành một thứ
màu đỏ thắm.
Dựa vào mối liên hệ về hình thức này, tác giả dân gian đã sáng tạo ra
những câu truyện cổ tích giải thích nguồn gốc, đặc điểm các con vật, đồ vật,
vật thể, cây cối, địa danh, phong tục mà nhờ đó sự giải thích này tỏ ra hợp lí
và thuyết phục người nghe như một câu chuyện có thật. Mặt khác, dân gian
đã khốc lên các sự vật, hiện tượng vơ tri vô giác một lớp áo mang màu sắc
xã hội và triết lí nhân sinh, những bài học giàu ý nghĩa nhân văn về nhân
tình thế thái. Từ những câu chuyện cổ tích với mơtíp hóa thân, những dáng
núi, những sự vật cũng dường như có linh hồn và thay lời con người kể
chuyện cổ tích.
Chức năng giải thích trong truyện cổ tích được xem là chức năng “phi
cốt truyện”, nghĩa là nằm ngồi cốt truyện chính mang chức năng chính là
chức năng xã hội. Chức năng này thường đi kèm với các chức năng chính
như chức năng trừng phạt, chức năng hố giải bi kịch... Tuy nhiên, chức
năng giải thích khiến truyện cổ tích trở nên hấp dẫn, gần gủi với cuộc sống
đời thường xung quanh và thể hiện óc quan sát tinh tế của nhân dân.
1.2. Chức năng trừng phạt
Trong truyện cổ tích, chức năng trừng phạt rất phổ biến, trong đó nhân
vật thuộc tuyến ác phải chịu một hình thức trừng phạt nào đó xứng đáng với
những hành động xấu xa mà nhân vật gây nên. Chức năng trừng phạt thể
hiện quan niệm “ác giả ác báo”, “gieo nhân nào gặp quả nấy” một cách rạch
13
rịi của nhân dân. Trong nhóm truyện có mơtíp hóa thân, chức năng trừng
phạt xuất hiện ở 17/37 truyện như Sự tích con bọ hung, Sự tích con muỗi, Sư
ơng hóa thành con ếch, Sư tích trái thơm, Nghè hóa cọp…Ở những truyện
này, nhân vật chính là nhân vật thuộc tuyến ác, có hành động gây hại đối với
nhân vật khác hoặc có phẩm chất xấu xa, tham lam, dối trá hoặc phạm một
lỗi lầm nào đó. Thường gặp nhất vẫn là sự trừng phạt thói xấu về nhân cách
như sự tham lam, độc ác ( Nghè hóa cọp, Sự tích con khỉ…), sự dối trá, lừa
lọc, bạc tình bạc nghĩa (Sự tích con muỗi, Sự ơng hóa thành bình vơi, Sự tích
con thiêu thân, Người đàn bà hóa thành con muỗi…). Điều này cho thấy sự
chú trọng đến phẩm chất đạo đức của con người trong cách ứng xử của
người Việt.
Trong truyện cổ tích của người Việt, hình thức trừng phạt được thể
hiện rất phong phú, nhưng phổ biến nhất vẫn là cái chết của nhân vật bị
trừng phạt, như truyện Tấm Cám, Thạch Sanh, Cây khế, Hà Rầm Hà Rạc…
Có lẽ trong quan niệm của nhân dân, cái chết là sự trừng trị đích đáng bởi vì
khơng có gì quý hơn sự sống của con người (nhân dân ta có câu: người sống
của cịn, người chết của chết). Trong nhóm truyện có xuất hiện mơtíp hóa
thân mà chúng tôi nghiên cứu, nhân vật bị trừng phạt không chỉ bằng cái
chết mà sau khi chết cịn bị hóa kiếp thành các con vật, đồ vật. Những con
vật, đồ vật – đối tượng mà nhân vật hóa thân thành ở đây thường là những
con vật dữ dằn, vô giá trị, có đời sống chui rúc, bẩn thỉu như con hổ (Nghè
hóa cọp), con muỗi chun hút máu người (Sự tích con muỗi), con bọ hung
chui ở đống phân ( Sự tích con bọ hung)…hoặc những đồ vật như cái chổi
dùng để qt rác rưởi (Sự tích cái chổi), bình vơi bị người đời móc ruột (Sư
ơng hóa thành bình vơi)…Chúng đều tương xứng với tội lỗi hay phẩm chất
xấu xa của kẻ bị trừng phạt. Hình thức trừng phạt bằng sự hóa thân này xuất
phát từ quan niệm “kiếp sau” của người Việt. Người Việt thường quan niệm,
nếu kiếp này con người sống lương thiện, làm nhiều điều tốt thì sau khi chết
sẽ được hóa kiếp lại thành người, sẽ được hưởng hạnh phúc, sung sướng.
