Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Công tác tư tưởng ở đảng bộ quận cái răng, thành phố cần thơ trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.85 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
-----------------------

NGUYỄN KHÁNH DUY

CÔNG TÁC TƢ TƢỞNG Ở ĐẢNG BỘ QUẬN
CÁI RĂNG, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

ĐỒNG THÁP - 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
-----------------------

NGUYỄN KHÁNH DUY

CÔNG TÁC TƢ TƢỞNG Ở ĐẢNG BỘ QUẬN
CÁI RĂNG, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60. 31. 02. 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Viết Quang

ĐỒNG THÁP - 2015


3
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của q thầy cơ Phịng Sau Đại học
Trường Đại học Vinh, Khoa Giáo dục chính trị; các giảng viên đã trực tiếp giảng
dạy và giúp đỡ tơi trong q trình học tập cũng như hồn thành luận văn thạc sỹ
này. Đặc biệt tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành đối với PGS.TS
Trần Viết Quang, người đã hết sức quan tâm, dành nhiều thời gian quý báu và
tâm huyết tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi hồn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Ban Tuyên giáo Thành ủy, Ban Tổ chức
Thành ủy Cần Thơ đã tạo điều kiện thời gian để tôi học tập và hồn thành chương
trình khóa học. Đồng thời, tơi cũng xin cảm ơn quý anh, chị và lãnh đạo Ban
Tuyên giáo Quận ủy Cái Răng, phòng Giáo dục lý luận chính trị và phịng Nghiên
cứu Lịch sử Đảng thuộc Ban Tuyên giáo Thành ủy đã tạo điều kiện và hỗ trợ để
có cơ sở dữ liệu lý luận và thực tiễn chứng minh cho luận văn.
Xin cảm ơn quý gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, quan tâm
giúp đỡ tơi trong q trình học tập và thực hiện nghiên cứu đề tài.
Xin trân trọng.
Đồng Tháp, tháng 6 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Khánh Duy


4

MỤC LỤC
TRANG BÌA PHỤ

2

LỜI CẢM ƠN

3

MỤC LỤC

4

MỞ ĐẦU

5

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của công tác tƣ tƣởng ở đảng bộ cấp

12

quận, huyện trong giai đoạn hiện nay
1.1. Khái niệm tư tưởng và cơng tác tư tưởng

12

1.2. Nội dung, hình thức và ngun tắc của cơng tác tư tưởng

25


1.3. Tính tất yếu nâng cao hiệu quả của công tác tư tưởng trong giai

32

đoạn hiện nay
Chƣơng 2: Thực trạng công tác tƣ tƣởng ở Đảng bộ quận Cái

37

Răng, thành phố Cần Thơ
2.1. Khái quát về quận Cái Răng và Đảng bộ quận Cái Răng, TPCT

37

2.2. Tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân quận Cái

44

Răng, thành phố Cần Thơ
2.3. Thực trạng công tác tư tưởng ở Đảng bộ quận Cái Răng, thành

52

phố Cần Thơ trong những năm qua
Chƣơng 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác

74

tƣ tƣởng ở Đảng bộ quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ
trong giai đoạn hiện nay

3.1. Quan điểm chỉ đạo công tác tư tưởng ở Đảng bộ quận Cái

74

Răng, thành phố Cần Thơ
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao công tác tư tưởng ở

78

Đảng bộ quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ
KẾT LUẬN

99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

102


5
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng tác tư tưởng của Đảng là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng
trong toàn bộ hoạt động của Đảng, góp phần quan trọng xây dựng Đảng về tư
tưởng, chính trị và sự đồng thuận xã hội nhằm thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên
ý thức được tầm quan trọng to lớn của tư tưởng lý luận và đặt hoạt động đó gắn
liền với những chuyển biến lớn lao của thời đại. Ngay từ đầu, Người đã chỉ ra
rằng, hoạt động tư tưởng chính là một nội dung của giải phóng dân tộc, giải

phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong q trình lãnh đạo cách mạng,
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng”;
“Xây dựng Đảng, có ba mặt: tư tưởng, chính trị và tổ chức. Về tư tưởng, nhất
định phải học tập lý luận Mác- Lênin… Giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng
là việc quan trọng nhất của Đảng, phải kiên quyết chống cái thói xem nhẹ tư
tưởng…”
C.Mác đã từng nói: “Lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó
thâm nhập vào quần chúng”. Là một động lực cách mạng, công tác tư tưởng giải
quyết những vấn đề lý luận do thực tiễn đặt ra, đồng thời hình thành ý chí nhiệt
tình cách mạng của quần chúng, hiện thực hố từng bước lý tưởng xã hội chủ
nghĩa.
Sự nghiệp cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
đến nay đã qua 85 năm và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Để hồn thành vai trị lãnh đạo của mình đối
với đất nước, Đảng ta ln luôn quan tâm, chú trọng xây dựng Đảng vững mạnh
về cả ba mặt: tư tưởng, chính trị và tổ chức. Tuy ba mặt này có vị trí, vai trị
khác nhau, nhưng nó đều có mối quan hệ biện chứng và thống nhất với nhau;
trong đó cơng tác tư tưởng là một trong những nhiệm vụ quan trọng, then chốt


6
của công tác xây dựng Đảng. Công tác tư tưởng đã góp phần làm sáng tỏ một số
vấn đề mới đề ra về lý luận và thực tiễn, bổ sung cho việc xác định tính đúng
đắn, tính sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng; Trên cơ sở đó, giúp cho cán
bộ, đảng viên có phương pháp tư duy khoa học; tuyên truyền, cổ động, giáo dục,
động viên cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân thực hiện đầy đủ các
đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng và pháp luật của Nhà nước đề ra; kiên
quyết đấu tranh chống các biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, thực dụng và các chiến lược âm mưu “diễn biến hịa
bình” của các thế lực thù địch trong giai đoạn hiện nay.

Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, công tác tư
tưởng trở nên vô cùng quan trọng. Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tiếp tục khẳng định công tác tư tưởng là lĩnh vực
quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng. Trước những đòi hỏi, yêu cầu của
sự nghiệp cách mạng hiện nay, Đại hội X đã đề ra những yêu cầu mới đối với
công tác tư tưởng, địi hỏi tồn Đảng cần tiếp tục nắm vững, phát huy vai trị to
lớn của lĩnh vực cơng tác này: cần phải chủ động hơn trong công tác tư tưởng,
nghiên cứu xây dựng chiến lược công tác tư tưởng trong tình hình mới. Đổi mới
mạnh mẽ nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu nhân dân, lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tăng cường giáo dục phẩm chất đạo
đức cách mạng trong toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, chăm lo
củng cố sự đồn kết thống nhất và tình đồng chí trong Đảng, sự đồng thuận
trong xã hội; thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên tự phê bình và phe bình,
nâng cao sức chiến đấu và sức thuyết phục của công tác tư tưởng. Bám sát thực
tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và những vướng mắc trong tư tưởng của
cán bộ, đảng viên và nhân dân để giải đáp sát thực, kịp thời; đấu tranh khắc phục
những biểu hiện phai nhạt lý tưởng, cơ hội, chạy theo lợi ích cá nhân; chủ động
và kiên quyết phê phán những quan điểm sai trái, bác bỏ những luận điểm phản


7
động, góp phần làm thất bại mọi mưu toan “Diễn biến hồ bình”, bạo loạn, lật
đổ của các thế lực thù địch.
Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta
khẳng định: “ Những thành tựu đạt được trong 20 năm qua là to lớn và có ý
nghĩa lịch sử. Chúng ta đã thực hiện thành công chặng đường đầu của công cuộc
đổi mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân có

nhiều thay đổi tích cực, sức mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc
lập, tự chủ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển
mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới”. Thành tựu to lớn đó, có phần
đóng góp to lớn của công tác tư tưởng của Đảng.
Trong những năm qua, công tác tư tưởng ở Đảng bộ quận Cái Răng, thành
phố Cần Thơ luôn được đổi mới mạnh mẽ, chất lượng, hiệu quả từng bước được
nâng lên, góp phần quan trọng vào thành tựu của công cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và cổ vũ, động viên toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu,
nhiệm vụ của công cuộc đổi mới. Đạt được đều này, các cấp ủy, tổ chức đảng và
đội ngũ đảng viên đã thực hiện nhiều giải pháp, trong đó một giải pháp có tính
quyết định là nhận thức sâu sắc, vận dụng sáng tạo và thực hiện tốt những vấn
đề lý luận về công tác tư tưởng của Đảng trong điều kiện hiện nay.
Bên cạnh những thành tựu, những kết quả to lớn về cơng tác xây dựng
Đảng nói chung và cơng tác tư tưởng nói riêng của Đảng bộ quận Cái Răng,
thành phố Cần Thơ, thì vẫn cịn những yếu kém, hạn chế của công tác tư tưởng
trong những năm qua chậm được khắc phục, đó là chưa huy động được trách
nhiệm của mọi thành viên trong hệ thống chính trị vào làm cơng tác tư tưởng.
Cơng tác tư tưởng cịn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến đấu cịn
hạn chế. Phạm vi tác động của công tác tư tưởng còn chưa thường xuyên đến tận
các đối tượng, đơn vị. Nội dung cơng tác tư tưởng chậm đổi mới...vì vậy, dẫn
đến tình trạng khơng ít cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ về các quan


8
điểm, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng, một bộ phận không nhỏ đảng
viên nhạt phai lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, suy thối về đạo đức lối sống,
vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước như tinh thần Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI) đã chỉ ra.
Xác định được tầm quan trọng của công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện

nay, trên cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề “Công tác tƣ
tƣởng ở Đảng bộ Quận Cái Răng, Thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện
nay" làm đề tài luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Đề cập đến vấn đề tư tưởng và đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay, có các
cơng trình tiêu biểu như:
- Phạm Quang Nghị (1996), Một số vấn đề lý luận và tư tưởng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đào Duy Quát (2002), Nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, lý luận trong tình
hình hiện nay, Tạp chí Tư tưởng - Văn hố.
- Nguyễn Phú Trọng (2005), Về cuộc đấu tranh tư tưởng trong tình hình
hiện nay, Tạp chí Cộng sản.
Các cơng trình trên đã trình bày vấn đề về tư tưởng, chỉ ra tính tất yếu của
cuộc đấu tranh tư tưởng, cũng như quan điểm, định hướng đấu tranh trên mặt
trận tư tưởng, lý luận hiện nay.
* Liên quan đến vấn đề công tác tư tưởng của Đảng có nhiều nghị quyết,
sách, bài viết trên các tạp chí như:
- Đào Duy Quát (2005) Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- TS. Phạm Tất Thắng (chủ biên), TS. Nguyễn Thúy Anh, Ths. Phùng
Văn Đông (2010), Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


9
- Hà Ngọc Hợi và Ngô Văn Thạo (2002) Đổi mới và nâng cao chất lượng
hiệu quả công tác tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
- Trần Trọng Tân (2005), Về cơng tác tư tưởng văn hố, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
- PGS.TS Trần Thị Anh Đào (2006), Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo

cán bộ làm cơng tác tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hữu Thọ (2000), Hồ Chí Minh về cơng tác tư tưởng văn hố, Nxb
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Đỗ Thị Thìn (2008), Thái Ngun với cơng tác tun giáo cơ sở, Tạp chí
Tun giáo, số 5.
- Nguyễn Khoa Điềm (2001), Một số vấn đề cơ bản về công tác tư tưởng
trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Tư tưởng - Văn hố.
Các cơng trình nghiên cứu đã đi sâu nghiên cứu cơng tác tư tưởng của
Đảng, đã làm rõ vai trị, vị trí, bản chất, nội dung công tác tư tưởng của Đảng,
phản ánh thực trạng cũng như phương hướng, giải pháp công tác tư tưởng của
Đảng trong những năm tới. Song chưa có cơng trình nào nghiên cứu vấn đề cơng
tác tư tưởng Đảng bộ quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện
nay.
Vì vậy, luận văn này tập trung đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của Đảng bộ quận Cái Răng, thành phố
Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất
quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng ở Đảng bộ quận Cái
Răng, Thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ: Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận của công tác tư tưởng ở các
Đảng bộ cấp quận, huyện trong giai đoạn hiện nay.


