Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh niên tỉnh ninh thuận trong gia đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (976.89 KB, 105 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

VŨ NGỌC ĐƯƠNG

GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG
CHO THANH NIÊN TỈNH NINH THUẬN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2016


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

VŨ NGỌC ĐƯƠNG

GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG
CHO THANH NIÊN TỈNH NINH THUẬN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.02.01

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐINH THẾ ĐỊNH

Nghệ An, 2016


3

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành chương trình cao học và viết luận văn này, Tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của q Thầy, Cô trường Đại
học Vinh.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại Học Vinh, quý
Thầy, Cô trong khoa Giáo dục Chính trị trường Đại học Vinh đã tạo rất nhiều
điều kiện để tơi học tập và hồn thành tốt khóa học. Tơi cũng xin chân thành
cảm ơn q Thầy, Cô đã dạy bảo cho tôi suốt thời gian học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Thế Định,
người đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp
tơi hồn thành luận văn tốt nghiệp này.
Mặc dù tơi đã cố gắng hồn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình và tâm
huyệt và sự hiểu biết của mình, nhưng chắc khơng thể tránh khỏi những thiếu
sót, rất mong nhận được sự đóng góp quý báu của quý Thầy, Cô và các anh chị
học viên.

TP. Vinh, tháng 06 năm 2016
Học viên

Vũ Ngọc Đương



4

MỤC LỤC

Trang

TRANG PHỤ BÌA .............................................................................. 1
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................... 2
MỤC LỤC ........................................................................................... 3
A. MỞ ĐẦU ......................................................................................... 4
B. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC
TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN ....................... 11
1.1. Truyền thống cách mạng và những truyền thống cách mạng
cần giáo dục cho thanh niên ........................................................................... 11
1.2. Tính tất yếu phải giáo dục truyền thống cách mạng

............ 34

Chương 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG
CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN TỈNH NINH THUẬN ................... 44
2.1. Những yếu tố tác động công tác giáo dục truyền thống cách
mạng cho thanh niên tỉnh Ninh Thuận hiện nay ............................................ 44
2.2. Công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh niên tỉnh
Ninh Thuận hiện nay ..................................................................................... 53
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CHO THANH
NIÊN TỈNH NINH THUẬN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ............ 69
3.1. Quan điểm về giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh niên
tỉnh Ninh Thuận hiện nay .............................................................................. ..69

3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
truyền thống cách mạng cho thanh niên tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn
hiện nay ......................................................................................................... 73
KẾT LUẬN ........................................................................................ 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................... 101


5

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước, thanh niên luôn nêu cao truyền
thống yêu nước, chí khí anh hùng, bất khuất của dân tộc, hăng hái đi tiên phong
trên mọi lĩnh vực và có nhiều cống hiến vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn trong Di chúc: “Đảng cần phải
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ trở thành những
người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”, bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”[48,
tr.622].
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong những năm qua, Đảng,
Chính phủ không ngừng chăm lo bồi dưỡng, giáo dục cho thanh niên. Nghị
quyết số 45/NQ-CP, ngày 11/09/2009, đã “Ban hành Chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Trên tinh thần Nghị quyết
45/NQ-CP, một Chương trình hành động của Chính phủ về cơng tác thanh niên
được ban hành.
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nghị quyết của Đảng, Nghị
quyết Đại hội đại biểu tồn quốc Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh lần
thứ X đã xác định một trong những phương hướng của cơng tác Đồn và phong

trào thanh thiếu niên đó là: “Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức
cách mạng, truyền thống, lịch sử dân tộc, văn hóa, lối sống, ý thức chấp hành
pháp luật cho thanh thiếu nhi, xác định nội dung xuyên suốt trong công tác giáo
dục của Đoàn là bồi đắp lý tưởng, ước mơ hoài bảo, niềm tin, khát vọng cao đẹp
của thanh niên đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời
kỳ mới; góp phần hình thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế thừa


6

trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, “vừa hồng,
vừa chuyên” theo tư tưởng của Bác Hồ”[25].
Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh phải: “Làm tốt cơng tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống, tạo điều kiện
học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ cho thế hệ trẻ. Khuyến khích,
cổ vũ thanh niên ni dưỡng ước mơ, hồi bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ
khoa học, cơng nghệ hiện đại. Hình thành một lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh
vực, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân
tộc”[20, tr.242-243].
Trải qua gần 30 năm đổi mới, với những thành tựu đạt được trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội đã tác động tích cực đến thanh niên nói chung, thanh
niên tỉnh Ninh Thuận nói riêng đó là: tạo mơi trường, điều kiện thuận lợi để
thanh niên cống hiến và trưởng thành. Thực tiễn cho thấy đã và đang xuất hiện
những nhà quản lý, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà hoạt động nghệ thuật
có đức, có tài trong độ tuổi thanh niên với một khát vọng và lòng nghiệt huyết
cháy bỏng bằng ý chí vươn lên, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động sản
xuất, đam mê nghiên cứu ứng dụng khoa học cơng nghệ, vươn lên thốt khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, làm giàu chính đáng cho bản thân, gia đình và xã hội. Có thể
khẳng định thanh niên Ninh Thuận có lịng u nước nồng nàn, có đạo đức cách
mạng và lối sống trong sáng, giản dị, lành mạnh, biết vươn tới các giá trị chân,

thiện, mỹ. Sống có ước mơ, hồi bão, có lý tưởng, có niềm tin ở tương lai tươi
sáng của dân tộc, dám đấu tranh bảo vệ cái đúng, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ sự công
bằng, lên án cái sấu, cái ác, sẵn sàng cống hiến vì lợi ích dân tộc, bảo vệ chủ
quyền quốc gia, tình nguyện vì cộng đồng.
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực đó, thanh niên đang phải đối
mặt với mặt trái của nền kinh tế thị trường đó là sự phân hóa giàu - nghèo làm
sâu sắc thêm những mâu thuẫn xã hội; dễ nảy sinh tham nhũng, tội phạm, bạo


