Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Thai chậm tăng trưởng trong tử cung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.24 KB, 13 trang )

Thai chậm tăng trưởng trong tử cung

THAI CHẬM TĂNG TRƯỞNG TRONG TỬ CUNG
GVHD : PGS.TS Trần Thị Lợi
HV: BS Trịnh Hoài Ngọc
Mục tiêu:
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Định nghĩa được thai chậm tăng trưởng trong tử cung (TCTTTTC).
Trình bày sinh lý bệnh TCTTTTC.
Phân biệt TCTTTTC đối xứng và bất đối xứng.
Biết được các yếu tố nguy cơ của TCTTTTC.
Lâm sàng - cận lâm sàng chẩn đốn TCTTTTC.
Nêu được ngun tắc xử trí TCTTTTC.
ĐẶT VẤN ĐỀ
• Thai chậm tăng trưởng trong tử cung hiện vẫn làmột trong những
nguyên nhân hàng đầu làm tăng bệnh suất và tử suất chu sinh.
• Chiếm tỉ lệ cao:
- Thống kê tại Mỹ 1997: Tỉ lệ trẻ nhẹ cân lúc sanh là 8% trong đó
16% có suy dinh dưỡng bào thai.
- Tại Việt Nam, theo Vụ Sức Khỏe Bà Mẹ Trẻ Em 2005: Tỉ lệ trẻ
<2500gr lúc sanh là 6% trong đó thai chậm tăng trưởng trong tử
cung chiếm 25%.
• Nhiều biến chứng và di chứng nặng nề.

Liên quan giữa trọng lượng thai với


bệnh suất và tử suất của 1560 trẻ sơ
sinh có trọng lượng dưới đường bách
phân vị thứ 10
(Theo Manning 1995)

1. ĐỊNH NGHĨA: Thai chậm tăng trưởng được định nghĩa là khi trọng lượng
của thai dưới đường bách phân vị thứ 10 của tuổi thai. Tuy nhiên định nghĩa
Lớp nội trú sản phụ khoa 2010-2013

Page1


Thai chậm tăng trưởng trong tử cung
này không giúp ta phân định được giữa những thai nhỏ, chậm tăng trưởng và
nhỏ, chậm tăng trưởng nhưng không nhỏ.
●SGA (small for gestational age): ước lượng cânthai ●IUGR (intrauterine growth restriction): SGA + thiếu oxy máu mạn hoặc
suy dinh dưỡng.
Những thai nhẹ cân hơn so với tuổi thai (SGA) có thể do chậm phát triển
hoặc cũng có thể nhẹ cân đơn thuần. Khoảng 70% thai nhi có trọng lượng
nhỏ hơn đường bách phân vị thứ 10 so với tuổi thai là nhẹ cân đơn thuần.
VD: thai giới tính nữ, dân tộc hoặc chỉ số khối cơ thể… Những trẻ này
không có nguy cơ cao bệnh suất và tử suất chu sinh.
Thai phát triển bình thường: phản ánh sự tương tác giữa khả năng phát triển
bình thường đã được quy định sẵn trong bộ gen của thai nhi và sự điều hoà tăng
trưởng thai bởi sức khoẻ thai nhi, nhau và mẹ.

Đường cong tăng trưởng thai theo tuổi
ở 3,134,879 trẻ sơ sinh đơn thai tại Mỹ
(Theo Alexander 1996)