10
- Đánh giá thực trạng công tác tư tưởng ở Đảng bộ quận Cái Răng, thành
phố Cần Thơ những năm qua.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng ở
Đảng bộ quận Cái Răng, Thành phố Cần Thơ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu vấn đề công tác tư tưởng ở Đảng bộ
quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.
- Phạm vi nghiên cứu: Đánh giá công tác tư tưởng của Đảng bộ quận Cái
Răng, thành phố Cần Thơ từ sau Đại hội Ban chấp hành Đảng bộ quận Cái Răng
lần thứ X (nhiệm kỳ 2005 - 2010) đến nay. Tìm hiểu nguyên nhân và đề ra
những giải pháp về công tác tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên quận Cái
Răng, thành phố Cần Thơ.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về cơng tác tư
tưởng đặc biệt là văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết
Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá X) về “cơng tác tư
tưởng, lý luận và báo chí trước u cầu mới”.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là tình hình tư tưởng trong cán bộ, đảng viên
của Đảng bộ quận Cái Răng, Thành phố Cần Thơ hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn quán triệt phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sữ. Ngồi ra luận văn cịn sử
dụng các phương pháp khác như: Điều tra, thống kê, so sánh, phân tích, tổng
hợp, kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học có liên
quan đến đề tài.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác tư tưởng của
Đảng bộ; đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác tư
tưởng Đảng bộ quận Cái Răng, Thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay.


11
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong việc giảng dạy, nghiên cứu và học tập mơn xây dựng Đảng nói chung,
cơng tác tư tưởng của Đảng nói riêng ở Đảng bộ quận Cái Răng; làm tài liệu

tham khảo cho Quận ủy Cái Răng và các cấp uỷ Đảng trong việc tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tư tưởng.
7. Kết cấu của luận văn
- Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
luận văn gồm 3 chương 8 tiết.


12
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC TƢ TƢỞNG Ở ĐẢNG BỘ
CẤP QUẬN, HUYỆN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Khái niệm tƣ tƣởng và công tác tƣ tƣởng
1.1.1. Khái niệm tư tưởng
Để nhận thức đúng đắn và thực hiện tốt công tác tư tưởng, trước hết phải
trả lời các câu hỏi: Ý thức, tư tưởng là gì? Ý thức, tư tưởng từ đâu mà ra? Ý
thức, tư tưởng có nguồn gốc và bản chất như thế nào? Trong mối quan hệ với
vật chất, ý thức, tư tưởng có trước, hay vật chất có trước? Ý thức, tư tưởng có
khả năng nhận thức đúng đắn tồn tại xã hội không? Đây đã từng là những câu
hỏi lớn của lịch sử tư tưởng nhân loại, được các nhà tư tưởng, các trường phái
triết học tranh luận bất phân thắng bại, đến nay vẫn chưa có hồi kết. Việc trả lời
các câu hỏi đó như thế nào cịn là căn cứ để phân loại các trường phái triết học
trong lịch sử thành hai nhánh lớn: Triết học duy vật và triết học duy tâm. Trong
mỗi nhánh lớn đó lại được phân thành nhiều chi, cành nhỏ hơn.
Triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử do C.Mác, Ph.Ăngghen
đại biểu đã chỉ rõ: “Ý thức khơng bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại
được ý thức, và tồn tại của con người là quá trình đời sống hiện thực của con
người… không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý
thức” [37; 453 – 454]. Tư tưởng thuộc phạm trù ý thức xã hội, xét về trình độ
phát triển của nhận thức, ý thức gồm hai mức độ: Nhận thức ở trình độ tâm lý và
nhận thức ở trình độ tư tưởng, lý luận. Nói đến tư tưởng, lý luận là nói đến trình

độ nhận thức cao của ý thức xã hội.
Tư tưởng là hình thức phản ánh thế giới bên ngồi, được thơi thúc bởi
mục đích, bởi ý thức rõ ràng về những ích lợi, triển vọng của việc nhận thức đó
nhằm vào việc cải tạo thế giới bên ngồi. Là sự phản ánh thế giới khách quan,
song không phải là sự phản ánh hời hợt, bên ngoài sự vật, mà nó có khả năng
phản ánh cái bản chất sâu kín, bên trong sự vật, hiện tượng. Thơng qua những


13
kinh nghiệm do thực tiễn mang lại, thông qua những tri thức đã được tích lũy
qua lịch sử, tư tưởng có khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa để tiến sâu vào
bản chất sự vật, thể hiện dưới dạng các khái niệm, phạm trù, nguyên lý… Từ
những diễn giải trên có thể quan niệm: Tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách
quan vào não người dưới dạng những khái niệm, phạm trù, những nguyên lý,
quy luật… nhằm thỏa mãn các nhu cầu (nhận thức và hoạt động thực tiễn) của
con người. Những khái niệm, phạm trù này bảo đảm cho sự phản ánh của não
người tiến gần hơn đến cái bản chất của thế giới khách quan. Độ chính xác, tính
khoa học có thể kiểm nghiệm được của các nguyên lý, phạm trù, khái niệm là
minh chứng đánh giá tính chân lý của các tư tưởng. Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin: “mọi tư tưởng đều được rút ra từ kinh nghiệm. Chúng là sự
phản ánh đúng đắn, hay xuyên tạc hiện thực”. Song, tư tưởng không chỉ là sự
phản ánh thế giới khách quan, mà tư tưởng còn xác định con đường cải tạo thế
giới khách quan phục vụ nhu cầu của con người.
- Một số đặc điểm của tư tưởng
Tư tưởng là sự phản ánh của não người đối với thế giới khách quan, trong
q trình phản ánh đó, tư tưởng có những đặc điểm chính sau đây:
Hình thức phản ánh của tư tưởng là chủ quan, nhưng nội dung quản ánh là
khách quan. Nói cách khác, hình thức của tư tưởng là chủ quan, nội dung của tư
tưởng là khách quan. Não người là khí quan vật chất thực hiện chức năng phản
ánh của tư tưởng, song bản thân của tư tưởng lại hồn tồn trừu tượng, vơ ảnh,