7

lực; kích thích chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, lối sống chạy theo đồng
tiền bất chấp đạo lý… Những mặt trái đó đã và đang tác động đến thanh niên về
tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tinh thần thái độ và ý thức trách nhiệm bản
thân. Mặt khác, sự chống phá thâm độc và sảo quyệt của các thế lực thù địch
ngày càng phức tạp, khó lường đã khiến cho một bộ phận thanh niên phai nhạt
lý tưởng, thiếu niềm tin, chạy theo lối sống thực dụng, sa ngã, xa rời các giá trị
đạo đức tốt đẹp của dân tộc, có thái độ thờ ơ, bàng quang trước sự kiện kinh tế,
chính trị của đất nước. Đặc biệt, hiện nay đã xuất hiện một bộ phận thanh niên
tơn thờ chủ nghĩa cá nhân, sống ích kỷ, chạy theo lợi ích vật chất, cổ suý cho
chủ nghĩa tư bản, hoài nghi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trước thực trạng đó, Đảng, Nhà nước và tổ chức Đoàn thanh niên đã ban
hành các chỉ thị, nghị quyết về thanh niên và công tác thanh niên. Nhiều tác giả,
học giả cũng đã nghiên cứu về vấn đề này ở nhiều khía cạnh và phương pháp
tiếp cận khác nhau, được trình bày dưới dạng sách, bài viết chuyên đề, luận văn,
luận án, đề tài, tiêu biểu đó là: Hồ Đức Việt (2011), “Tư tưởng Hồ Chí Minh
đối với thanh niên và cơng tác thanh niên”; Đồn Nam Đàn, “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục thanh niên”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008; Trần Quy
Nhơn, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”,
Nxb Giáo dục, 2005; Dương Tự Đam, “Định hướng giá trị cho thanh niên, sinh

viên trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nxb Thanh niên,
Hà Nội, 2002; TS. Trần Văn Hải (chủ nhiệm), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên và vận dụng trong thực tiễn cách mạng
hiện nay”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2007 của Học viện Chính trị
- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; TS. Phạm Đình Nghiệp, “Giáo dục lý
tưởng cách mạng cho thanh niên hiện nay” Nxb Thanh Niên, năm 2002… Các
cơng trình đó đã khẳng định vị trí, vai trị của thanh niên trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, thanh niên là chủ nhân tương lai của đất nước, là người


8

kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Đồng thời các cơng trình
trên cũng đặt ra những yêu cầu và nhiệm vụ trong việc chăm lo, bồi dưỡng, giáo
dục thanh niên trong điều kiện hội nhập quốc tế, giúp thanh niên có bản lĩnh
chính trị vững vàng, sẵn sàng nhận và hoàn thành bất cứ nhiệm vụ gì khi Đảng
và Tổ quốc yêu cầu.
Vấn đề giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh niên đã có nhiều tác giả
nghiên cứu. Tiêu biểu là các cơng trình: TS. Đoàn Minh Duệ, Những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống cho thanh thiếu nhi tỉnh Nghệ
An; TS. Đinh Thế Định, Những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục truyền
thống cho sinh viên Đại học Vinh; GS Phan Huy Lê, “Truyền thống dân tộc
trong công cuộc đổi mới và hiện đại hóa đất nước”; GS.TS Nguyễn Trọng
Chuẩn, PGS.TS Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ biên), “Giá trị truyền thống
trước những thách thức tồn cầu hóa”; Lương Ngọc, “Giáo dục truyền thống
cho thanh niên”…. Các cơng trình trên đã đi sâu nghiên cứu nhiều vấn đề, nhiều
khía cạnh, dưới những góc độ khác nhau về truyền thống, giáo dục truyền thống
cách mạng cho thanh niên, vị trí và vai trò của thanh niên trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm định hướng,
giáo dục thanh niên kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của Đảng,

của dân tộc trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng các cơng trình nghiên cứu nêu trên mới
chỉ đề cập đến từng mặt, từng khía cạnh dưới nhiều góc độ khác nhau, chưa có
một cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, chun sâu và có hệ thống việc
giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh niên tỉnh Ninh Thuận trong giai
đoạn hiện nay. Với những nhận thức trên, chúng tôi chọn đề tài “Giáo dục
truyền thống cách mạng cho thanh niên tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn
hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ.


9

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, đề ra các nhóm giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh niên
tỉnh Ninh Thuận, góp phần xây dựng thế hệ thanh niên Ninh Thuận “Tâm trong
– Trí sáng – Hoài bão lớn” đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và xây dựng quê hương Ninh Thuận ngày càng giàu đẹp,
văn minh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục truyền thống
cách mạng cho thanh niên và tầm quan trọng của việc giáo dục truyền thống
cách mạng cho thanh niên
Thứ hai, điều tra, khảo sát, đánh giá về thực trạng công tác giáo dục truyền
thống cách mạng cho thanh niên tỉnh Ninh Thuận.
Thứ ba, đề xuất giải pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác giáo dục
truyền thống cách mạng cho thanh niên tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu về truyền thống cách mạng và công tác giáo
dục truyền thống cách mạng cho thanh niên tỉnh Ninh Thuận.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về truyền thống cách
mạng và công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh niên tỉnh Ninh
Thuận.


