Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng ở quận ninh kiều, thành phố cần thơ trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.74 KB, 107 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN TRÚC GIANG

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU
CỦA CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở QUẬN NINH KIỀU,
THÀNH PHỐ CẦN THƠ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Tiến sĩ Vũ Thị Phƣơng Lê

Đồng Tháp, 2015


2
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện Đề tài Luận văn Thạc sĩ Chính
trị học: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
Đảng ở quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay”, Tôi
đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tập thể Ban Giám hiệu,
Khoa Sau Đại học, Khoa Giáo dục Chính trị…, giảng viên, cán bộ các phịng,
ban chức năng của Trường Đại học Vinh và Ban Giám hiệu, Khoa Sau Đại
học…, giảng viên, cán bộ các phòng, ban chức năng của Trường Đại học Đồng
Tháp. Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành về sự giúp đỡ đó.
Tơi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới Lãnh đạo Đảng, đoàn thể, Ban
Chủ nhiệm Khoa Giáo dục Chính trị, Tiến sĩ Vũ Thị Phương Lê và những thầy,


cô, bạn bè đã hướng dẫn và chỉ bảo cho Tơi hồn thành Luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn các bạn, các anh, các chị, các em lớp Cao học
Chính trị khóa 21, đồng nghiệp của Tơi đang cơng tác tại Văn phịng Quận ủy
Ninh Kiều, Văn phịng Thành ủy Cần Thơ và gia đình đã động viên, khích lệ,
tạo điều kiện và giúp đỡ Tơi trong suốt q trình học tập, thực hiện và hồn
thành Luận văn này. Với những kiến thức đã học được Tôi sẽ vận dụng vào thực
tế cuộc sống và thực tiễn nhiệm vụ được giao một cách sáng tạo nhất.
Đồng Tháp, ngày 27 tháng 5 năm 2015
Tác giả Luận văn

Trần Trúc Giang


3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa

1

Lời cảm ơn

2

Mục lục

3

A. MỞ ĐẦU


4

B. NỘI DUNG

10

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN
ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trị, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng

10

1.2. Quan niệm về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng

18

1.3. Những yếu tố ảnh hưởng và yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng
Chương 2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN
ĐẤU CỦA CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở QUẬN NINH KIỀU
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội và đặc điểm của
các tổ chức cơ sở Đảng quận Ninh Kiều
2.2. Thực trạng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
Đảng quận Ninh Kiều trên một số lĩnh vực tiêu biểu
2.3. Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm

25

Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG
LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ

ĐẢNG Ở QUẬN NINH KIỀU
3.1. Quan điểm nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở Đảng ở quận Ninh Kiều
3.2. Giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức
cơ sở Đảng ở quận Ninh Kiều
C. KẾT LUẬN

62

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

92

E. PHỤ LỤC

98

10

31
31
42
51

62
64
90


4

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức cơ bản. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước
và xã hội; Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống
ấy; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Giữ vững bản chất và tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống cịn đối với Đảng và sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta hiện nay.
Trong quá trình đổi mới của đất nước ta, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp cách mạng to
lớn được thực hiện trong điều kiện vừa có thời cơ và thuận lợi, vừa có khó khăn
và thách thức đan xen. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đòi hỏi Đảng phải tiếp
tục xây dựng và chỉnh đốn bảo đảm cho Đảng thực sự vững mạnh ngang tầm với
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là
cầu nối giữa Đảng với nhân dân. Tổ chức cơ sở Đảng có vị trí, vai trị quan trọng
trong hệ thống tổ chức và hoạt động của Đảng; trong quá trình thực hiện thắng
lợi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Nhận thức được vị trí, vai trị và tầm quan trọng đó, Đảng ta đã đặc biệt quan
tâm đến việc củng cố, xây dựng và chỉnh đốn Đảng để nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng nhằm tạo cơ sở cho sự thống