2. SINH LÝ BỆNH
Lớp nội trú sản phụ khoa 2010-2013

Page2


Thai chậm tăng trưởng trong tử cung
Suy dinh dưỡng bào thai là nguồn gốc của suy thai trường diễn, thai kém phát
triển hoặc thai chậm tăng trưởng trong tử cung.
Cơ chế gây suy dinh dưỡng bào thai
Dinh dưỡng bào thai phụ thuộc vào sự chuyển tải các chất dinh dưỡng từ mẹ
đến bánh nhau, sự trao đổi tại nhau, sự hấp thu và chuyển hóa của thai nhi. Do
đó cơ chế gây suy dinh dưỡng bào thai có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Trước nhau: do nhữngrối loạn tuần hồn của mẹ, có thể tại chỗ hoặc tồn thân
(rối loạn cơn co tử cung, tụt huyết áp, thiếu máu, suy tim, suy hô hấp, cao huyết
áp…).
Tại bánh nhau: gồm những thay đổi ở màng nhau, trao đổi của bánh nhau,
diện tích, bề dày màng, tính thấm của màng trong những thai kỳ bệnh lý (cao
huyết áp, thai quá ngày, tiền sản giật…).
Sau nhau: gồm những bất thường ở dây rốn (sa dây rốn, dây rốn thắt nút, dây
rốn bị chèn ép, những bất thường bẩm sinh…), hoặc ở thai nhi (thiếu máu do
mẹ mất máu trong nhau tiền đạo, nhau bong non, hoặc tán huyết trong bất đồng
nhóm máu Rhesus…).
Sự xâm lấn của tế bào nuôi vào động mạch xoắn của tử cung:
Đây là một cơ chế quan trọng giải thích sự gia tăng đáng kể lượng máu đến
ni dưỡng thai nhi. Máu mẹ cung cấp sự nuôi dưỡng cho nhau, thai qua động
mạch tử cung với những nhánh tận cùng là động mạch xoắn. Sau khi phôi thai
làm tổ, máu đến phôi thai gia tăng, và các động mạch xoắn chịu một sự thay đổi
sâu sắc. Các tế bào nuôi xâm lấn vào động mạch xoắn, tiêu hủy lớp cơ và tổ

chức đàn hồi của mạch máu, nên cuối cùng thành tiểu động mạch xoắn chỉ cịn
được lót bằng một chất giống fibrin và tế bào nuôi. Tiến trình này diễn ra qua
hai giai đoạn:
Giai đoạn đầu: xảy ra ngay từ khi phôi thai làm tổ, kéo dài vài tuần, tế bào
nuôi xâm lấn đến phần động mạch xoắn nằm trong màng rụng.
Giai đoạn hai: bắt đầu từ khi thai được 14-16 tuần và kéo dài trong 4 tuần. Tế
bào nuôi xâm lấn vào thành động mạch xoắn sâu hơn, đến một phần động mạch
xoắn nằm trong lớp cơ tử cung. Nhờ đó, động mạch xoắn bị xâm lấn sâu hơn,
Lớp nội trú sản phụ khoa 2010-2013

Page3


Thai chậm tăng trưởng trong tử cung
tạo thành một vùng có tuần hồn với lưu lượng máu lớn và áp lực thấp trái
ngược với tình trạng trước khi có thai, tuần hoàn với lưu lượng máu thấp và áp
lực cao. Những gai nhau nằm ngập trong máu, trao đổi oxy và các chất dinh
dưỡng từ mẹ sang con. Lưu lượng máu tăng đáng kể từ khoảng 50ml/phút trong
3 tháng đầu thai kỳ lên 500ml/phút trong 3 tháng cuối thai kỳ. Trong hai trường
hợp: thai bị giới hạn phát triển trong tử cung và cao huyết áp do thai, quá trình
xâm lấn động mạch xoắn diễn ra không đầy đủ nên chức năng của bánh nhau bị
suy kém.

Ảnh hưởng của suy dinh dưỡng lên sự tăng trưởng của thai nhi, bao gồm
những ảnh hưởng lên sự tăng trưởng về trọng lượng và kích thước của thai.
3. SUY DINH DƯỠNG ĐỐI XỨNG VÀ BẤT ĐỐI XỨNG
Sự tăng trưởng của thai gồm 3 thời kỳ
3.1Thời kỳ thứ nhất: là thời kỳ tăng sinh nghĩa là tăng số lượng tế bào. Nếu
suy dinh dưỡng xảy ra vào thời kỳ này sẽ làm thai rất nhỏ (vì số tế bào rất
Lớp nội trú sản phụ khoa 2010-2013