10

4.2.2. Về thời gian: Luận văn tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng từ năm
2007 (năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ X) đến nay;
những nhóm giải pháp áp dụng từ nay cho đến năm 2020 về công tác giáo dục
truyền thống cách mạng cho thanh niên tỉnh Ninh Thuận.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác giáo dục truyền thống cách
mạng cho thanh niên.
- Để thực hiện đề tài này, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng các
phương pháp sau đây: phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp kết hợp
lịch sử và logic, phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh đánh giá số liệu,
phương pháp thống kê, phương pháp chuyên gia, phương pháp xử lý thông tin…
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Luận văn có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu vấn đề giáo dục
truyền thống cách mạng cho thanh niên, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả về
công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh niên tỉnh Ninh Thuận trong
giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới.
- Luận văn này có thể làm tài liệu phục vụ cho các cấp ủy đảng, Đoàn
thanh niên, trong việc bồi dưỡng, giáo dục và rèn luyện thanh niên.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu 3 chương và 6 tiết.


11

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC
TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN
1.1. Truyền thống cách mạng và những truyền thống cách mạng cần
giáo dục cho thanh niên
1.1.1. Truyền thống cách mạng
1.1.1.2. Khái niệm truyền thống
Về nguồn gốc, từ “truyền thống” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là traditio,
nghĩa là sự chuyển giao, là hành vi lưu truyền lại. Động từ của nó là tradere,
nghĩa là chuyển sang, giao, trao lại cho người khác.
Về thuật ngữ, có nhiều quan điểm khác nhau khi định nghĩa về thuật ngữ
“truyền thống” như:
Littré, nhà ngôn ngữ học và triết học thực chứng người Pháp cho rằng
“Truyền thống” là sự giao lại cái gì đó cho người khác hoặc đó là sự truyền lại
những sự kiện lịch sử, truyền thuyết, … Nhưng ơng có hạn chế đó là xem việc
truyền lại đó là bằng con đường truyền khẩu chứ khơng phải bằng văn bản
thành văn.
Giáo sư Vũ Khiêu, tác giả của cuốn “Đạo đức mới”, đưa ra định nghĩa:
“Truyền thống là những thói quen lâu đời đã được hình thành trong nếp sống,
nếp suy nghĩ và hành động của một dân tộc, một gia đình, một dịng họ, một
làng xã, một tập đoàn lịch sử”[35, tr.536].
Khi nghiên cứu “về truyền thống dân tộc”, GS. Trần Quốc Vượng viết:

“Truyền thống như là một hệ thống các tính cách, các thế ứng xử của một tập
thể (một cộng đồng) được hình thành trong lịch sử, trong một môi trường tự


12

nhiên và nhân văn nhất định, trở nên ổn định, có thể được định chế hóa bằng
luật hay bằng lệ, và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, để đảm bảo
tính đồng nhất của một cộng đồng”[60, tr.28-29].
Trong Luận án Tiến sĩ “Kết hợp truyền thống và hiện đại trong quá trình
đổi mới giáo dục - đào tạo ở Việt Nam hiện nay" tác giả Nguyễn Lương Bằng
cho rằng: “truyền thống là một khái niệm, dùng để chỉ những hiện tượng như
tính cách, phẩm chất, tư tưởng, tình cảm, thói quen trong tư duy, tâm lý, lối ứng
xử... được hình thành trên cơ sở những điều kiện tự nhiên - địa lý, kinh tế - xã
hội cũng như hoạt động của con người trong quá trình lịch sử và được lưu
truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác trong một cộng đồng người nhất định”[3,
tr.19].
Khi đề cập đến vấn đề truyền thống, GS. TS Nguyễn Trọng Chuẩn đã có
rất nhiều bài viết về vấn đề này. Ơng cho rằng “Nói đến truyền thống là nói đến
phức hợp những tư tưởng, tình cảm, tập qn, thói quen, những phong tục, lối
sống, cách ứng xử, ý chí... của một cộng đồng người đã hình thành trong lịch
sử, đã trở nên ổn định và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”[6, tr.17].
Cũng theo giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn, truyền thống được hiểu theo hai
nghĩa:
Nghĩa thứ nhất, “Truyền thống góp phần suy tơn, giữ gìn những cái gì là
quý giá, là cốt cách, là nền tảng cho sự phát triển, cho sự đi lên của một cộng
đồng, của dân tộc”[6, tr.9];
Nghĩa thứ hai, “Truyền thống cũng còn là mảnh đất hết sức thuận lợi cho
sự du dưỡng, duy trì và làm sống lại mặt bảo thủ, lạc hậu, lỗi thời khi mà điều
kiện và hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi”[6, tr.9-10].

Theo Trần Văn Giàu trong tác phẩm Giá trị tinh thần truyền thống của
dân tộc Việt Nam: “Truyền thống thì có cái tốt cái xấu; nhưng khi chúng ta nói