Còn nếu gây nhiều tội ác thì kiếp sau sẽ bị đẩy xuống địa ngục, hoặc bị hóa
14
kiếp làm loài cầm thú. Như vậy, sự trừng phạt bằng hình thức hóa thân nói
trên cịn ghê sợ hơn cả cái chết.
Qua chức năng trừng phạt bằng hình thức hóa thân, nhân dân ngồi
mục đích thể hiện triết lí “ác giả ác báo” còn răn đe con người phải từ bỏ
thói xấu, biết sống lương thiện và nhân nghĩa. Những nhân vật thực hiện sự
trừng phạt đối với nhân vật bị trừng phạt như Đức Phật (Người đàn bà hóa
thành con muỗi, Sao hơm và sao mai, Sư ơng hóa thành bình vơi…), Ngọc
Hồng (Sự tích con bọ hung, Sự tích trâu, Sự tích cái chổi…)… thực ra là
đại diện cho công lý và khát vọng của nhân dân. Như vậy chức năng trừng
phạt của mơtíp hóa thân cũng là một khía cạnh trong cuộc đấu tranh giữa cái
thiện và cái ác mà truyện cổ tích hướng đến. Như nhận xét của Nguyễn
Xuân Đức: “Xét về chức năng cổ tích nhằm nhận thức và phản ánh mối
quan hệ giữa con người với con người trong xã hội xoay quanh cuộc đấu
tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu”.[6, tr.58]
1.3. Chức năng phản ánh và hóa giải bi kịch
Khơng phải bất kì câu truyện cổ tích nào cũng kết thúc có hậu, nhân
vật thiện ln được sống hạnh phúc, sung sướng mà có những câu truyện kết
thúc bằng những bi kịch đau lịng của cuộc đời nhân vật. Mơtíp hóa thân ra
đời cũng nhằm phản ánh và hóa giải bi kịch đó. Trong nhóm truyện cổ tích
có mơtíp hóa thân xuất hiện đến 16/37 truyện kết thúc bi kịch như: Chim Đa
Đa, Năm Trâu Sáu Cột, Đơi Sam, Sự tích chim Chìa Vơi, Sự tích chim Hít
Cơ, Nàng Tơ Thị, Sự tích đá Vọng Phu, Truyện trầu cau, Sự tích đá Bà
Rầu…Sự hóa thân ở đây chủ yếu các dạng như hóa đá, hóa cây, hóa thành
con vật, thần linh đặc biệt là hóa đá.
Các nhân vật trong truyện thường rơi vào một bi kịch cụ thể nào đó
dẫn đến hóa thân. Chẳng hạn, đứa trẻ bị bố dượng bỏ vào rừng cho đến khi
chết đói và hóa thành con chim Đa Đa với tiếng kêu ai ốn xót xa trong
truyện Chim Đa Đa. Hay trong truyện Sự tích chim Hít cơ, đứa cháu bị cơ ăn
hết cháo phải chịu chết đói và hóa thành con chim Hít cơ.