5
nhất tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng. Do đó, Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết Trung ương 23
(khóa III) về “Tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng”
(Đây là nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Trung ương về công tác xây dựng
Đảng), Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VI) về "Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng", Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VI) về "Một số vấn đề cấp bách về
công tác tư tưởng”, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) về “Đánh giá tình hình
và nhiệm vụ của Đảng trong tình hình mới”, Nghị quyết Trung ương 6 lần 2
(khóa VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng
Đảng”, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa IX) về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 6 lần 2 (khóa VIII)” và gần đây nhất là Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay".
Qua thời gian thực hiện, chất lượng của các tổ chức cơ sở Đảng đã được
nâng lên, số lượng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh ngày càng tăng, số
lượng tổ chức cơ sở Đảng yếu kém giảm dần; nhiều tổ chức cơ sở Đảng đã lãnh
đạo và thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, góp phần to lớn trong cơng
cuộc đổi mới, trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và trong thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở. Chính vì vậy, trong thời gian qua, có rất nhiều bài viết,
cơng trình đã trực tiếp hoặc gián tiếp nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Có thể kể ra một số cơng trình
tiêu biểu sau đây:
- Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực trạng và những yêu cầu xây dựng tổ chức
cơ sở Đảng ở nông thôn một số tỉnh miền núi, vùng cao phía Bắc nước ta hiện
nay”, do tác giả Nguyễn Minh Bích (1998) làm chủ nhiệm. Đề tài tập trung
phân tích thực trạng tổ chức cơ sở Đảng và xây dựng một số giải pháp để củng
cố và kiện toàn các tổ chức cơ sở Đảng ở vùng núi, vùng cao phía Bắc tổ quốc.
- Đề tài Luận án Phó Tiến sĩ về “Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng
nông thôn (cấp xã) vùng đồng bằng sông Hồng” của tác giả Đỗ Ngọc Ninh (1995).



6
- Đề tài Luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Ái (2001) “Nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng nông thơn vùng cao phía
Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
- Một số đề tài Luận văn Thạc sĩ: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của các Đảng bộ xã ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn
hiện nay” của tác giả Dương Trung Ý (2002); “Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các chi bộ phân đội chiến đấu phịng khơng thuộc qn chủng
phịng khơng - không quân trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Học
(2001); “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng nơng thơn
vùng có đông đồng bào công giáo ở tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay Thực trạng và giải pháp” của tác giả Bùi Hữu Dược (2003); “Nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng ở xã thuộc tỉnh Tây
Ninh hiện nay” của tác giả Phùng Đức Thái (2000); “Nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng nông thôn tỉnh Long An hiện
nay” của tác giả Nguyễn Văn Dũng (2000)…
Ngoài một số bài viết được đăng tải trên các sách báo, tạp chí cịn có một
số sách tham khảo: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
trong thời kỳ mới” GS, TS Nguyễn Phú Trọng, PGS, TS Tô Huy Rứa và PGS,
TS Trần Khắc Việt đồng chủ biên (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các Đảng bộ phường ở thủ
đô Hà Nội hiện nay” của tập thể tác giả, PGS, TS Đỗ Ngọc Ninh chủ biên
(2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Công tác xây dựng Đảng và đổi mới
phương thức của Đảng trong thời kỳ mới” của tập thể tác giả, Đại tá Lê Hải
Triều chủ biên (2011), Nxb Chính trị Hành chính, Hà Nội; “Xây dựng và chỉnh
đốn Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” GS, TS Nguyễn Phú Trọng
(2012), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;...
Các cơng trình nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ cả về lý luận và
thực tiễn về tổ chức cơ sở Đảng, đó cũng là nền tảng để chúng ta nghiên cứu, áp