vơ hình. Ta chỉ có thể nhận biết tư tưởng của một chủ thể nào đó qua cái vỏ
ngơn ngữ của các khái niệm, được sắp xếp theo các quan hệ giữa chúng. Hình
thức sắp xếp các khái niệm, phạm trù đã biết để xây dựng một luận điểm, một
nguyên lý lý luận nào đó, hay đơn giản chỉ là một tư tưởng đơn lẻ dưới dạng các
khái niệm, các phạm trù… mà họ nói, hoặc viết ra đều là hình thức của tư tưởng.
Nội dung tư tưởng mà các khái niệm phản ánh nằm ở bên ngồi nó, đó là các
quan hệ hiện thực, khách quan diễn ra trong đời sống xã hội, tự nhiên và tư duy.


14

Xét theo mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể của quá trình phản ánh, thì chủ
thể là con người có khí quan vật chất đặc biệt là bộ não, thực hiện chức năng
nhận thức – phản ánh. Khách thể của quá trình phản ánh là các quan hệ hiện
thực, đời sống xã hội, các sự vật, sự việc bên ngoài ý thức của chúng ta. Khách
thể của quá trình phản ánh quy định nội dung của phản ánh, cịn chủ thể của q
trình phản ánh quy định hình thức phản ánh.
Giữa cái khách quan và cái chủ quan, giữa nội dung và hình thức của tư
tưởng, khơng thể nói mặt nào quan trọng hơn mặt nào, mà chúng là hai mặt
thống nhất của quá trình nhận thức. Việc phân định rõ nội dung và hình thức của
tư tưởng có ý nghĩa quan trọng trong chỉ đạo thực tiễn ở chỗ: Muốn tìm căn
nguyên của những vấn đề tư tưởng, phải tìm nó trong đời sống hiện thực, khơng
tìm trong bản thân tư tưởng con người. Mặt khác, tư tưởng là sự phản ánh đời
sống của con người, của những con người bằng xương, bằng thịt đang hiện hữu
cùng chúng ta, với tất cả những đặc điểm riêng có của từng người, bởi vậy ngoài
những vấn đề chung cần tác động, phải có phương pháp tiếp cận đặc thù, phù
hợp cho các đối tượng khác nhau, việc giải quyết tư tưởng mới hiệu quả.
Tư tưởng có tính độc lập tương đối so với thế giới khách quan. Vì tư
tưởng có tính độc lập tương đối so với thế giới khách quan, nên tư tưởng có khả
năng “thốt khỏi” tính muôn vẻ của cái cụ thể để đi sâu khám phá cái phổ biến,

cái bản chất tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng cùng loại. Trong q trình thốt
khỏi cái cụ thể như vậy, sự phản ánh của tư tưởng luôn bao hàm hai khả năng:
Phản ánh sáng tại, có tính vượt trước so với thế giới khách quan và phản ánh sai
lệch, máy móc, bảo thủ so với thế giới khách quan đã biến đổi.
Khả năng phản ánh sáng tạo, phản ánh được cái bản chất, sâu kín bên
trong của sự vật hiện tượng khách quan là đặc tính phản ánh riêng có của não
bộ, khí quan vật chất tuyệt vời nhất mà tự nhiên đã ban tặng cho con người, nhờ
đó con người trở thành “chúa tể” của mn lồi. Lịch sử tiến hóa lồi người đã
chỉ rõ, từ một lồi vượn người có não bộ ưu việt, thông qua giao tiếp trong lao


15
động nhằm tạo ra những tư liệu sinh hoạt cho mình, đã làm cho ngơn ngữ và tư
duy của lồi vượn người hình thành, phát triển. Do biết chế tác cơng cụ sản xuất,
có ngơn ngữ và biết tư duy, loài vượn người dần chuyển từ đời sống của loài vật
sang xã hội loài người. Về vấn đề này, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”,
C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ rõ: Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với
súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình
– đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra tư
liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời
sống vật chất của mình. Nhờ lao động sáng tạo khơng ngừng nghỉ, con người đã
hồn thiện như ngày nay [37; 445].
Thế giới khách quan tồn tại trong mối quan hệ phổ biến, không ngừng vận
động và phát triển trong không gian – thời gian bất tận, vô cùng phức tạp. Tuy
vậy, sự vận động của thế giới khách quan đó khơng phải hỗn độn, ngẫu nhiên,
mà là sự vận động tuân theo những quy luật khách quan, phổ biến và đặc thù,
tùy theo đặc điểm và tính chất của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức các nguyên
lý, quy luật vận động của thế giới khách quan nhằm phục vụ đời sống của con
người là chức năng của tư tưởng, lý luận và khoa học. Khi nhận thức được cái
bản chất, tất yếu và quy luật vận động của sự vật, hiện tượng, tư tưởng có khả

năng dự đoán chiều hướng phát triển tương lai của các sự vật hiện tượng đó.
Đây chính là sự phân biệt chủ yếu nhất giữa phản ánh sáng tạo và phản ánh thụ
động, hời hợt của tư tưởng con người. Với ý nghĩa phản ánh sáng tạo, tích cực
của tư tưởng, lý luận, V.I.Lênin từng chỉ rõ: “Khơng có lý luận cách mạng thì
cũng khơng thể có phong trào cách mạng” [34; 30] và “chỉ đảng nào được một
lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm trịn vai trò chiến sĩ tiền
phong” [34; 32]. Tuy vậy, phản ánh sáng tạo khơng có nghĩa là, khi đã nhận
thức được quy luật vận động của sự vật, hiện tượng nào đó rồi, thì nhiệm vụ
nhận thức đã hồn thành, trái lại phải ngừng nhận thức và xem xét lại những kết