Page4


Thai chậm tăng trưởng trong tử cung
ít), thường đưa đến sẩy thai, hoặc sinh ra một thai bị giới hạn tăng
trưởngtrong tử cung loại đối xứng(symmetrical growth restriction).
Nguyên nhân của tình trạng này là do các vấn đề bẩm sinh: nhiễm siêu vi,
bất thường nhiễm sắc thể, di truyền.
3.2Thời kỳ thứ hai: là thời kỳ phì đại tế bào (mặc dù tế bào vẫn tiếp tục
tăng số lượng nhưng với mức độ chậm lại, chủ yếu là tế bào to ra). Nếu
suy dinh dưỡng xảy ra trong thời kỳ này thì số tế bào khơng giảm nhiều
nhưng kích thước tế bào giảm đáng kể.
3.3Thời kỳ thứ ba: là thời kỳ phì đại tế bào đơn thuần. Suy thối chức năng
bánh nhau trong thời kỳ này sẽ làm kích thước tế bào một cách nghiêm
trọng, hậu quả là sẽ sinh ra một thai bị giới hạn phát triển trong tử cung
loại khơng đối xứng (asymmetrical growth restriction).
Nếu tình trạng suy thai xảy ra trước tuần 32-34: thai suy dinh dưỡng loại
đối xứng, sau 34 tuần: thai suy dinh dưỡng loại bất đối xứng.
Sự tổng quát hóa quan niệm về sinh lý bệnh giải thích nguyên nhân một thai
giới hạn phát triển trong tử cung loại đối xứng và không đối xứng là do thời
điểm xuất hiện các tác nhân như trên có vẻ hợp lý. Tuy nhiên vẫn có những
bằng chứng rõ ràng cho thấy sự phát triển của thai nhi phức tạp hơn nhiều.
Nicolaides và cộng sự (1991) ghi nhận những trường hợp thai nhi thiếu một
nhiễm sắc thể thường có kích thước đầu lớn khơng cân xứng với thân mình
do đó thành ra loại khơng đối xứng (FGR?). Tương tự, một số lớn những
thai nhi non tháng bị giới hạn phát triển do tiền sản giật gây suy giảm tưới
máu nhau thai lại bị giới hạn phát triển kiểu đối xứng.
Trong tình trạng suy yếu bánh nhau, cũng giống như trong tình trạng bị
chống, cơ thể sẽ có sự tái phân phối máu, dồn máu cho ba cơ quan trọng

yếu là tim, não và tuyến thượng thận, những cơ quan khác sẽ bị co mạch,
thiếu máu (thí dụ: thận bị thiểu niệu, ruột bị hoại tử…).
Ảnh hưởng của suy dinh dưỡng lên biến dưỡng của thai
Các chất dinh dưỡng bao gồm glucose, aminoacid, lipid, sinh tố, chất
khoáng, oxy và nước.
Biến dưỡng glucose
Lớp nội trú sản phụ khoa 2010-2013

Page5


Thai chậm tăng trưởng trong tử cung
Glucose qua nhau bằng cách khuếch tán, có nghĩa là nhau cho phép glucose
từ mẹ qua một cách dễ dàng, do đó thai nhi nhận liên tục glucose của mẹ mà
không bị ảnh hưởng bởi nồng độ insulin của mẹ. Glucose sẽ được chuyển
hóa thành glycogen và được dự trữ tại nhau, gan, tim,phổi, cơ bắp. Glucose
là nguồn năng lượng chính của thai, glycogen đóng vai trị dự trữ năng
lượng để dùng trong trường hợp thai bị thiếu oxy. Thai non tháng và thai
kém phát triển có lượng glycogen dự trữ thấp nên chịu đựng rất kém với tình
trạng thiếu oxy.
Biến dưỡng aminoacid
Các aminoacid qua nhau một cách chủ động, không phụ thuộc vào sự chênh
lệch nồng độ giữa mẹ và thai nhi. Thai nhi có khả năng tổng hợp trực tiếp
protein từ aminoacid của mẹ. Thai suy dinh dưỡng do thiếu aminoacid là do
khả năng vận chuyển của bánh nhau chứ không phải do mẹ bị suy dinh
dưỡng.
Biến dưỡng lipid
Thai nhi có đủ các men để tổng hợp lipid từ acid béo và glucose từ rất sớm.
Việc lấy acid béo và cholesteron từ mẹ thông qua bánh nhau chưa được hiểu
rõ.