7
dụng vào thực tiễn và tiếp tục phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn
chế trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Tuy nhiên, chưa có cơng trình
nghiên cứu khoa học nào đi sâu nghiên cứu năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở Đảng ở quận Ninh Kiều, có thể nói “Nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng ở quận Ninh Kiều, thành
phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay” là đề tài khoa học đầu tiên nghiên cứu về
các tổ chức cơ sở Đảng ở quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ cho tới thời điểm
hiện tại.
Trong những năm gần đây, Đảng bộ quận Ninh Kiều đã rất chú trọng tới
công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhìn chung các tổ chức cơ sở Đảng đã có
chuyển biến tích cực; số lượng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh ngày
càng nhiều góp phần to lớn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đã đề ra, nhất
là trong phát triển kinh tế - xã hội, trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra trong tình hình mới hiện nay, vẫn cịn
khơng nhỏ số lượng tổ chức cơ sở Đảng ở quận Ninh Kiều chưa đủ năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu ngang tầm với nhiệm vụ mới. Tình trạng mất đồn
kết, kèn cựa, thiếu hợp tác trong cấp ủy vẫn còn xảy ra; chế độ sinh hoạt, chế độ
tự phê bình và phê bình khơng được duy trì thường xun và nghiêm túc;
nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được tôn trọng; vẫn cịn hiện tượng đảng viên
suy thối về đạo đức, lối sống. Nhiều vụ việc tiêu cực, vi phạm điều lệ Đảng và
pháp luật không được phát hiện và xử lý kịp thời; một số vụ việc phát hiện
nhưng việc xử lý không đến nơi, đến chốn. Đáng chú ý là tình trạng chạy theo
thành tích, phơ trương, hình thức vẫn cịn xảy ra phổ biến, có nhiều tổ chức cơ
sở Đảng đạt “trong sạch, vững mạnh” nhưng thực tế chất lượng và hiệu quả thực
hiện nhiệm vụ chưa tương xứng.
Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của
những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế về năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng ở quận Ninh Kiều, để từ đó xây dựng



8
những giải pháp nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới là rất cần thiết
và cấp bách cả về lý luận lẫn thực tiễn. Với những lý do nói trên, chúng tơi chọn
đề tài “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
Đảng ở quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay” làm
Luận văn Thạc sĩ Chuyên ngành Chính trị học.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng ở quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ
trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận và quan điểm nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và rút những kinh nghiệm trong việc nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng ở quận Ninh
Kiều, thành phố Cần Thơ.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng ở quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng ở quận
Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các tổ chức cơ sở Đảng trên địa bàn quận
Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Các số liệu dùng để phân tích thực trạng các tổ
chức cơ sở Đảng ở quận Ninh Kiều được tác giả khảo sát và tổng hợp theo báo
cáo hàng năm của Quận ủy, Ban Tổ chức Quận ủy và Ủy ban Kiểm tra Quận ủy
từ năm 2010 đến 2014, định hướng giải pháp đến năm 2020.



9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng
thời sử dụng các phương pháp khác như: Phân tích, tổng hợp, khảo sát, lôgic lịch sử, thống kê, so sánh, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn,…
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đã xây dựng những tiêu chí đánh
giá chất lượng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
Đồng thời, đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những nguyên nhân những kết quả
làm được, những tồn tại, hạn chế đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở Đảng ở quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở quận
Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
- Những kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng cho các trường chính trị; đồng thời
làm tài liệu bồi dưỡng cho các cấp ủy và đảng viên.


10
B. NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trị, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức cơ
sở Đảng
1.1.1. Khái niệm tổ chức cơ sở Đảng
Khái niệm tổ chức cơ sở Đảng được Đảng ta ghi rõ ở Điều 21 - Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam: Tổ chức cơ sở Đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền

tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng
viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở Đảng (trực thuộc cấp ủy cấp huyện). Ở
cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị qn đội, cơng an và
các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức
cơ sở Đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở); cấp ủy cấp trên trực tiếp xem
xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trên nào cho phù hợp;
nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng
viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp. Tổ chức cơ sở Đảng dưới ba mươi
đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ đảng trực thuộc. Tổ chức cơ sở Đảng có từ
ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng ủy.
Những trường hợp sau đây, cấp ủy cấp dưới phải báo cáo và được cấp ủy cấp trên
trực tiếp đồng ý mới được thực hiện: Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa
đủ ba mươi đảng viên; lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở có hơn ba mươi đảng
viên; lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở [21, tr.35-37].
Theo quy định trên, khái niệm tổ chức cơ sở Đảng được gọi chung cho cả
chi bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở tùy thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu
nhiệm vụ cụ thể từng đơn vị cơ sở.