16
luận cũ để bổ sung, phát triển, bảo đảm cho tư duy, lý luận theo kịp với tình hình
khách quan đã biến đổi, đặc biệt là các hiện tượng xã hội.
Nhưng mặt khác, tư tưởng của con người cũng bao hàm khả năng phản
ánh sai lạc thực tiễn khách quan, do nhiều nguyên nhân chi phối. Chẳng hạn, do
chủ thể nhận thức có năng lực phản ánh hạn chế, quan điểm nhận thức không
đúng, thái độ định kiến, chủ quan phiến diện và thiếu thông tin cần thiết…
Trong trường hợp như vậy, tư tưởng khó có khả năng phản ánh đúng tình hình
thực tiễn. Song điều tai hại của nhận thức sai lầm là ở chỗ, nó chẵng những mất
vai trò chỉ đường, dẫn lối thực tiễn phát triển, mà cịn trở thành lực lượng bảo
thủ, kìm hãm sự phát triển của đời sống thực tiễn.
Tư tưởng gắn với lợi ích của con người. Tư tưởng, như ở trên đã trình
bày, về bản chất là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người, song sự
phản ánh đó là sự pahnr ánh của những con người và lực lượng xã hội cụ thể
hiện thực, được thúc đẩy bởi những nhu cầu, động cơ, lợi ích riêng của các chủ
thể nhận thức, do đó có tính chủ quan, gắn bó mật thiết với lợi ích của chủ thể
nhận thức. Chính do nhu cầu nhận thức thế giới khách quan phục vụ lợi ích của
con người, nên đã thúc đẩy con người không ngừng khám phá thế giới khách
quan xung quanh mình. Vì đời sống hiện thực của con người mà con người ra

sức xản xuất ra đời sống tinh thần của mình: Sự xản xuất ra những ý niệm,
những quan niệm và ý thức thì lúc đầu là trực tiếp gắn liền mật thiết với hoạt
động vật chất và với sự giao tiếp vật chất của con người – ngôn ngữ của cuộc
sống hiện thực… Chính con người là kẻ sản xuất ra những quan niệm, ý niệm, v.
v. của mình, song đây là những con người hiện thực, đang hành động, đúng như
họ bị quy định bởi sự phát triển nhất định của những lực lượng sản xuất của họ
và bởi sự giao tiếp phù hợp với sự phát triển ấy [37; 453]. Lợi ích của con người
gắn với tư tưởng của họ, sau nữa, con người sử dụng những thành tựu tư tưởng
do mình tạo ra để bảo vệ lợi ích của chính mình.


17
Tính mục đích của q trình tư tưởng chỉ ra rằng, tất cả mọi tư tưởng đều
là những tư tưởng gắn với lợi ích xác định. C.Mác cho rằng tư tưởng phải gắn
với lợi ích của con người, tư tưởng mà khơng gắn với lợi ích là điều hết sức vô
nghĩa, ông phê phán tư tưởng được cho là của một giai cấp, nhưng lại khơng gắn
với lợi ích của giai cấp đó. Trường hợp cách mạng Pháp thế kỷ XIX, Lui
Napôlêông tự cho rằng ông là đại diện tư tưởng cho giai cấp nông dân Pháp giữa
thế kỷ XIX, nhưng hồn tồn khơng gắn với lợi ích của giai cấp nông dân.
C.Mác viết: “Những tư tưởng ấy chỉ là những ảo giác trong cơn hấp hối, là
những từ đã biến thành những câu nói sng, là những thần linh đã biến thành
bóng ma” [41; 272]. Qua phân tích tư tưởng của các giai cấp khác nhau, C.Mác
đi đến khẳng định: Chỉ có tư tưởng vơ sản mới thực sự bảo vệ lợi ích chung, phổ
biến trong tồn xã hội, vì lợi ích của giai cấp vơ sản phù hợp với đại đa số lợi
ích của các tầng lớp nhân dân. Như vậy, trong xã hội có giai cấp thì tư tưởng
bao giờ cũng mang tính giai cấp. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác
và Ph.Ăngghen viết: “Lịch sử tư tưởng chứng minh cái gì, nếu khơng phải là
chứng minh rằng sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất? Những
tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai
cấp thống trị” [39; 625]. Trong xã hội có giai cấp luôn diễn ra cuộc đấu tranh tư

tưởng nhằm truyền bá, thuyết phục, lôi kéo quần chúng nhân dân theo quan
điểm tư tưởng của giai cấp thống trị, nhằm biến tư tưởng thành sức mạnh vật
chất để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giai cấp. Do vậy, xây dựng đảng về
tư tưởng địi hỏi các chính đảng phải coi trọng việc đấu tranh tư tưởng cả trước
và sau khi giành được chính quyền, cần phải đấu tranh chống những khuynh
hướng, tư tưởng lệch lạc, các tư tưởng thù địch, phản động để ý thức xã hội chủ
nghĩa chiếm ưu thế tuyệt đối trong tinh thần đời sống xã hội.
Đặc biệt, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng các giai cấp phải phát triển tư
tưởng (hệ thống hóa, khái quát hóa tư tưởng của giai cấp mình thành lý luận,
thành các học thuyết chính trị - xã hội) thành hệ tư tưởng làm vũ khí lý luận