Thai bị suy trường diễn có dự trữ lipid giảm ở mọi cơ quan (trừ trong trường
hợp mẹ bị tiểu đường, thai nhi bị mập phì là do tăng sinh các đảo
Langerhans của tụy thai). Giảm dự trữ lipid có nghĩa là giảm dự trữ năng
lượng, giảm khả năng bảo vệ chống mất calo, ngưng sản xuất surfactant ở
phổi gây suy hô hấp lúc sanh.
Ảnh hưởng của suy dinh dưỡng lên huyết động học thai nhi
Sự thiếu oxy mãn tính ở trung tâm điều hòa cao cấp gây nên những thay đổi
ở nhịp tim thai. Nhịp tim thai trở nên gần phẳng hoặc phẳng, báo động cái
chết của thai nhi trong vòng 10-15 ngày tới.
Ảnh hưởng của suy dinh dưỡng trên chức năng nội tiết của nhau
Các nội tiết sau đây được sản xuất nhờ nhau và thai: estrogen, progesterone,
HPL và hCG. Trong suy thai trường diễn, hoạt động sản xuất các nội tiết tố
Lớp nội trú sản phụ khoa 2010-2013

Page6


Thai chậm tăng trưởng trong tử cung
này đều giảm nên việc định lượng các yếu tố nội tiết này có thể dùng để theo
dõi tình trạng suy thai trường diễn. Tuy nhiên, phương pháp này cầu kỳ, ít
chính xác nên ngày nay khơng cịn được sử dụng nữa.
4. NGUN NHÂN VÀ YẾU TỐ NGUY CƠ
Thai chậm tăng trưởng trong tử cung (IUGR) là thuật ngữ dùng để chỉ một thai
nhi khơng đạt được khả năng tăng trưởng của mình do các yếu tố di truyền hoặc
môi trường. Nguyên nhân của sự chậm tăng trưởng này có thể do các nhân tố từ
bản thân thai, từ nhau thai, từ mẹ hoặc kết hợp các yếu tố trên. IUGR khơng
dùng để nói về một thai tuy nhỏ hơn bình thường nhưng hồn toàn khoẻ mạnh.
Xác định nguyên nhân của sự chậm tăng trưởng này không phải luôn luôn làm
được nhưng điều này thực sự cần thiết để lượng giá nguy cơ tái phát.
4.1 Yếu tố thai nhi

4.1.1 Di truyền: các nghiên cứu về cân nặng của dân số qua các thế hệ cho thấy
rằng yếu tố di truyền chiếm 30-50%, còn lại là do yếu tố môi trường. Mặc dù cả
hai bộ gen bố mẹ đều có ảnh hưởng nhưng bộ gen của mẹ lại có ảnh hưởng đến
cân nặng nhiều hơn bộ gen của bố.
Theo nghiên cứu về dịch tễ, những phụ nữ khi sinh ra nhẹ cân so với tuổi thai
(SGA) sẽ làm tăng nguy cơ suy dinh dưỡng bào thai lên gấp 2 lần. Phụ nữ đã
từng mang thai chậm phát triển sẽ có nguy cơ tái phát cao, nguy cơ này gia tăng
cùng với số lần mang thai chậm phát triển trong tử cung.
Bất thường nhiễm sắc thể chiếm đến 20% các thai kì FGR và thường diễn ra
trong giai đoạn sớm của thai kì. Khoảng ¼ thai chậm phát triển ở giai đoạn sớm
có liên quan đến bất thường nhiễm sắc thể. Hầu hết các trường hợp là suy dinh
dưỡng có đối xứng nhưng suy dinh dưỡng bất đối xứng trong giai đoạn sớm
cũng có thể xảy ra.
Bất thường nhiễm sắc thể liên quan đến FGR bao gồm:
- Lệch bội ( trisomy 18 hoặc 13, Hội chứng Turner 45X, triloidy).
- Mất đoạn ( hội chứng Cri du chat 5q: mất đoạn NST số 5 hay còn gọi
là hội chứng cat ‘s cry, hội chứng Wolf-Hirschhorn: mất đoạn NST số
4).
Lớp nội trú sản phụ khoa 2010-2013