Bi kịch như càng được khắc sâu hơn ở những truyện kết thúc bằng sự
hóa đá của nhân vật. Truyện Nàng Tơ Thị, Sự tích đá Vọng Phu…đều xuất
15
phát từ câu chuyện bi kịch về anh em ruột thịt lấy nhầm nhau, sau khi biết
chuyện người chồng bỏ đi cịn người vợ mịn mỏi ngóng trơng chồng cho
đến khi hóa đá. Hình ảnh người phụ nữ bồng con hóa đá đứng trơ trọi giữa
trời đất qua bao ngày tháng như khắc sâu vào lòng người một nỗi đau đớn,
xót xa. Sự hóa đá đã mang ý nghĩa tượng trưng cho nỗi đau tích tụ, dồn nén
khơng lối thốt, sự chờ đợi vô vọng đằng đẵng qua thời gian, khơng gian.
Khơng phải ngẫu nhiên những truyện có mơtíp hóa đá, chủ thể hóa thân đều
là những người phụ nữ ngóng trơng chồng trong nỗi đau tuyệt vọng, khơng
tin tức, không một lời giải đáp cho bi kịch mà họ đang chịu đựng (Nàng Tơ
Thị, Sự tích đá Vọng Phu, Sự tích đá Bà Rầu, Ngậm ngãi tìm trầm hay sự
tích núi Mẫu Tử…). Hay đó là hình ảnh người em mang theo nỗi oan ức
không biết giải bày cùng ai lang thang trong rừng vắng hóa thành tảng đá (
Sự tích trầu cau).
Ở những truyện này, ngồi chức năng giải thích ra sự ra đời hay đặc
điểm của các con vật, địa danh, phong tục, chức năng chính của truyện là
phản ánh hiện thực đầy bất công ngang trái và những bi kịch cuộc sống mà
những người dân lương thiện phải gánh chịu. Sự hóa thân của nhân vật vừa
như nhấn mạnh hiện thực đó, vừa là mong ước hóa giải bi kịch số phận của
con người. Mặt khác, tiếng kêu của các lồi chim, hình ảnh đá Trơng Chồng
vừa gợi nhắc nỗi đau, bi kịch của nhân vật, vừa thay lời nhân vật tố lên nỗi
oan khuất của họ, để hóa giải bi kịch cho họ. Chức năng hóa giải bi kịch đã
khiến những truyện này vừa kết thúc khơng có hậu (vì cuối truyện nhân vật
thiện phải chết), vừa kết thúc có hậu, bởi nhờ mơtip hóa thân, họ lại được
giải tỏa nỗi đau, được thỏa nguyện ước mong hịa hợp, đồn kết vợ chồng,
anh em, dù là ở một thế giới khác. Trong Sự tích Ơng Táo, Ngọc Hồng
thương tình ba con người vì tình nghĩa mà bị chết cháy đã cho họ lên thiên
đình làm Táo Quân để đời đời được sống bên nhau. Trong Truyện trầu cau,
ba anh em, vợ chồng sau khi chết lại được quấn quýt bên nhau. Hình ảnh cây
cau mọc ngay bên tảng đá, cây trầu leo quanh thân cau và sự kết hợp trầucau- vôi tạo nên một thứ màu đỏ thắm nói lên tình nghĩa vợ chồng, anh em
son sắt không bao giờ nhạt phai giữa họ. Như vậy, với chức năng phản ánh
16
và hóa giải bi kịch, mơtíp hóa thân thể hiện cái nhìn hiện thực và nhân đạo
của ơng cha ta. Dù rằng, màu sắc hiện thực của truyện cổ tích sinh hoạt
khơng cho phép một kết thúc có hậu trọn vẹn như “những giấc mơ” như
trong truyện cổ tích thần kì đích thực, nhưng tác giả dân gian vẫn thể hiện
được niềm mong ước khôn nguôi xoa dịu nỗi đau của con người, trút bỏ
những gánh nặng trong cuộc sống và mãi được hưởng hạnh phúc. Đây chính
là sự kết hợp giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân văn sâu sắc trong truyện
cổ tích của người Việt.