18
trong đấu tranh giai cấp. Theo các ông, hệ tư tưởng cũng là sản phẩm của nhà tư
tưởng trên cơ sở hệ thống hóa, bảo vệ, phát triển các quan điểm tư tưởng phản
ánh lợi ích của giai cấp họ. Ăngghen viết: Hệ tư tưởng là một quá trình do con
người mệnh danh là nhà tư tưởng đã hoàn thành một cách có ý thức [40; tr.776].
Như vậy, để lãnh đạo cách mạng, các Đảng Cộng sản phải được xây dựng trên
hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học, phải tiến hành công tác tư tưởng
của Đảng một cách kiên trì, bền bỉ, lâu dài, tác động sâu sắc không chỉ trong nội
bộ Đảng, mà tác động đến toàn xã hội.
Nắm vững đặc điểm này của tư tưởng có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn quan
trọng. Nếu tư tưởng ln gắn với lợi ích nào đó của con người, thì trong cơng
tác tư tưởng nói chung, trong q trình giải quyết những vấn đề tư tưởng phức
tạp phát sinh trong xã hội nói riêng (kể cả các cộng đồng dân cư và mỗi cá
nhân), phải quan tâm giải quyết những quan hệ lợi ích gắn liền với tình hình tư
tưởng xã hội đang phát sinh.
Tư tưởng ln là tư tưởng của một chủ thể xác định. Khơng có tưởng
chung chung toàn nhân loại, tư tưởng phi giai cấp trong xã hội cịn phân chia
giai cấp. Tư tưởng ln gắn với một chủ thể xác định, phản ánh những lợi ích

của chủ thể mà nó đại biểu. Từ rất sớm, chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng: Trong
mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị.
Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì
cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những
tư liệu sản xuất vất chất thì cũng chi phối ln cả những tư liệu sản xuất tinh
thần, thành thử nói chung tư tưởng của những người khơng có tư liệu sản xuất
tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối… Những tư tưởng
thống trị khơng phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện tinh thần của những
quan hệ vật chất thống trị, chúng là những quan hệ vật chất thống trị được biểu
hiện dưới hình thức tư tưởng [37; 483].


19
Cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận quyết liệt trong Đảng Công nhân xã hội
– Dân chủ Nga đầu thế kỷ XX, được Lênin chỉ rõ trong tác phẩm “Làm gì”:
Chừng nào trong xã hội cịn giai cấp và đấu tranh giai cấp thì khơng thể có hệ tư
tưởng nói chung, khơng thể có hệ tư tưởng phi giai cấp, “ vấn đề đặt ra chỉ là
như thế này: hệ tư tưởng tư sản hoặc hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Khơng có hệ
tư tưởng trung gian (vì nhân loại không tạo ra một hệ tưởng “thứ ba” nào cả; vả
chăng, trong một xã hội bị những sự đối kháng giai cấp chia xẻ thì khơng bao
giờ có hệ tư tưởng ở ngồi hoặc trên các giai cấp). Vì vậy, mọi sự coi nhẹ hệ tư
tưởng xã hội chủ nghĩa, mọi sự xa rời hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa đều có nghĩa
là tăng cường hệ tư tưởng tư sản” [34; 49-50].
Tư tưởng có thể được phân loại dưới nhiều hình thức khác nhau: Người ta
có thê phân loại tư tưởng dựa vào tính chất và đặc điểm của nó. Thơng qua các
hình thức phân loại như vậy, người ta nhận biết từng lĩnh vực tư tưởng khác
nhau để đi sâu nghiên cứu, ứng dụng và truyền bá. Căn cứ vào tính chất cách
mạng và tiến bộ của tư tưởng, người ta phân loại tư tưởng thành: Tư tưởng cách
mạng và tư tưởng phản cách mạng; tư tưởng tiến bộ và tư tưởng lạc hậu. Căn cứ
vào đặc điểm nhận thức, người ta phân loại tư tưởng thành: Tư tưởng triết học,

tư tưởng chính trị, tư tưởng tơn giáo, tư tưởng nghệ thuật, tư tưởng khoa học, tư
tưởng kinh tế, tư tưởng pháp lý, v.v...
1.1.2. Khái niệm công tác tư tưởng của Đảng
Có thể nói, trong những năm vừa qua, có nhiều nghiên cứu về cơng tác tư
tưởng đều rất cố gắng đưa ra quan niệm riêng của mình về cơng tác tư tưởng.
Trong số các sách viết về công tác tư tưởng, chúng tôi xin nêu bốn khái niệm
công tác tư tưởng khá tiêu biểu sau đây:
Quan niệm thứ nhất: Công tác tư tưởng là bộ phận cấu thành rất quan
trọng trong toàn bộ hoạt động cách mạng của Đảng, công tác tư tưởng cùng với
công tác tổ chức góp phần xây dựng Đảng thành đội tiên phong, bộ tham mưu
chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, có nhiệm vụ: giáo dục


20
chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ trương đường lối chính sách của Đảng cho cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhằm nâng cao tính tự giác, chủ động sáng tạo của họ
trong việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng đề ra, đồng thời
nó cũng góp phần vào việc hình thành chủ trương đường lối của Đảng – một
nhiệm vụ không thể thiếu được của công tác tư tưởng. Cơng tác tư tưởng của
Đảng cịn góp phần quan trọng vào việc xây dựng những con người mới xã hội
chủ nghĩa, vào việc hình thành thượng tần kiến trúc mới về mặt hình thái ý thức”
[51; 8]. Khái niệm trên đây tác giả chỉ ra: Vị trí, vai trị, nhiệm vụ của cơng tác
tư tưởng của Đảng một cách khá đầy đủ, song chưa đề cập đến nhiệm vụ phát
triển hệ tư tưởng của Đảng.
Quan niệm thứ hai: “Công tác tư tưởng, lý luận là hoạt động đa dạng, có
định hướng, chủ đích, có tổ chức, kế hoạch của Đảng nhằm xây dựng, xác lập,
phát triển, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước, những tư tưởng tiên tiến cách mạng và khoa
học, biến thành niềm tin, định hướng giá trị đúng đắn góp phần xây dựng thế
giới quan khoa học, năng lực tư duy lý luận cho con người, thúc đẩy con người

hành động tích cực và sáng tạo để thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng cao đẹp
do Đảng đề ra” [24; 70].
Trong quan niệm này, tác giả đã đề cập đến: chủ thể, đối tượng, mục đích,
nhiệm vụ cơng tác tư tưởng của Đảng. Tuy nhiên, quan niệm chưa nói tới vị trí,
vai trị của cơng tác tư tưởng, cũng như tính chất hoạt động của nó; chưa nói tới
nhiệm vụ phát triển hệ tư tưởng; nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn góp phần
xây dựng đường lối chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước.
Quan niệm thứ ba: “Công tác tư tưởng dưới chủ nghĩa xã hội là hoạt động
có mục đích của Đảng Cộng sản và Nhà nước nhằm phát triển, truyền bá hệ tư
tưởng xã hội chủ nghĩa, biến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng chi
phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, động viên, cổ vũ tích cực, tự giác,