Page7


Thai chậm tăng trưởng trong tử cung
- Nhiễm sắc thể dạng vòng.
- Uniparental disomy: do bất thường trong giai đoạn giảm phân I hoặc
giảm phân II, mà cơ thể con nhận hai copy NST từ bố hoặc mẹ và
không nhận bản copy NST nào từ người còn lại.
- Nhau bất thường thể khảm: bất thường NST tìm thấy trong các tế bào
của nhau thai nhưng thai nhi không bị ảnh hưởng gì.


- Đột biến gen (vd: đột biến gen tổng hợp IGF- Insulin like factor).
- Genomic impringting: di truyền từ bộ gen của cha hoặc mẹ.
4.1.2 Dị tật bẩm sinh: đa số các dị tật bẩm sinh có liên quan đến sự tăng
trưởng khơng bình thường của thai nhi và thường có sự liên quan giữa bất
thường NST và FGR.

4.1.3 Đa thai (multiple gestation): Sự tăng trưởng của thai có liên quan đến
số lượng thai trong tử cung, loại nhau (1 hay 2 nhau?). Sự tăng trưởng của
thai giai đoạn đầu cũng giống như đơn thai nhưng đến tam ca nguyệt thứ ba
thì chậm lại. Trọng lượng thại nhi thấp trong đa thai có liên quan đến nhu
cầu dinh dưỡng của thai cao hơn, cũng như biến chứng khi mang đa thai
(VD: suy dinh dưỡng bào thai, tiền sản giật, hội chứng truyền máu cho nhau,
các bất thường bẩm sinh…). Bất thường nhau và dây rốn cũng ảnh hưởng
đến sự tưới máu, phổ biến trong các trường hợp đa thai.
Lớp nội trú sản phụ khoa 2010-2013

Page8


Thai chậm tăng trưởng trong tử cung

4.1.4 Nhiễm trùng: Nhiễm trùng trong giai đoạn sớm của thai kì ảnh hưởng
lớn đến các giai đoạn phát triển tiếp theo, nhưng chỉ chiếm <5% các case
FGR. Virus và ký sinh trùng (vd: Rubella, Cytomegalovirus, Varicella
Zoster virus, Herpes, Toxoplasma, sốt rét, giang mai) có thể truyền qua thai
nhi qua các màng và làm giảm sự tăng trưởng của thai nhi (VD: làm chết tế
bào, suy giảm cung cấp máu). Ở các nước phát triển CMV là loại virus
thường gặp nhất gây hội chứng FGR. Mặc dù có ít bằng chứng về sự liên
quan giữa nhiễm khuẩn và FGR nhưng cũng đã có báo cáo các bà mẹ nhiễm

listeria, lao, chlamydia và mycoplasma làm tăng nguy cơ FGR.
4.2 Yếu tố về nhau thai: nhiều trường hợp FGR là kết quả sự thiếu máu
nhau thai. Thuật ngữ này dùng để chỉ một chuỗi bệnh lý của nhau thai như
tiền sản giật, FGR, hoặc kết hợp các rối loạn khác. Tất cả các rối loạn trên
liên quan đến biến chứng sanh non, sẩy thai và biểu hiện chậm phát triển từ
giai đoạn sớm của thai kì do sự phát triển bất thường của nhau thai.
Thương tổn đại thể và vi thể (mô học)
Thai nhi nhạy cảm với việc giảm khối lượng của nhau, trọng lượng khối
nhau của thai nhi chậm tăng trưởng nhỏ hơn thai bình thường cùng tuổi thai
24%. Tuy nhiên, chức năng của nhau thai không thể đánh giá đơn lẻ dựa vào
trọng lượng hay kích thước. Nhau thai phát triển khơng bình thường, có tổn
thương nhu mơ hoặc mạch máu, sự giảm cung cấp máu từ mẹ cho nhau sẽ
Lớp nội trú sản phụ khoa 2010-2013