17
CHƯƠNG III
MỘT SỐ CƠ SỞ HÌNH THÀNH MƠTÍP HỐ THÂN TRONG
TRUYỆN CỔ TÍCH CỦA NGƯỜI VIỆT
Mơtíp trong truyện cổ tích dù là những cơng thức miêu tả mang tính ước lệ,
tính bền vững nhưng sự hình thành của mơtíp đều bắt nguồn từ những cơ sở văn
hóa- lịch sử- xã hội nhất định. Đây chính là sự thể hiện cụ thể mối quan hệ giữa
truyện cổ tích nói riêng và văn học dân gian nói chung với hiện thực. Ở đây,
chúng tơi tìm hiểu một số cơ sở văn hóa- lịch sử- xã hội tác động đến sự
hình thành của mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích của người Việt. Từ đó,
nhằm lí giải phần nào nguồn gốc của mơtíp và tìm hiểu một số quan niệm
văn hóa thể hiện trong mơtíp.
2.1. Mơtíp hóa thân bắt nguồn từ quan niệm thần thoại
V.Ia.Propp trong cơng trình nghiên cứu “ Hình thái học truyện cổ
tích” đã cho rằng: Yếu tố thần kì trong truyện cổ tích phát sinh từ thần thoại.
Mơtíp hóa thân là một dạng của yếu tố thần kì trong truyện cổ tích. Vì vậy,
nó cũng bắt nguồn từ quan niệm thần thoại.
Thần thoại là một thể loại ra đời sớm, dựa trên niềm tin của con người
vào sự tồn tại của thế giới thần linh, thế giới siêu tự nhiên. Tư duy thần linh
chủ nghĩa khiến người nguyên thủy quan niệm con người là do thần linh sinh
ra, và con người có mối liên hệ qua lại với thần linh, với tự nhiên, có thể
giao cảm với thần cũng như với các sự vật, hiện tượng mang linh hồn trong
thế giới. Quan niệm đó đã dẫn tới niềm tin vào khả năng biến hóa qua lại
giữa con người với thế giới siêu nhiên thần thánh và thế giới tự nhiên. Trong
thần thoại, các nhân vật có thể biến hóa qua lại giữa thần và người trần, giữa
người với các con vật, lồi vật…Như vậy, sự biến hóa hay hóa thân lúc đầu
là năng lực siêu nhiên của thần thánh, trong quan niệm thần thoại.
Mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích của người Việt cũng bắt nguồn từ
quan niệm nói trên của thần thoại. Sự hóa thân của nhân vật trong truyện cổ
tích là do các nhân vật thần kì thực hiện như: Ông Tiên (Con kiến), Đức Phật
(Người đàn bà hóa thành con muỗi, Sư ơng hóa thành con ếch…), Diêm
18
Vương (Sự tích con muỗi...), các nhân vật này đều có nguồn gốc từ các biểu
tượng thần thoại hay tơn giáo, tín ngưỡng dân gian.
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến sự hình thành mơtíp hóa thân
trong truyện cổ tích của người Việt
Phật giáo là một tôn giáo ngoại lai có nguồn gốc từ Ấn Độ. Đạo Phật
du nhập vào Việt Nam khá sớm, vào khoảng cuối thế kỉ II sau công nguyên.
Đạo Phật đã đi vào đời sống tinh thần của người Việt một cách hịa bình, tự
nguyện và đã hịa nhập với tín ngưỡng dân gian. Do ảnh hưởng rộng lớn và
sâu sắc của Đạo Phật trong đời sống tinh thần của nhân dân, một cách tự
nhiên, một số quan niệm Phật giáo đã ảnh hưởng đến sự hình thành của các
sáng tác dân gian, trong đó có sự hình thành của mơtíp hóa thân trong truyện
cổ tích của người Việt.