13

“giá trị quyền thống” thì ở đây chỉ có cái tốt mà thơi, bởi vì chỉ có những cái gì
tốt được gọi là giá trị; thậm chí, phải là những cái tốt phổ biến, cơ bản, có nhiều
tác dụng tích cực cho đạo đức luân lý, có cả tác dụng hướng dẫn sự nhận định
và hướng dẫn sự hành động, thì mới được mang danh là giá trị truyền thống”.
Ơng cho rằng giá trị truyền thống của một dân tộc là một phạm trù triết học
khác với giá trị truyền thống bình thường. Ơng nhấn mạnh: “Giá trị tinh thần
truyền thống của một dân tộc là những nguyên lý đạo đức lớn mà con người
trong nước thuộc các thời đại, các giai đoạn lịch sử, đều dựa vào để phân biệt
phải trái, để nhận định nên chăng, nhằm xây dựng độc lập, tự do và tiến bộ của
dân tộc đó. Cũng là những nguyên lý đạo đức đã tàng ẩn trong tâm trí sâu xa
của mỗi người dân trong nước, khiến họ tự nhiên phản ứng đúng với lẽ phải,
đúng với quyền lợi và danh dự dân tộc khi phải đụng chạm một sự cố nào”.
Ông cũng cho rằng khi bàn giá trị truyền thống cũng phải tính đến “những vấn
đề đạo lý rất hiện đại”[32, tr.93-94].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài “Đạo đức cách mạng” (tháng 12-1958)
cũng đã viết: “Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm
ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại khơng thể trấn áp nó, mà phải
cải tạo nó rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài”[47, tr.605-606].
Như vậy, khái niệm truyền thống được hiểu theo nghĩa thứ nhất, tức là
truyền thống trở thành một bộ phận thiết yếu của đời sống con người, là những
tập tục, thói quen, đức tính, phong tục tập qn, những kinh nghiệm được hình
thành từ lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ của con người, được truyền lại qua các
thế hệ. Truyền thống đã góp phần duy trì, bảo vệ và phát triển cuộc sống của
chúng ta. Tóm lại, sự nhận thức truyền thống không tách rời nhận thức các giá trị.

1.1.1.2. Khái niệm truyền thống cách mạng
Truyền thống cách mạng (Tiếng Anh: Traditional revolution. Tiếng Nga:
Традиционная революция). Là một trong những nội dung cốt lõi của quá trình


14

giáo dục cùng với các nội dung giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức cách
mạng... nhằm hình thành thế giới quan khoa học mác xít, nhân sinh quan cách
mạng cho quần chúng nhân dân nói chung, thế hệ trẻ nói riêng.
Nội dung của truyền thống cách mạng rất phong phú, trong đó chứa đựng
các yếu tố cơ bản như:
Thứ nhất, gương chiến đấu và cống hiến, hy sinh quên mình, kiên cường,
bất khuất; sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc của các thế hệ cha, anh
trong lực lượng vũ trang, các tổ chức Đảng, Đoàn, Hội, Đội, Thanh niên xung
phong cũng như các đoàn thể quần chúng khác được giáo dục, tổ chức dưới
ngọn cờ của Đảng và chân lý “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Thứ hai, ý chí và tinh thần khơng cam chịu nơ lệ, đói nghèo của các thế hệ
đi trước; ham học hỏi, luôn cầu thị, hội nhập để phát triển nhưng khơng đánh
mất cội nguồn và bản sắc văn hố dân tộc; lao động qn mình, vượt khó vươn
lên, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, quyết sánh vai với
các cường quốc năm châu như Bác Hồ hằng mong muốn.
Thứ ba, kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Sống có nghĩa tình, thủy chung son sắt với bạn bè trên
tinh thần chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Như vậy, Truyền thống cách mạng là một hệ thống những giá trị tốt đẹp, là
tinh hoa và là tài sản vô giá được Đảng đúc kết trong quá trình lãnh đạo nhân
dân đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ
tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là một nhân tố cấu thành hệ giá trị tinh thần

của dân tộc Việt Nam, có sức sống trường tồn cùng dân tộc, có sức lan tỏa trong
cộng đồng dân cư, đó là sự kết tinh tồn bộ tinh hoa, trí tuệ của Đảng và của dân
tộc.


15

1.1.2. Nội dung giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh niên trong
giai đoạn hiện nay
1.1.2.1. Truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc
Trước hết cần khẳng định, yêu nước và lịng tự hào dân tộc khơng phải chỉ
riêng có, “độc quyền” của dân tộc Việt Nam, mà đó là thuộc tính phổ biến ở mọi
quốc gia, dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên ở Việt Nam, do lịch sử và những điều
kiện của mình, tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc đã trở thành sức mạnh, là
động lực và hơn nữa, nó được kết tinh thành truyền thống, triết lý phát triển của
dân tộc.
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, cả thế giới biết đến Việt
Nam như một biểu tượng của tinh thần đấu tranh bảo vệ hồ bình, độc lập. Từ
thời phong kiến, các triều đại Việt Nam đã nhiều lần đánh bại quân xâm lược
Trung Hoa – một nước lớn hơn ta rất nhiều lần. Quân dân thời Trần đã ba lần
đánh đuôi quân xâm lược Mông Nguyên ra khỏi bờ cõi – đạo quân hùng mạnh
nhất thời bấy giờ. Trong Đại cáo bình Ngơ của Nguyễn Trãi cũng đã khẳng
định: “Như nước Đại Việt ta từ trước / Vốn xưng nền văn hiến đã lâu / Núi sống
bờ cõi đã chia / Phong tục Bắc Nam cũng khác / Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao
đời xây nền độc lập / Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một
phương’’[53].
Thế kỉ XX, dân tộc ta đã kiên cường đấu tranh chổng bọn thực dân Pháp,
đế quốc Mĩ để giành được độc lập, tự do cho dân tộc. Cả thế giới biết tới Việt
Nam – tượng đài bất tử về một dân tộc anh hùng – một dân tộc chưa lớn bằng
một bang của Mỹ, nhưng đã đánh bại một nước mạnh số một thế giới, cả về

kinh tế lẫn quân đội. Để làm nên chiến thắng bất tử đó bởi Việt nam có truyền
thống yêu nước nồng nàn và tinh thần tự hào dân tộc cao độ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về truyền thống yêu nước của nhân dân ta
như sau: “Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý


16

báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi
nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp nước”[43,
tr.38].
Chính truyền thống yêu nước là sức mạnh nội sinh giúp nước ta, dân tộc ta
vượt qua bao khó khăn, thử thách, chiến thắng thiên tai khắc nghiệt và giặc
ngoại xâm, tồn tại và phát triển với đầy đủ bản sắc của mình. Lịng u nước của
dân tộc Việt Nam thể hiện ở những điểm sau:
Tình cảm gắn bó với quê hương, đất nước: Người Việt Nam yêu nước luôn
hướng về cội nguồn, về ông bà, cha mẹ, tổ tiên và quê hương của mình. Khi
phải xa quê hương, đất nước, luôn nhớ về quê hương, hướng về Tổ quốc.
Tình thương u đối với đồng bào, giống nịi, dân tộc: Đồng bào, giống nịi
là những gì thiêng liêng nhất gắn bó con người Việt Nam với nhau. Mỗi người
dân Việt Nam yêu nước đều cảm thông sâu sắc với nỗi đau của đồng bào, dân
tộc, luôn mong muốn đồng bào của mình được sống ấm no, hạnh phúc.
Lịng tự hào dân tộc chính đáng: Người Việt Nam ln tự hào về truyền
thống văn hóa lâu đời, đậm đà bản sắc dân tộc và có sức sống mạnh mẽ của dân
tộc mình, tự hào về những con người của quê hương, đất nước, những anh hùng
hào kiệt, những danh nhân văn hóa, tự hào về non sơng gấm vóc và những sản
vật phong phú của quê hương.
Đoàn kết, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền
dân tộc và nền độc lập tự do cả Tổ quốc, không bao giờ chịu làm nô lệ, làm

người dân mất nước hoặc lệ thuộc nước ngoài. Tinh thần đoàn kết, kiên cường
bất khuất chống giặc ngoại xâm là nét nổi bật của truyền thống yêu nước Việt
Nam.


17

Cần cù và sáng tạo trong lao động để xây dựng, phát triển nền văn hóa dân
tộc và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp. Người Việt Nam vốn có truyền
thống cần cù, sáng tạo trong lao động. Mỗi người Việt Nam yêu nước đều lao
động hết mình để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đóng góp xây dựng
quê hương và có những hành động thiết thực góp phần xây dựng và phát triển
nền văn hóa dân tộ.
Trong bối cảnh hiện nay, yêu nước đặc biệt phải gắn liền với độc lập tự chủ
và ý chí tự lực tự cường. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh
tế quốc tế có hiệu quả; mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả sẽ tạo
điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tránh được sự lệ
thuộc về nhiều mặt vào các đối tác trong quá trình hội nhập. Hơn nữa, để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta không thể trông đợi vào sự giúp đỡ vô tư của
các nước khác, cũng không thể có thái độ thụ động, ỷ lại vào bất cứ ai. Chúng ta
cần phải nhận thức rõ rằng trong quan hệ Quốc tế, một trong những nguyên tắc
cơ bản được đặt ra là: bình đẳng và cùng có lợi, khơng can thiệp vào cơng việc
nội bộ của nhau. Vì vậy, ngày nay một mặt, chúng ta vẫn tiếp nhận các nguồn
vốn vay, vốn viện trợ... của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ trên thế giới.
Mặt khác, chúng ta nên thận trọng với những điều kiện kèm theo những ưu đãi
đó, khơng vì việc nhỏ mà hy sinh việc lớn, không cái lợi trước mắt mà không
chú ý đến cái lợi lâu dài của quốc gia, dân tộc. Trong khi tranh thủ tối đa nguồn
lực bên ngoài, chúng ta cần xác định dựa vào nguồn lực trong nước là chính.
Mặt khác, phải kết hợp chặt chế với việc chống tham nhũng, bởi nó chính là một
trong những thù trong vơ cùng nguy hiểm. Về phía Nhà nước, cần phải xây

dựng được một cơ chế quản lý thích hợp, đồng thời cũng cần có những biện
pháp xử lý nghiêm minh đối với những kẻ tham nhũng. Để xây dựng Nhà nước
ta thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân và kế thừa tư tưởng yêu nước


18

mà Nguyễn Trãi đã từng khẳng định: yêu nước gắn liền với thương dân, khiến
cho trong thơn cùng xóm vắng khơng cịn một tiếng hờn giận ốn sầu.
Thế hệ hơm nay thừa hưởng biết bao truyền thống quí báu của ông cha
ngàn đời để lại. Yêu nước là phải ra sức học tập, rèn luyện để xây dựng đất nước
“to đẹp hơn, đàng hoàng hơn”, làm cho nước Việt Nam trở thành một nước giàu
mạnh, sánh vai cùng với các cường quốc năm châu trên thế giới. Tự hào dân tộc
chân chính khơng phải là tự kiêu, tự mãn, mà phải biết phát huy, sẵn sàng chiến
đấu bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc. Làm được như vậy thanh niên chúng
ta mới xứng đáng là cháu con của dân tộc Việt Nam anh hùng.
1.1.2.2. Tinh thần đoàn kết, ý thức tập thể, tương thân tương ái, phấn đấu
vì lợi ích chung
Truyền thống đồn kết của dân tộc Việt Nam cũng hòa vào dòng chảy của
chủ nghĩa yêu nước và trở thành biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước. Đây là
nhân tố tinh thần hợp thành động lực thúc đẩy q trình phát triển của lịch sử
dân tộc.
Đồn kết là sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc trong việc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, đoàn kết là điều kiện tất yếu để bảo tồn dân tộc, nhất là
khi đất nước có giặc ngoại xâm. Từ cách lý giải sự ra đời của dân tộc Việt Nam
trong truyền thuyết “Trăm trứng nở trăm con”. Đây chính là sự khẳng định
truyền thống đồn kết anh em giữa các dân tộc.
Cách dùng từ “đồng bào”- một từ Hán, nhưng chỉ có người Việt Nam sử
dụng để chỉ mối thâm tình “gà cùng một mẹ”, cho đến lịch sử hình thành của
một dân tộc Việt Nam: theo lời gọi của tiếng trống Hùng Vương mà mười lăm