Page9


Thai chậm tăng trưởng trong tử cung
làm suy yếu chức năng bánh nhau. Đơi khi cũng có thể do một số rối loạn từ
mẹ (VD: mẹ suy dinh dưỡng trầm trọng hoặc nghiện rượu) cũng có ảnh
hưởng đến dinh dưỡng cho thai mà không gây ra một tổn thương về mô bệnh
học nào.
Các bất thường của mô học nhau thai liên quan đến việc giảm cung cấp chất
dinh dưỡng cho thai bao gồm: bất thường mạch máu tử cung- nhau ( dị dạng,
tắc nghẽn hoặc rối loạn), bong tách bánh nhau mãn tính, nhiễm trùng mãn
tính (VD: viêm gai nhau mãn tính khơng rõ ngun nhân, nhiễm trùng gai
nhau), lắng đọng fibrin ngoài gai nhau, huyết khối tử cung- nhau. Viêm gai
nhau mãn tính lan toả khơng rõ ngun nhân là dạng thường gặp nhất trong
FGR tự phát.
Bất thường về đại thể của nhau thai liên quan đến FGR bao gồm: chỉ có 1

động mạch rốn, dây rốn bám màng, bánh nhau 2 thuỳ, nhau bám mép, nhau
tiền đạo, u mạch nhau thai.
Thể khảm có giới hạn ở nhau (CPM): là tình trạng thể khảm nhiễm sắc
thể (thường là trisomy) ở nhau thai nhưng khơng tìm thấy ở thai nhi. Khoảng
10% nhau thai có liên quan đến FGR có thể khảm ở nhau thai. Mức độ FGR
phụ thuộc vào NST bất thường, tỉ lệ các tế bào khảm, sự hiện diện của
disomy uniparental.
Nhau thai có thể khảm có tỉ lệ bị nhồi máu nhau và bệnh mạch máu của
màng rụng cao. Tuy nhiên, số liệu cho thấy sự phát triển sau này của trẻ là
bình thường.
4.3 Yếu tố từ mẹ
4.3.1 Giảm lưu lượng tưới máu tử cung- nhau: do sự phát triển bất thường
của các mạch máu, làm tắc nghẽn hoặc gián đoạn cấp máu tử cung nhau.
Các bà mẹ có các vấn đề như tăng huyết áp, bệnh collagen mạch máu, lupus
ban đỏ hệ thống, hội chứng antiphospholipid, các bệnh lý sản khoa như: tiền
sản giật… liên quan đến các bất thường về mạch máu, giảm thể tich máu đến
tưới máu tử cung nhau và kết quả là trẻ mắc FGR. Trong tiền sản giật, các tế
bào lá nuôi của trophoblast không xâm lấn vào các động mạch xoắn ốc của

Lớp nội trú sản phụ khoa 2010-2013

Page10


Thai chậm tăng trưởng trong tử cung
tử cung được, kết quả là sự kém giãn nở của các mạch máu này, gây ra các
bệnh về mạch máu cấp tính, tắc nghẽn và nhồi máu.
4.3.2 Giảm lượng calori: cân nặng của mẹ khi sinh, trước khi mang thai và
tăng cân trong thai kì ảnh hưởng 10% trọng lượng của thai nhi. Tuy nhiên,
sự thiếu dinh dưỡng nghiêm trọng của mẹ khi mang thai có tác động rất lớn