Trước hết, trong truyện cổ tích có sự xuất hiện của các vị thần có
nguồn gốc Phật giáo như: Ông Bụt, Đức Phật, Phật Bà,... Những nhân vật đó
thực hiện sự hóa thân trong các truyện: Người đàn bà hóa thành con muỗi,
Sư ơng hóa thành con ếch, Con bìm bịp, Sao hơm và sao mai…Trong đó
một số truyện có ý nghĩa chuyển tải giáo lí của Đạo Phật. Trong truyện Sư
ơng hóa thành con ếch, sư ơng vì chưa thốt khỏi dục vọng nên bi Phật Bà
hóa thành con ếch, …Rõ ràng trong những truyện này có ảnh hưởng của cốt
truyện Phật thoại.
Quan niệm về luân hồi, về nhân quả báo ứng trong Phật giáo cũng có
ảnh hưởng đến mơtíp hóa thân. Quan niệm ln hồi nói về chu kì đời người
được tượng trưng là một bánh xe luân hồi hay còn gọi là bánh xe sinh tử cứ
quay mãi đưa con người từ kiếp này sang kiếp khác, chết rồi tái sinh, rồi lại
chết, tái sinh. Trong truyện cổ tích của người Việt, nhân vật sau khi chết hóa
kiếp thành các con vật, vật thể, cây cối…Người lương thiện thì kiếp sau
được làm thần, hay hóa kiếp thành những con vật, vật thể được người đời
tôn trọng, thờ phụng; kẻ ác thì bị trừng phạt hóa kiếp thành các lồi vật, con
vật bẩn thỉu, vơ ích, bị người đời nguyền rủa. Ở đây, mơtíp hóa thân thể hiện
quan niệm luân hồi, nhân quả báo ứng, triết lí “ác giả ác báo” mang ý nghĩa
nhân văn trong Phật giáo và trong quan niệm dân gian.
19
2.3. Mơtíp hóa thân bắt nguồn từ phong tục và tín ngưỡng dân gian
Tín ngưỡng là niềm tin vào những điều thiêng liêng, những sức mạnh
huyền bí mà con người chỉ cảm nhận được mà khơng thể nhận thức được.
Tín ngưỡng dân gian của người Việt rất phong phú như: tín ngưỡng tơn thờ
tự nhiên, tín ngương phồn thực, tín ngưỡng thờ cúng vật tổ, tín ngưỡng thờ
đá…
Mơtíp hóa thân chịu sự ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ vật tổ. Đó là tín
ngưỡng thờ các con vật, lồi vật thiêng như: thờ chim, thờ rắn, thờ cây…
Người xưa tin rằng, con người có nguồn gốc từ các con vật, lồi vật.
Có một số ý kiến cho rằng, truyện cổ tích lồi vật có nguồn gốc từ tín
ngưỡng thờ vât tổ, khi tín ngưỡng này đã mất thiêng. Trong mơtíp hóa thân,
con người hóa thân thành các con vật, lồi vật khiến ta liên hệ đến quan
niệm về mối quan hệ đắp đổi, chuyển hóa qua lại, khơng có sự tách biệt giữa
thế giới con người và lồi vật, có thể là tổ tiên sinh ra con người trong tín
ngưỡng thờ vật tổ. Tuy nhiên, trong truyện cổ tích, sự hóa thân giữa con
người và loài vật đẫm màu sắc tưởng tượng, hư cấu, khơng cịn tính thiêng
như ở tín ngưỡng thờ vật tổ.