bộ lạc hợp thành một quốc gia Văn Lang thống nhất.
Thấy rõ vai trị của yếu tố đồn kết, cha ơng ta ln có ý thức chống chính
sách chia rẽ của các thế lực ngoại bang và xu hướng bất cứ của các thế lực
phong kiến. Từ chính sách “dùng người Việt đánh người Việt” của bọn phong


19

kiến phương Bắc đến chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp, của đế quốc
Mỹ đều lần lượt bị thất bại trước tinh thần đoàn kết của nhân dân ta.
Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết đã trở thành điểm tựa tinh thần vững
chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như
trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nguyễn Trãi đã từng nói: “Chèo thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” để
chỉ sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Dân là gốc, là nền tảng của sự tồn tại và
phát triển.
Trong bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng đã nói: “Dễ mười lần khơng dân cũng chịu, khó trăm
lần dân liệu cũng xong”[48, tr.280]. Khi nói chuyện với lớp nghiên cứu chính
trị khóa II, trường Đại học Nhân dân Việt Nam, Người nói: “Trong bầu trời
khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng
đoàn kết của nhân dân”[46, tr.453]. Theo Người: “Việc gì khó cho mấy, quyết
tâm làm thì làm chắc được, ít người làm khơng nổi, nhiều người đồng tâm
hiệp lực mà làm thì phải nổi”[40, tr.282]. Người nhấn mạnh: Đồn kết, đồn
kết, đại đồn kết; thành cơng, thành cơng, đại thành cơng. Trước lúc đi xa,
Người cịn căn dặn các cán bộ, đảng viên: “Đoàn kết là một truyền thống cực
kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ
cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình”[48, tr 622].
Cùng với tinh thần đồn kết thì tinh thần tương thân tương ái phấn đấu vì

lợi ích chung cũng là một trong những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
ta, truyền thống ấy có nguồn gốc sâu xa từ trong sinh hoạt công xã nông thôn,
được củng cố và phát triển qua quá trình chung lưng, đấu cật khai phá giang
sơn, giữ gìn đất nước. Tinh thần đó chính là cơ sở cho cách xử thế ở đời của
người Việt Nam, là triết lý sống của dân tộc Việt Nam. Hết lịng vì nghĩa cả,


20

chia sẻ, giúp đỡ, nương tựa nhau trong lúc hoạn nạn, khó khăn mà khơng hề
tính tốn “một miếng khi đói bang gói khi no”, “lá lành đùm lá rách”, “thương
người như thể thương thân” và lên án mạnh mẽ những kẻ tàn ác “táng tận lương
tâm”, “phụ tình bạc nghĩa”.
Từ trong sâu lắng của lịch sử, dân tộc Việt Nam ln ln gắn tình u
q hương đất nước với lòng nhân ái - yêu thương con người. Do vậy, người
Việt Nam ln xả thân vì đất nước, con người yêu nước và con người yêu dân
gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong suốt trường kỳ lịch sử, dân tộc ta luôn luôn
đứng trước nguy cơ bị xâm lược và bị đồng hóa, hơn ai hết, chúng ta hiểu rất rõ
quyền sống của mình gắn với vận mệnh của Tổ quốc và dân tộc.
Lòng nhân ái bao dung gắn với tinh thần tương thân tương ái vì sự nghiệp
chung của người Việt Nam còn thể hiện ở lòng vị tha cao thượng, không cố
chấp đối với những người lầm đường lạc lối, nhưng biết lập công chuộc tội, trở
về với chính nghĩa. Người Việt Nam lấy tình u thương làm cách xử thế ở đời,
đối với kẻ thù thậm chí còn mở đường hiếu sinh khi thua trận, Vua Quang
Trung sau khi đánh bại quân Thanh còn cấp lương thảo và phương tiện cho
đám tàn quân về nước.
Hồ Chủ tịch là hiện thân của tinh thần tương thân, tương ái và lòng nhân
ái, nhân nghĩa. Xuất phát từ lòng thương yêu con người - người lao động, yêu
quê hương đất nước, Bác đã bơn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Cả cuộc đời mình, Bác hy sinh cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân.

Đúng như nhà thơ Tố Hữu viết: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế, ôm cả non sông
mọi kiếp người”[34]. Tinh thần đó của Người đã trở thành sức mạnh, nó thấm sâu
vào chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, có tác dụng mạnh
mẽ trong việc tập hợp vận quần chúng nhân dân theo đảng, theo cách mạng để
đánh bại bọn thực dân đế quốc và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong
những ngày đầu khi cách mạng mới thành công khai sinh ra nước Việt Nam