đến sự tăng trưởng. Ví dụ, dân số Hà Lan bị nạn đói trầm trọng trong mùa
đơng 1944-1945, có nghĩa là mẹ hấp thụ lượng calo giảm xuống 450-750
kcal / ngày, trọng lượng trung bình trẻ sơ sinh ra đời trong thời gian này
giảm 250 gram. Tương tự, tại Leningrad trong Chiến tranh Thế giới II, kết
quả của sự đói trong một thời gian dài (giảm tới 300 kcal, chủ yếu là tinh bột
và protein khơng có), trọng lượng trung bình của trẻ sinh ra giảm cân hơn
500 gram.
Phụ nữ thiếu cân khi bắt đầu mang thai và tăng cân ít trong thai kì, kém hấp
thu các chất dinh dưỡng khi mang thai có nguy cơ cao sinh ra trẻ có trọng
lượng dưới 2500g, liên quan đến sự hạn chế tăng trưởng trong tử cung.
4.3.3 Thiếu Oxy mãn tính: thai phụ thiếu oxy mãn tính do các bệnh về
phổi, tim hoặc thiếu máu nặng có liên quan đến sự giảm tăng trưởng của
thai. Ví dụ, một nghiên cứu của 96 mang thai có bệnh tim bẩm sinh (xanh
tím) kết quả trọng lượng trung bình của trẻ sơ sinh đủ tháng chỉ 2.575 gram,
thấp hơn đáng kể so với trọng lượng sơ sinh trung bình là 3500 gram
Độ cao của nơi cư trú cũng ảnh hưởng đến cân nặng của trẻ lúc sinh do ảnh
hưởng đến nồng độ oxy trong máu mẹ- kết quả của sự thiếu oxy mãn tính.
Một mối quan hệ trực tiếp giữa độ cao nơi cư trú và cân nặng trẻ lúc sinh
thấp hơn đã được chứng minh trong các nghiên cứu thực hiện ở Denver và
Leadville, Colorado (độ cao tương ứng là 1600m và 3100m), Tây Tạng (độ
cao 3.658 m), và Peru. Dữ liệu về trọng lượng thai lúc sinh từ 15 khu vực ở
Peru (bất cứ nơi nào trên mực nước biển 4.575 mét) cho thấy cứ tăng 500m
lạigiảm trung bình của 65 gram. Phụ nữ mang thai ở Cerro de Pasco, Peru
(độ cao 4370 m) có cung lượng tim thấp hơn 31 % tim và cân nặng lúc sinh
thấp hơn 11 %so với phụ nữ mang thai sống ở mực nước biển (trọng lượng
trẻ tương ứng lúc sinh là 2935 và 3290 gram).

Lớp nội trú sản phụ khoa 2010-2013

Page11



Thai chậm tăng trưởng trong tử cung
4.3.4 Các rối loạn về huyết học và miễn dịch: VD như bệnh hồng cầu hình
liềm có thể gây huyết khối ở khoảng gian gai nhau. Các rối loạn tự miễn
( như antiphospholipid) gây viêm gai nhau mã tính, một bệnh về mạch máu
và di chứng là suy dinh dưỡng và thiếu máu đến thai.
4.3.5 Các chất sử dụng và thuốc lá: các chất mà mẹ sử dụng như rượu,
thuốc lá, ma tuý… có thể gây FGR bằng cách gây độc trực tiếp lên tế bào
hoặc gián tiếp như ảnh hưởng đến việc cung cấp chất dinh dưỡng cho
thai.Hút thuốc trong tam cá nguyệt thứ ba có ảnh hưởng lớn đến trọng lượng
trẻ sơ sinh.Phụ nữ bỏ thuốc trong tam cá nguyệt thứ ba sinh ra trẻ có trọng
lượng tương tự với bà mẹ khơng hút thuốc. Phụ nữ tiếp xúc với khói thuốc lá
của môi trường làm tăng nguy cơ sinh trẻ nhẹ cân.
4.3.6 Chất độc: tiếp xúc với chất độc hại, kể cả thuốc như: wafarin, thuốc
chống co giật, chống ung thư, thuốc đối kháng acid folic có thể gây FGR.
Người ta khơng biết rõ liệu FGR ở phụ nữ có tăng huyết áp là do bệnh hay
do sử dụng thuốc.
Lượng caffein sử dụng cũng có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của thai nhi
nhưng khơng có ngưỡng sử dụng rõ ràng.
Liều bức xạ trong điều trị có thể ảnh hưởng vĩnh viễn đến sự tăng trưởng của
thai. Xạ trị vùng chậu trước khi mang thai có thể làm thay đổi cấu trúc các
mạch máu vùng chậu, làm giảm tưới máu nhau thai và hạn chế tăng trưởng.
4.3.7 Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản: đơn thai trong hỗ trợ sinh sản có tỉ lệ trọng
lượng thai thấp và trọng lượng nhỏ hơn tuổi thai (SGA) nhiều hơn so với
thai kì bình thường.
4.3.8 Dị dạng tử cung: tử cung dị dạng có thể ảnh hưởng đến tưới máu nhau
thai và gây FGR.
Tải bản FULL (file doc 27 trang): bit.ly/2YxLNzc
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net