Mơtíp hóa thân cịn chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ đá. Đá là
thành phần cơ bản của núi mà núi là chốn linh thiêng là nơi thông linh giữa
trời và đất cho nên đá có thể là phương tiện truyền đạt mong muốn của con
người đến các thế lực siêu nhiên khác. Từ xưa, người Việt có tục thờ núi, thờ
đá: tượng đá cụt đầu ở am thờ Mỵ Châu ở Cổ Loa, cột đá thề trong đền
thượng ở đền Hùng, đá Ông Chồng, Bà Chồng ở Nghi Xn, Hà Tĩnh…Có
lẽ vì quan niệm đá có linh hồn, nên người Việt thường nhìn thấy những câu
chuyện nhân sinh nơi hình dáng của núi, đá: đá Trơng Chồng, đá Bà Rầu,
nàng Tơ Thị, Hịn Chồng, Hịn Vợ, núi Mẫu Tử, hịn Trống Mái… Hình
dáng núi, đá này đã đi vào truyện cổ tích với mơtíp nhân vật hóa đá. Ngồi
ra, đá cịn được xem là biểu tượng cho nỗi oan khuất khơng giải tỏa của con
người. Điều đó được thể hiện cụ thể trong những truyện mà kết thúc nhân
vật hóa đá như: Hịn Trống Mái, Nàng Tơ Thị, Truyện trầu cau, Sự tích đá
Bà Rầu, Ngậm ngãi tìm trầm hay sự tích núi Mẫu Tử, Sự tích núi Vàng…
20
Các nhân vật này đều rơi vào một bi kịch, một nỗi đau không thể chia sẻ
cùng ai, cũng không thể giải quyết được rồi hóa đá, như nhân vật người vợ
trong truyện Sự tích đá Bà Rầu bị chồng nghi ngờ lịng chung thủy mà nàng
khơng thể nào thanh minh được đành hóa thành núi đá.
Bên cạnh đó mơtíp còn chịu ảnh hưởng của những phong tục dân
gian. Người Việt có những phong tục như tục ăn trầu, tục cúng ông Táo vào
ngày 23 tháng chạp hàng năm, tục kiêng quét rác vào những ngày tết… Đây
là những phong tục phổ biến lâu đời của nhân dân ta nhưng họ khơng biết
những phong tục đó bắt nguồn từ đâu và ra đời như thế và nên họ đã sáng
tác những câu truyện cổ tích như: Truyện trầu cau, Sự tích Ơng Táo, Sự tích
cái chổi…để lí giải những phong tục đó. Đặc điểm của những phong tục dân
gian này đã ảnh hưởng đến sự hư cấu mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích
của người Việt.
KẾT LUẬN
21
Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu Mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích
của người Việt, chúng tơi đi đến một số kết luận sau:
1. Mơtíp hóa thân là mơtíp độc đáo, xuất hiện khá phong phú trong
truyện cổ tích của người Việt. Mơtíp này xuất hiện ở cuối truyện, trong đó
nhân vật kết thúc số phận bằng cái chết và sự hóa thân. Có các dạng hóa thân
cơ bản: dạng hóa thân thành các con vật, lồi vật, cây cối, vật thể; dạng hóa
thân thành đá; dạng hóa thân thành thần linh.
2. Nhìn chung mơtíp hóa thân trong truyện cổ tích của người Việt có
kết cấu ổn định, có thể khái qt hóa thành 2 dạng mơ hình kết cấu: dạng kết
cấu của mơtíp hóa thân có chủ thể hóa thân là nhân vật thuộc tuyến ác, dạng
kết cấu mơtíp hóa thân có chủ thể hóa thân là nhân vật thuộc tuyến thiện. Từ
mơ hình kết cấu của mơtíp hóa thân chúng ta có thể thấy các yếu tố cấu
thành mơtíp, đặc điểm cụ thể của chúng trong truyện cổ tích và các chức
năng mà mơtíp thực hiện. Chức năng của mơtíp hóa thân phong phú đa
dạng: Chức năng giải thích nguồn gốc, đặc điểm của một số hiện tượng
trong tự nhiên và trong xã hội, chức năng trừng phạt, chức năng phản ánh và
hóa giải bi kịch. Qua việc tìm hiểu chức năng của mơtíp, đề tài đã cho thấy
những quan niệm đạo đức, triết lí nhân sinh cũng như giá trị hiện thực, giá
trị nhân đạo sâu sắc mà tác giả dân gian dân gian đã gửi gắm trong truyện.