11
1.1.2. Vị trí, vai trị của tổ chức cơ sở Đảng
Ngay từ khi xây dựng tổ chức cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra vị trí, vai trị đặc biệt của chi bộ Đảng. Khi
tham gia vào việc cải tổ “Đồng minh những người chính nghĩa” (1836) thành
“Liên đồn những người cộng sản” (1847-1852), điều lệ đã được khởi thảo.
Thông qua điều lệ, những quan điểm và tư tưởng cơ bản của C.Mác và
Ph.Ăngghen về xây dựng Đảng đã được trình bày khá đầy đủ. Lần đầu tiên luận
điểm xây dựng Đảng đã xác định “Về cơ cấu, liên đoàn, chi bộ, khu bộ, tổng bộ,
Ban Chấp hành Trung ương và Đại hội 27, tr .733.
Đối với tổ chức và hoạt động của Liên đoàn cũng được quy định hết sức

chặt chẽ: Để trở thành hội viên của Liên đoàn, ngoài các điều kiện cần, cịn nhất
thiết phải có “Được một chi bộ nhất trí kết nạp”, “Việc kết nạp hội viên mới của
liên đoàn do chủ tịch chi bộ và hội viên giới thiệu của liên đoàn tiến hành, với
điều kiện là đã có sự đồng ý trước của chi bộ” 27, tr.732-733. Điều đó cho
thấy, hội viên của Liên đồn phải sinh hoạt ở một tổ chức cấp cơ sở của Liên
đồn đó là chi bộ. Hơn nữa, điều lệ khơng những quy định đối với hội viên mà
cịn có cả đối với tổ chức của chi bộ: “Chi bộ gồm ít nhất là 3 và nhiều nhất là
20 hội viên của liên đoàn”, “…sống trong cùng một địa phương”. Việc lãnh đạo
của liên đoàn phải được tiến hành dân chủ, kịp thời và bắt đầu từ chi bộ: “Mỗi
chi bộ bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch…Các Chủ tịch và Phó Chủ tịch của các chi
bộ ấy họp thành Ban Chấp hành khu bộ. Ban Chấp hành bầu ra người lãnh đạo
trong số ủy viên của mình. Ban Chấp hành khu bộ liên lạc với các chi bộ của
mình và với tổng bộ. Ban Chấp hành khu bộ là cơ quan quyền lực đối với tất cả
các chi bộ thuộc khu bộ” 27, tr.733-734.
Từ những tư tưởng, quan điểm đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định vị
trí, vai trị đặc biệt quan trọng của chi bộ: “Để khỏi tụt xuống làm vai trò của kẻ
vỗ tay, hoan nghênh bọn dân chủ tư sản, công nhân và trước hết là liên đoàn


12
phải cố gắng thành lập song song với phái dân chủ chính thức một tổ chức Đảng
riêng biệt, bí mật và công khai của công nhân và biến mỗi chi bộ thành trung
tâm và hạt nhân của các Hội liên hiệp công nhân” [26, tr.348].
Những tư tưởng quan điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen, được
VI.Lênin lấy làm cơ sở, vận dụng, phát triển có sáng tạo thành hệ thống những
tư tưởng, quan điểm về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Nga. Cơ sở của
Đảng vô sản của nước Nga là “Liên minh đấu tranh giải phóng giai cấp công
nhân” do V.I.Lênin thành lập năm 1895. Trong tác phẩm “Về việc cải tổ Đảng”
và nhiều tác phẩm khác của Người, cũng như trong bài báo “Đi vào con đường
thẳng”, Người đã thể hiện tư tưởng xuyên suốt là các chi bộ Đảng ở các công