21
sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa” [46; 10]. Quan niệm này chỉ ra một cách khái quát chủ thể, mục đích,
nhiệm vụ cơng tác tư tưởng của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, khái niệm chưa chỉ ra vị trí, vai trị, tính chất công tác tư tưởng; chưa
nêu một cách đầy đủ những nhiệm vụ mà công tác tư tưởng phải đảm nhiệm.
Trên cơ sở nghiên cứu, kế thừa những thành tựu trước đó, qua thực tiễn,
Đảng ta quan niệm: “Cơng tác tư tưởng là hoạt động lãnh đạo quan trọng hàng
đầu của Đảng trong việc: phát triển hệ tư tưởng của Đảng; nghiên cứu lý luận
tổng kết thực tiễn, góp phần hình thành quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng; truyền bá giáo dục hệ tư tưởng, đường lối chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp nhận
thức khoa học cho cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất
tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận tư tưởng giữa Đảng với nhân dân; cổ vũ
động viên tinh thần sáng tạo cách mạng của nhân dân thực hiện thắng lợi đường
lối chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; đấu tranh

chống các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng; góp phần xây dựng nền văn
hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh tươi đẹp của đất
nước, con người Việt Nam, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra cộng đồng quốc tế”
[49; 33-34]. Đây là một khái niệm khá dài, có kế thừa một số nội dung trong
định nghĩa về công tác tư tưởng của các quan điểm nói trên. Nhìn khái quát, các
định nghĩa về công tác tư tưởng của Đảng đều khá dài, phản ánh một thực tế là
công tác tư tưởng của Đảng ta hết sức rộng lớn, hết sức phức tạp, nhất là trong
điều kiện là Đảng duy nhất cầm quyền, trực tiếp lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Khái niệm này cần được làm sáng tỏ qua những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, về bản chất công tác tư tưởng của Đảng
Để làm rõ bản chất khái niệm công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam, cần bắt đầu từ các hoạt động nói chung của con người. Hoạt động tư tưởng


22
của con người có ba q trình hoạt động chủ yếu: Quá trình sản xuất tư tưởng,
quá trình truyền bá tư tưởng và q trình hiện thực hóa tư tưởng. Đây là là
những quá trình hoạt động tất yếu của đời sống xã hội. Tuy nhiên, phương thức
tiến hành các q trình tư tưởng đó ở các chế độ xã hội khác nhau, thường
không giống nhau. Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành các q trình hoạt động
tư tưởng nói trên thông qua các công tác tư tưởng của Đảng. Với vai trò của
Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam, Đảng phải
truyền bá hệ tư tưởng đó vào quần chúng nhân dân làm cho hệ tư tưởng của
Đảng chiếm địa vị thống trị trong xã hội. Muốn vậy, Đảng phải tiến hành các
hoạt động tư tưởng của mình dưới hình thức cơng tác tư tưởng.
Công tác tư tưởng của Đảng không phải là hoạt động nghiệp vụ đơn thuần
mà thuộc về hoạt động lãnh đạo của Đảng. Chữ “công tác” trong khái niệm
“công tác tư tưởng của Đảng” có nghĩa là hoạt động của Đảng trong việc lãnh
đạo, chỉ đạo và tổ chức các hoạt động tư tưởng chủ yếu như: Hoạt động sản xuất

tư tưởng; hoạt động truyền bá, giáo dục tư tưởng; hoạt động hiện thực hóa tư
tưởng (biến tư tưởng thành hiện thực). Tất cả các nước, các chính đảng, các giai
cấp và tầng lớp xã hội khác nhau đều phải tiến hành các hoạt động tư tưởng nói
trên, nhưng nội dung và phương thức tiến hành hoạt động tư tưởng của các
chính đảng, các nhà nước khơng giống nhau. Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng
của hoạt động tư tưởng trong xã hội ta, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định,
Đảng là người lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức toàn bộ các hoạt động tư tưởng trong
xã hội.
Khi nói cơng tác tư tưởng thuộc về hoạt động lãnh đạo của Đảng là bởi:
Bản chất của hoạt động lãnh đạo là hoạt động giác ngộ, nâng cao nhận thức,
tuyên truyền, vận động, thuyết phục quần chúng; là hoạt động tổ chức, nêu
gương và dẫn dắt quần chúng hành động. Toàn bộ những hoạt động lãnh đạo ấy
đều lấy hoạt động tư tưởng làm căn bản. Chỉ có thơng qua công tác tư tưởng,