3. Sự hình thành của mơtíp hóa thân có nguồn gốc từ cơ sở văn hóa,
xã hội, lịch sử nhất định. Đó là sự ảnh hưởng của quan niệm thần thoại, Phật
giáo và một số tín ngưỡng, phong tục dân gian. Chỉ ra sự ảnh hưởng này,
chúng tôi đã góp phần làm sáng tỏ tính bền vững, tính quan niệm của mơtíp
cũng như mối quan hệ giữa mơtíp với mơi trường văn hóa dân gian nói
riêng, mối quan hệ giữa folklore và thực tại nói chung. Nghiên cứu mơtíp
hóa thân là một cơng việc lí thú, bởi qua đó cho thấy đặc sắc của thể loại
truyện cổ tích về kết cấu cũng như chức năng tư tưởng, thấy được sự quan
sát tinh tế, trí tưởng tượng và sức sáng tạo phong phú của tác giả dân gian.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
22
1.
Nguyễn Thị An, Truyện kể địa danh- từ góc nhìn thể loại, TCVH,
số 3/1999.
2.
Trần Thị An, Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ tupe và
motif- Những khả thủ và bất cập, TCVH, sô 7/2008.
3.
Phạm Tuấn Anh, Một số vấn đề lí luận về nghiên cứu cấu trúc
truyện cổ tích thần kì, TCVH, số 12/2008.
4.
Phan Kế Bính, Việt nam phong tục, Nxb TP.HCM, 2004.
5.
Jean Chevaliver, Alain Gheerbrant, Từ điển biểu tượng văn hóa
thế giới, Nxb Đà Nẵng, 2002.
6.
Nguyễn Đổng Chi, Nhận định tổng quan về kho tàng truyện cổ
tích Việt Nam, Trong cuốn “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập IV, Nxb
Viện văn học, H.1993.
7.
Nguyễn Tấn Đắc, Truyện kể dân gian đọc bằng tupe và motif,
Nxb Khoa học, H.2001.
8.
Nguyễn Xuân Đức, Những vấn đề thi pháp văn học dân gian,
Nxb KHXH, H.2003.
9.
Mai Gia Thi, Nguồn gốc dân tộc học của mơíip tái sinh,
10. Nhiều tác giả, Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 6:
Truyện cổ tích thần kì, Nxb KHXH,. H.2005.
11. Nhiều tác giả, Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 7:
Truyện cổ tích sinh hoạt và truyện cổ tích lồi vật, Nxb KHXH, H.2005.
12. Đặng Thị Thu Hà, Yếu tố tôn giáo và truyện cổ tôn giáo trong
truyện kể dân gian việt nam, TCVH, số 7/2008.
13. Nguyễn Bích Hà, Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện
cổ Việt Nam và Đông Nam Á, Nxb GD, H.1998.
14. Lê Bá Hán, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb GD, H.2006.
23
15. Tăng Kim Ngân, Truyện cổ tích thần kì người Việt. Đặc điểm cấu
tạo cốt truyện, Nxb KHXH, H.1994.
16. Đinh Gia Khánh, Văn học dân gian Việt Nam, Nxb GD, H.2006.
17. Đinh Gia Khánh, Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích
qua truyện Tấm Cám, Nxb văn học, H.1968.
18. V.Ia.Propp, Tuyển tập V.Ia.Propp, tập 1, Nxb Văn hóa dân tộc,
H.2003.
19. V.Ia.Propp, Tuyển tập V.Ia.Propp, tập 2, Nxb Văn hóa dân tộc,
H.2003.
20. Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, Nxb GD, H.1998.
21. Lê Chí Quế, Văn học dân gian Việt Nam, Nxb ĐHQGHN, H.
2004
22. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb GD, H.2000.
23. Trần Ngọc Thêm, Tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam- Cái nhìn
hệ thống, Nxb TP.HCM, 1997
24. Hồng Tiến Tựu, Văn học dân gian Việt Nam, tập 2, Nxb GD,
H.1990
25. Cung Kim Tiến, Từ điển triết học, Nxb Văn hóa thơng tin,
H.2002.
26. Phan Xuân Viện, Môtip đá thiêng. www.//.http.Vienvanhoc.
org.
27. Nguyễn Như Ý, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thơng tin,
H.1999
24