xưởng, nhà máy là nền tảng, trên đó cả tịa nhà của Đảng Bơnsêvích được xây
dựng. V.I. Lênin đã nhấn mạnh và đặc biệt quan tâm đến việc thành lập chi bộ
Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga ở nhà máy, công xưởng, các địa phương
và coi trọng việc xây dựng các chi bộ đã trở thành hạt nhân lãnh đạo ở cơ sở.
“Những chi bộ Đảng ở các địa phương và nhất là ở các nhà máy dưới sự lãnh
đạo của các phần tử tiên tiến xuất thân ngay từ hàng ngũ cơng nhân và sâu sát
với quần chúng. Đó là cơ sở mà trên đó chúng ta đã xây dựng và xây dựng hạt
nhân vững chắc khơng gì lay chuyển nổi của phong trào công nhân cách mạng
và dân chủ - xã hội” 25, tr.8.
Với V.I.Lênin, tổ chức Đảng được xây dựng ở nhà máy, công xưởng phải
trở thành chỗ dựa cho công tác tuyên truyền, cổ động và công tác tổ chức thực
tiễn trong quần chúng. Chính từ đặc điểm đó, chi bộ Đảng đã trở thành cầu nối
Đảng với các cơ quan cấp trên của Đảng với quần chúng, trực tiếp liên hệ với
quần chúng, là nơi phản ánh kịp thời tâm tư nguyện vọng và những kiến nghị
chính đáng của quần chúng với Đảng. Đến Cách mạng tháng Mười Nga, ngồi
những chi bộ ở nhà máy, cơng xưởng cịn có các chi bộ theo lãnh thổ, ở các câu
lạc bộ. Chính điều này, đã thể hiện quan điểm nhất quán của Người và là một
đòn giáng vào những lời nói ấu trĩ của bọn tư sản cho rằng Đảng Bơnsêvích


13
hình như được xây dựng khơng phải như một Đảng của giai cấp cơng nhân mà
chỉ là một Đảng trí thức.
Để khẳng định quan điểm, tư tưởng nhất quán đó, Hội nghị lần thứ VIII
toàn Nga của Đảng Cộng sản Nga (Đây là hội nghị đầu tiên sau khi cách mạng
tháng Mười Nga thắng lợi và chính quyền Xơ Viết được thành lập), Điều lệ
Đảng đã được bổ sung và khẳng định: “Cơ sở của tổ chức Đảng là chi bộ
Đảng”. Điều lệ cịn nói rõ: “Các chi bộ được thành lập ở các xí nghiệp, các làng,
các đơn vị Hồng quân và các cơ quan”.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930 đã được Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô
cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp
vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng” [31, tr.8]. Hơn 85 năm
qua, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
từ thực tiễn xây dựng và trưởng thành đã khẳng định: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn trung thành với những tư tưởng, quan điểm cơ bản của học thuyết
Mác-Lênin về Đảng và đã vận dụng những quan điểm, tư tưởng ấy một cách
sáng tạo, phù hợp với thực tế nước ta để xây dựng Đảng; đồng thời, thường
xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, khái quát lên tầm lý luận, bổ sung làm
phong phú thêm kho tàng lý luận Mác - Lênin về xây dựng Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập tổ chức Đảng phân tích khá sâu sắc
vị trí, vai trị của chi bộ “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc
sẽ tốt” 30, tr.210. Người cịn nhấn mạnh mối quan hệ giữa chất lượng chi bộ
với chất lượng toàn Đảng. Theo Người, để lãnh đạo cách mạng thì Đảng phải
mạnh “Đảng mạnh là do chi bộ tốt” 30, tr.210, “Chi bộ là nền móng của Đảng,
chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”, ngược lại “Xây dựng chi bộ tốt, cho vững mạnh
là một việc vô cùng quan trọng” 30, tr.77. Như vậy, chất lượng của chi bộ có
quan hệ chặt chẽ và biện chứng với chất lượng của Đảng. Đối với quần chúng,


14
Người viết “Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở
cơ sở. Mỗi cấp bộ của Đảng phải là một cơ quan lãnh đạo vững chắc ở địa
phương theo đúng đường lối, chính sách của Trung ương” [30, tr.28], Người
còn chỉ rõ “Chi bộ là gốc rễ của Đảng trong quần chúng. Chi bộ tốt thì mọi
chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc đều tiến bộ không
ngừng. Trái lại, chi bộ yếu kém thì cơng việc khơng trơi chảy” 29, tr.161.
Trong q trình xây dựng Đảng, Đảng ta ln ln xác định chi bộ có một
vị trí, vai trị quan trọng: là hạt nhân lãnh đạo chính trị, là cầu nối quan trọng
giữa Đảng với quần chúng, vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính

sách của Đảng. Đồng chí Lê Duẩn, Cố Tổng Bí thư của Đảng đã viết: “Nói đến
xây dựng Đảng, trước hết phải nói đến xây dựng chi bộ, vì chi bộ là tổ chức cơ
sở Đảng, là nơi gắn liền Đảng với quần chúng, là nơi vận động quần chúng thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng… Chi bộ còn là nơi giáo dục rèn luyện
Đảng viên, mọi nhân tài của Đảng, trước hết nảy nở ở chi bộ và từ đó mà đưa
dần lên cấp lãnh đạo Đảng từ huyện, tỉnh cho tới Trung ương” 9, tr.154.
Quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã vận
dụng thành công vào thực tiễn công tác xây dựng Đảng, nhất là tổ chức cơ sở
Đảng đảm bảo cho Đảng ta lãnh đạo con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua
bao thác ghềnh để đi đến thắng lợi. Đặc biệt, trong tình hình đổi mới hịên nay,
vị trí, vai trị nền tảng của chi bộ Đảng còn được thể hiện hơn bao giờ hết. Thật
vậy, qua các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI cũng đã
thể hiện rõ, cụ thể tại Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội Đảng lần
thứ XI thông qua đã xác định: “Tổ chức cơ sở Đảng (chi bộ cơ sở, Đảng bộ cơ
sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở” 21, tr.35.
Qua những vấn đề đã trình bày ở trên cho thấy, mỗi tổ chức cơ sở Đảng
(chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là một tế bào cấu thành cơ thể sống và là yếu tố
bảo đảm cho sự phát triển bền vững của toàn Đảng. Hơn nữa, tổ chức cơ sở
Đảng không những là tế bào cấu thành cơ thể sống, các tổ chức cơ sở Đảng còn
là tế bào cơ sở, nền tảng của toàn bộ sự sống của Đảng gắn chặt với đời sống xã


15
hội. Chính vì vậy, mà tổ chức cơ sở Đảng trở thành hạt nhân lãnh đạo chính trị
của Đảng trong quần chúng, trực tiếp đưa đường lối chủ trương của Đảng vào
quần chúng và tổ chức thực hiện đường lối ấy, đồng thời qua hiện thực sinh
động của cuộc sống, từ tâm tư nguyện vọng của quần chúng để phản ánh với
Đảng. Hơn nữa, tổ chức cơ sở Đảng là nơi hàng ngày đảng viên sinh hoạt, học
tập, chiến đấu, là trường học giáo dục rèn luyện đảng viên, nơi sàng lọc đảng
viên và giới thiệu quần chúng ưu tú cho Đảng. Ngày nay, trong công cuộc đổi

mới đất nước, thực tế cho thấy nơi nào có tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững
mạnh, nội bộ đồn kết thì nơi đó thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng kịp thời và hiệu quả, kinh tế - xã hội được nâng lên rõ rệt, an
ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững, lòng tin của dân đối với Đảng
không ngừng được củng cố và nâng lên, quan hệ Đảng với quần chúng ngày
càng thắt chặt. Ngược lại, nơi nào tổ chức cơ sở Đảng yếu kém, mất đồn kết,
đảng viên khơng gương mẫu và tiên phong thì lịng tin đối với Đảng bị giảm sút,
tiềm năng, thế mạnh của địa phương không được khai thác, chủ trương, đường
lối của Đảng thực hịên không đến nơi, đến chốn, dân chủ cơ sở không được
thực hiện, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm.
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng
- Chức năng:
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, các Nghị
quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã quy định rất cụ thể
chức năng của tổ chức cơ sở Đảng. Trên cơ sở quy định chức năng, nhiệm vụ
mà lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ cụ thể. Điều 1, Quy định số 94-QĐ/TW ngày
03/3/2004 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng quy định về chức năng, nhiệm
vụ của Đảng bộ, chi bộ cơ sở phường, thị trấn: “Đảng bộ, chi bộ cơ sở phường,
thị trấn là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo thực hiện chức năng quản lý
hành chính nhà nước và quản lý đơ thị trên địa bàn; xây dựng hệ thống chính trị