23
Đảng mới có thể tác động vào trái tim, khối óc quần chúng làm cho họ giác ngộ,
tin tưởng và tự nguyện theo Đảng làm cách mạng.
Nhưng Đảng không chỉ là người lãnh đạo các hoạt động tư tưởng, mà còn
là người chỉ đạo và tổ chức các hoạt động tư tưởng. Nghĩa là Đảng trực tiếp chỉ
đạo và tổ chức các hoạt động: nghiên cứu, phát triển lý luận (sản xuất); truyền
bá, giáo dục lý luận trong các tầng lớp nhân dân; hiện thực hóa lý luận thành
đường lối, chính sách chỉ đạo thực tiễn. Song Đảng là một khái niệm rộng, bao
gồm toàn bộ hệ thống tổ chức, cán bộ, đảng viên của Đảng trên phạm vi toàn
quốc. Trong hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương xuống đến cơ sở có rất
nhiều cơ quan khác nhau, có cơ quan lãnh đạo, có cơ quan tham mưu, giúp việc,
vậy những cá nhân và tổ chức nào giữ vai trị chủ thể cơng tác tư tưởng của
Đảng với tư cách là người lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức các hoạt động tư tưởng.
Thứ hai, về chủ thể cơng tác tư tưởng của Đảng
Như ở trên đã trình bày, bản chất công tác tư tưởng của Đảng là hoạt động

của Đảng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức các hoạt động tư tưởng. Với tư
cách là người lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các hoạt động tư tưởng, chủ
thể công tác tư tưởng của Đảng là: Đại hội đảng các cấp, Ban Chấp hành Trung
ương mà thường xuyên và trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; cấp ủy đảng các
cấp; đảng đoàn, ban cán sự và các chi bộ đảng. Đối với các cơ quan lãnh đạo của
Đảng, trong mối quan hệ này là chủ thể, trong mối quan hệ khác lại là đối tượng
của cơng tác tư tưởng.
Ví dụ, các đảng bộ quận là đối tượng trực tiếp của công tác tư tưởng của
Thành ủy, song Quận ủy lại là chủ thể công tác tư tưởng của các đảng bộ cơ sở.
Dưới sự lãnh đạo của chủ thể nói trên, tồn bộ hệ thống chính trị; đảng viên của
Đảng; tất cả quần chúng tích cực đều tham gia các hoạt động tư tưởng. Trong đó
các cơ quan tham mưu của Đảng về công tác tư tưởng, các cơ quan thông tin,
báo chí của Nhà nước là lực lượng nịng cốt, có trách nhiệm trực tiếp hướng dẫn,
chỉ đạo và thực hiện các hoạt động công tác tư tưởng của Đảng. Đảng ta chỉ rõ:


24
“Cơng tác tư tưởng là nhiệm vụ của tồn Đảng, của tất cả đảng viên, trước hết là
cấp ủy các cấp và đồng chí bí thư cấp ủy, của cả hệ thống chính trị với sự tham
gia, đóng góp của nhân dân, trong đó lực lượng nịng cốt là đội ngũ chuyên trách
làm công tác tư tưởng, lý luận, báo chí của Đảng”.
Thứ ba, đối tượng, mục tiêu, nhiệm vụ công tác tư tưởng của Đảng
Công tác tư tưởng của Đảng có hai hướng tác động chủ yếu: Tác động ra
bên ngoài xã hội và tác động vào bên trong nội bộ Đảng. Khi công tác tư tưởng
của Đảng hướng ra bên ngồi xã hội, thì tồn bộ các tổ chức của hệ thống chính
trị, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, các tầng lớp nhân dân… là đối tượng tác
động của công tác tư tưởng. Với đối tượng tác động này, công tác tư tưởng của
Đảng hướng tới mục tiêu: Truyền bá, giáo dục hệ tưởng, quan điểm đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm làm cho hệ tư tưởng của
Đảng trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội, góp phần bồi dưỡng thế giới

quan, phương pháp nhận thức khoa học cho các tầng lớp nhân dân, tạo sự đông
thuận tư tưởng giữa các tầng lớp nhân dân với Đảng và Nhà nước; mặt khác
cơng tác tư tưởng cịn góp phần làm cho nhân dân và các lực lượng xã hội khác
sống và làm việc trên đất nước ta hiểu, tuân thủ chính sách và pháp luật của Nhà
nước.
Đối với các quốc gia và vùng lãnh thổ, với nhân dân các nước trong cộng
đồng quốc tế, công tác tư tưởng của Đảng hướng tới mục tiêu: Quảng bá hình
ảnh tươi đẹp và thân thiện của đất nước, con người Việt Nam; tuyên truyền quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ta đến cộng
đồng quốc tế, nhằm làm cho chính phủ là nhân dân các nước hiểu , tin tưởng ủng
hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta.
Khi hướng vào nội bộ Đảng, công tác tư tưởng có mục tiêu: Bảo đảm xây
dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng. Xây dựng Đảng về tư tưởng là một trong
những nguyên tắc quan trọng nhất của học thuyết Mác - Lênin về chính đảng
cách mạng của giai cấp cơng nhân. Cơng tác tư tưởng, có những nhiệm vụ sau:


25
Một là, nâng cao nhận thức tư tưởng, lý luận cho đội ngũ đảng viên, bảo
đảm cho đội ngũ đảng viên của Đảng có thế giới quan và phương pháp nhận
thức khoa học, tạo sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức trong tồn
Đảng; làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền
tảng của Đảng.
Hai là, nghiên cứu sâu sắc, có hệ thống những di sản lý luận của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh để thấu triệt, phát triển và vận dụng cho
phù hợp với yêu cầu của thời đại mới.
Ba là, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam, cung
cấp những luận cứ khoa học và góp phần hoạch định đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, nghiên cứu những kinh nghiệm phong phú của các đảng anh em,

tiếp thu tinh hoa trí tuệ nhân loại làm giàu kho tàng lý luận của Đảng, không
ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng, bảo đảm cho
Đảng luôn xứng đáng là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp cơng nhân,
nhân dân lao động và dân tộc.
Năm là, nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm cơng tác xây dựng
đảng, hình thành lý luận về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống quốc tế.
Sáu là, cơng tác tư tưởng có nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trước
những âm mưu, thủ đoạn phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch.
1.2. Nội dung, hình thức và nguyên tắc của công tác tƣ tƣởng
1.2.1. Nội dung của công tác tư tưởng
Cơng tác tư tưởng của Đảng có các nội dung cơ bản như sau
Cơng tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng là bộ phận giữ vai trò quyết
định, có nhiệm vụ: Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, cung cấp cơ sở lý


×