21

Dân chủ Cộng hòa nay là nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Tình thế lúc đó nước nhà như ngàn cân treo sợi tóc với chủ trương khéo léo,
linh hoạt và đầy sáng tạo của Chủ tịch Hồ chí Minh cùng với các phong trào
thiết thực như “diệt giặc đói, diệt giặc rốt”, “hũ gạo tiết kiệm”. Đặc biệt trong
các cuộc kháng chiến với khẩu “tất cả vì tuyền tuyến”, “tất cả vì đồng bào Miền
Nam ruột thịt” đã phát huy mạnh mẽ tinh thần tương thân, tương ái cao độ.
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” Đảng và nhà nước đã triển khai nhiều chương
trình, nhiều cuộc vận động nhằm thu hút nguồn lực từ nhân dân và cộng đồng
người Việt ở nước ngoài tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và
được nhân dân đồng tình ủng hộ như phát động phong trào xóa đói giảm nghèo,
trợ giúp các dân tộc vùng sâu vùng xa, rút ngắn khoảng cách thành thị - nông
thôn miền xuôi - miền ngược, chương trình 135,167 của chính phủ, “Quỹ vì
người nghèo”, “Góp đá xây Trường Sa”, “Quỹ vì Trường Sa thân yêu”. Tất cả
các chương trình và phong trào ấy đều thể hiện tính nhân văn sâu sắc của dân
tộc, lịng nhân, vị tha, tinh thần tương thân tương ái của dân tộc. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ V Đảng ta đã khẳng định: Người Việt Nam vốn có lịng
u nước thiết tha, có tinh thần dân chủ, bình đẳng trong quan hệ giữa người
với người. “Thương nước - thương nhà, thương người - thương mình” là truyền
thống đậm đà của nhân dân ta. Nhờ có tinh thần yêu nước và dân chủ ấy mà

trong suốt quá trình lịch sử bốn ngàn năm, dân tộc ta đã làm nên những chiến
công oanh liệt.
Tuổi trẻ Ninh Thuận hôm nay, luôn phát huy tinh thần ấy bằng các
chương trình, các cuộc vận động của tổ chức mình thực hiện có hiệu quả cơng
tác an sinh xã hội như các phong trào “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp
nghĩa”, chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình thương binh liệt sĩ,
giúp đỡ những người già cả neo đơn không nơi nương tựa, “cảm hóa giáo dục


22

phạm nhân trong độ tuổi thanh niên và giúp đỡ họ tái hòa nhập cộng đồng”.
Đồng thời, tăng cường giáo dục cho thanh niên theo phương châm “mình vì
mọi người, mọi người vì mình”, “quyên mình vì nghĩa lớn”. Các phong trào ấy
đã khơi dậy tình thần xung kính, tình nguyện, tinh thần vuợt khó vươn lên và
hành động vì nghĩa cử cao đẹp của tuổi trẻ góp phần thực hiện các chính sách
an sinh xã hội và thực hiện công tác xã hội.
1.1.2.3. Yêu lao động, phát huy truyền thống hiếu học, cần cù và sáng tạo
Yêu lao động và cần cù là một trong những đức tính nổi bật của người
Đơng Á, trong đó có Việt Nam. Từ rất sớm, dân tộc Việt Nam đã phải chống
chọi lại những điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt cùng với nạn ngoại
xâm giày xéo liên miên. Q trình đó đã rèn luyện cho người lao động đức tính
cần cù “một nắng, hai sương” và tiết kiệm trong sinh hoạt để duy trì cuộc sống
và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh “ăn cơm bằng đèn, đi cấy sáng trăng”,
“cày đồng đang buổi ban trưa”, hay “tát nước đêm trăng” đã trở nên quá đỗi
quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Đó khơng chỉ là những hình ảnh đẹp,
mà cịn thể hiện đức tính cần cù, u lao động của nhân dân ta.
Tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm đó cũng là một giá trị đạo đức nổi bật
trong hệ giá trị của dân tộc Việt Nam. Thực ra, để kiến tạo ra của cải vật chất thì
bất cứ dân tộc nào cũng phải lao động, cũng phải chịu khó, và họ cũng có thể tự

hào về những thành quả đã tạo dựng được của mình, nhưng dân tộc Việt Nam
lại là một trường hợp đặc biệt. Bởi lẽ, Việt Nam là một nước có nền văn minh
nông nghiệp lâu đời. Lao động nông nghiệp là loại hình lao động vất vả, cần
nhiều thời gian, cơng sức mới có hạt gạo, bát cơm để ăn. Hơn nữa, thiên nhiên
lại quá nhiều nắng gió, mưa bão mà nhiều khi, mùa nắng thì hạn cháy đồng,
mùa mưa lại lũ lụt. Quanh năm suốt tháng, người dân Việt Nam phải lo đắp đập,
đào mương lấy nước tưới, đắp đê phòng chống bão lụt (Việt Nam có hàng ngàn
km đê, điều được làm mãi qua hàng chục thế kỷ). Theo giáo sư Trần Văn Giàu,


23

những người nước ngoài đến Việt Nam đều hết sức ngạc nhiên khi thấy mọi cơ
năng của con người Việt Nam đều được dùng để làm việc: đầu đội, vai gánh,
lưng cõng, tay nhanh nhẹn và khéo léo, chân chạy như bay. Ngồi sự khéo léo,
đó cịn là một minh chứng cho sự cần cù, chịu khó của người Việt Nam.
Hơn nữa, dân tộc Việt Nam lại luôn chịu sự xâm lăng của các thế lực bên
ngoài. Bất cứ cuộc xâm lăng nào, bên cạnh nhiều lý do khác, cũng đều là sự
cướp bóc của cải, phá hoại mùa màng sản xuất. Do đó, để khắc phục hậu quả,
nhân dân Việt Nam khơng cịn cách nào hơn là phải lao động cần cù.
Như thế, đầu tiên, lao động cần cù như một yêu cầu tất yếu để đảm bảo cho
sự sinh tồn của dân tộc. Sau đó, trong sự đấu tranh gian khổ với thiên nhiên, với
cuộc sống luôn bị kẻ thù xâm lăng, lao động cần cù đã trở thành một phẩm chất
đạo đức không thể thiếu đối với con người Việt Nam.
Ước vọng về một đức tính lao động cần cù đã được thể hiện nhiều trong
dân gian Việt Nam. Người Việt luôn nhắc nhở với nhau rằng, “năng nhặt chặt
bị”, “kiến tha lâu đầy tổ”. Người ta cũng thường phê phán thói “ăn khơng ngồi
rồi”, bởi với họ, “nhàn cư vi bất thiện”.
Lao động cần cù của người Việt Nam luôn gắn với tiết kiệm, bởi lẽ, “buôn
tàu buôn bè không bằng ăn dè hà tiện”, “khi có mà khơng ăn dè, đến khi ăn dè