5. Các nguyên nhân khác: FGR cũng phổ biến ở những thai kì có mẹ ở 2
cực của tuổi sinh sản.
Khoảng cách giữa 2 lần mang thai ngắn cũng ảnh hưởng đến cân nặng lúc
sinh và FGR, có lẽ là do thiếu tương đối acid folic.

Lớp nội trú sản phụ khoa 2010-2013

Page12


Thai chậm tăng trưởng trong tử cung
Mẹ bị stress mãn tính cũng có thể là một yếu tố, liên quan đến sự gia tăng
mức corticotropin (CRH), làm giảm sự phát triển của thai và gây sanh non.
Tóm lại:
- Thai chậm phát triển trong tử cung có thể do nhau, do thai, do mẹ,
thường có sự kết hợp của nhiều yếu tố.
- Bất thường NST chiếm khoảng 20% các trường FGR. Thai chậm phát
triển thường kèm theo các dị tật bẩm sinh.
- Mẹ có tiền sử FGR hoặc đã từng sinh trẻ mắc FGR có nguy cơ tái phát
sinh trẻ FGR trong thai kì tiếp theo.
- Các bất thường về đại thể và mơ học của nhau đều có thể gây ra FGR.
Các bà mẹ có tiền sử các bệnh nội khoa có thể gây ra FGR do giảm tưới máu
tử cung nhau (VD: các rối loạn này bao gồm tăng huyết áp, suy thận, tiểu
đường, bệnh collagen mạch máu, lupus ban đỏ hệ thống, hội chứng
antiphospholipid, và tiền sản giật).
5. LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG
- Đánh giá chính xác tuổi thaitheo ngày kinh chót: tính theo cơng thức
Naegele.
- Sự tăng cân của mẹ trong suốt thai kì.
- Xácđịnh các yếu tố nguy cơ: đã từng mang thai chậm tăng trưởng.

- Đo chiều cao tử cungnghi ngờ TCTTTTC nếu từ tuần lễ 16 – 32
BCTC < 5cm so với giá trị bình thường.
- Sờ nắn bụng: Nếu sờ rõ được các phần thai gợi ý một tình trạng thiểu
ối.
- Đếm cử động thai.
- Siêu âm kiểm tra nhiều lầnở nhóm phụ nữ có nguy cơ cao.
- Kiểm tra lần đầu vào 3 tháng đầuthai kì, lần sau lúc 32- 34 tuần hoặc
khi lâm sàng nghi ngờ nên xácđịnh chẩnđoán. Tuy nhiên, chẩnđốn
xácđịnh thường khơng thể làm được cho đến khi thai sinh ra.
Chiều cao tử cung: đây là một phương pháp sàng lọc đơn giản nhưng độ
chính xác khơng cao, chỉ khoảng 40%. Đo bề cao tử cung nhiều lần là một
phương pháp sàng lọc đơn giản, an toàn, rẻ tiền, hợp lý để phát hiện các
trường hợp thai FGR.
3982450
Lớp nội trú sản phụ khoa 2010-2013

Page13



×