chẳng có mà ăn”.
Cùng với truyền thống yêu lao động và đức tính cần cù thì truyền thống
hiếu học là một truyền thống trong giáo dục của người Việt Nam từ xưa đến
nay. Có thể nói, ngay từ xa xưa con người đã sớm nhận thức được học hành
không chỉ là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ của mỗi cá nhân. Chính vì vậy,
người xưa thường nói: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri đạo”
(Viên ngọc khơng mài dũa thì khơng thành đồ dùng được, con người khơng học
thì khơng biết đạo) và: “Hiếu nhân, bất hiếu học kỳ tế dã ngu” (Kể cả những


24

người mong muốn làm điều nhân đức chí thiện nhưng khơng học thì cũng bị sự
ngu dốt che lấp đi).
Nhằm phát huy truyền thống hiếu học, tôn trọng hiền tài, nên ngay từ xưa,
ơng cha ta đã biết chăm sóc, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Văn Miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) là kiểu trường đại học quốc lập đầu tiên ở Việt Nam
được thành lập, để đào tạo nhân tài. Trong bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, hiệu Đại
Bảo thứ ba năm 1442 ở Văn Miếu (Hà Nội) cịn ghi: Hiền tài là ngun khí của
Nhà nước, ngun khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, ngun khí kém thì thế
nước yếu và suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương không ai không chăm
lo việc gây dựng nhân tài, bồi đắp nguyên khí.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa
thế giới ln ln quan tâm và coi trọng giáo dục. Cả cuộc đời và sự nghiệp
của Người cũng chỉ phấn đấu cho một mục đích tối cao là làm sao để: Ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Bác đã đặt hy vọng vào lớp trẻ mai
sau, Bác căn dặn: “Non sông ta có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc ta có
bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc, năm châu được hay
khơng chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”[41, tr.35].
Cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên độc lập tự do. Mọi cơng dân đều có điều kiện bình đẳng để

thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ học tập. Mọi tầng lớp người Việt Nam đã hăng
hái tham gia chiến đấu và học tập theo lời kêu gọi của Đảng của Bác Hồ. Tháng
10-1945, Chính phủ thành lập “Hội đồng cố vấn học chính” để nghiên cứu
chương trình cải cách giáo dục. Từ đó, ngành giáo dục nói chung, giáo dục đào
tạo đại học, cao đẳng nói riêng, của đất nước ta ngày càng phát triển.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta ý thức một cách đầy đủ chủ
trương “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện


25

để phát huy nguồn lực con người. Việc phát huy truyền thống hiếu học, tôn
trọng người hiền tài càng trở nên có ý nghĩa, tơn trọng trí thức, tơn trọng nhân
tài, tôn trọng sáng tạo trên cơ sở, nền tảng đạo đức trong sáng. Trong những
giải pháp lớn xây dựng và phát triển văn hóa Đảng ta nêu rõ: Quan tâm giáo
dục lý tưởng, đạo đức và lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ. Có chính sách trọng
dụng người tài.
1.1.2.4. Lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước và quy ước cộng đồng
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là cái gốc của xã hội, của con người; đạo
đức là nền tảng để hình thành và xây dựng lối sống mới của con người mới
trong xã hội mới. Người cho rằng, đạo đức là những quy tắc, những chuẩn mực
phù hợp với cuộc sống, được con người và cộng đồng thừa nhận nhằm điều hòa
quan hệ giữa người với người trong q trình phát triển xã hội. Cịn lối sống là
cái biểu hiện bên ngoài, là hệ quả trực tiếp của đạo đức. Trong thực tế, các quan
điểm lối sống, lẽ sống của dân tộc, cộng đồng cũng chính là quan điểm, giá trị
văn hóa đạo đức của dân tộc, của cộng đồng và ngược lại. Và những chuẩn mực,
những khuôn mẫu đạo đức khi đã trở thành nếp, thành thói quen, tập qn xã hội
thì đó chính là lối sống của một cộng đồng, một cá nhân.

Hồ Chí Minh chú ý đến việc xây dựng, giáo dục lối sống, nếp sống phù hợp
với từng đối tượng: cá nhân, gia đình, nhóm xã hội, làng xã, trường học, cơng
sở... Đó chính là cách để tư tưởng, quan niệm về lối sống và phương thức thực
hành lối sống nhanh chóng thấm sâu, lan rộng vào các tầng cơ bản của cấu trúc
xã hội, theo hướng cái tốt hoặc cái cũ mà tốt phải được phát huy, cái xấu thì nhất
quyết phải bỏ; cái cũ không hẳn xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho phù
hợp. Vì thế, cải sửa thói quen, tập tục, tập quán, xây dựng lối sống mới là một
cơng việc hết sức khó khăn, phức tạp, cần phải thực hiện kiên trì, thường xuyên,
tự giác, có nguyên tắc, chuẩn mực; có biện pháp cụ thể, phù hợp. Nguyên tắc


×