16
ở cơ sở vững mạnh, phường, thị trấn giàu đẹp, văn minh; không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn
nghĩa vụ đối với Nhà nước” 16, tr.1.
Chức năng của tổ chức cơ sở Đảng là lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ theo
đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đạt
hiệu quả cao, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân

dân, hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước.
Bất kỳ chủ trương, giải pháp nào đề ra và quá trình lãnh đạo tổ chức thực
hiện nhiệm vụ, tổ chức cơ sở Đảng phải ln ln đảm bảo tính chính trị, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời tạo sự phát triển về mọi mặt: kinh
tế, chính trị, xã hội; nâng cao hiệu quả công tác chống tham nhũng, quan liêu,
lãng phí, kịp thời giải quyết những nguyện vọng chính đáng, thiết thực, bức xúc
của nhân dân.
Đảng lãnh đạo trực tiếp, tồn diện và duy nhất, khơng có lĩnh vực nào trong
xã hội khơng có sự lãnh đạo của Đảng; Đảng là hạt nhân chính trị, tổ chức cơ sở
Đảng đều phải hết sức nhạy cảm, nắm vững những vấn đề chung và những vấn
đề cụ thể để có những chủ trương, nghị quyết lãnh đạo đúng đắn và sâu sát với
tình hình thực tiễn. Thực tế cho thấy, một số nơi, một số địa phương do không
làm tốt chức năng lãnh đạo nên dẫn đến tham nhũng, quan liêu, lãng phí, mất
dân chủ, chia rẽ nội bộ, nhiều năm liền không đạt trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay, chức năng lãnh đạo của tổ chức
cơ sở Đảng còn thể hiện ở việc phải biến được các đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực và đi vào cuộc sống.
- Nhiệm vụ:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích cụ thể nhiệm vụ của từng loại hình chi
bộ. Đối với chi bộ cơ quan, nhiệm vụ cụ thể là: “Làm sao cho toàn thể nhân viên
đều cố gắng thực hiện đầy đủ chính sách của Đảng, của Chính phủ, hết lịng hết
sức phục vụ nhân dân… vì nhân dân, vì Tổ quốc mà đấu tranh, đều thi đua làm


17
đúng những nghị quyết và kế hoạch của Đảng, của Chính phủ” [32, tr.453-454].
Đối với chi bộ ở nơng thơn là: “Tăng cường đồn kết nơng thơn và làm cho tồn
thể xã viên, tồn thể nơng dân phấn khởi, hăng hái sản xuất, thực hành tiết kiệm,
phát triển và củng cố hợp tác xã…phải kiên quyết chống bệnh quan liêu, mệnh
lệnh” [33, tr.222].

Cũng như chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng tùy theo hình thức
các cấp mà có nhiệm vụ riêng. Tuy nhiên, tất cả các tổ chức cơ sở Đảng đều có
nhiệm vụ chung như điều 23 Điều lệ Đảng đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI quy định:
+ Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đề
ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có
hiệu quả.
+ Xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao chất lượng
sinh hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng
cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, thường xuyên giáo dục, rèn luyện và
quản lý cán bộ đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến
đấu, trình độ kiến thức, năng lực cơng tác, làm công tác phát triển đảng viên.
+ Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phịng, an ninh và các đồn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững
mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
+ Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng
và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
+ Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh, kiểm tra tổ chức Đảng
và đảng viên chấp hành điều lệ Đảng.


18
Đảng ủy cơ sở nếu được cấp ủy cấp trên trực tiếp ủy quyền thì được quyết
định kết nạp và khai trừ đảng viên 21, tr.39-41.
Trên cơ sở các nhiệm vụ nói trên, tổ chức cơ sở Đảng cần cụ thể hóa thành
những nhiệm vụ phù hợp với tình hình, đặc điểm của mình và trong từng giai
đoạn nhất định. Cụ thể như: Quán triệt và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, phát triển sự nghiệp văn hóa, thơng tin, giáo dục, y tế, dân số và kế hoạch
hóa gia đình, thực hiện chính sách xã hội, tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân hoàn thành
nghĩa vụ đối với nhà nước, lãnh đạo phát huy dân chủ, thực hiện công bằng xã
hội, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí; lãnh đạo tốt nhiệm vụ quốc phịng
an ninh, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội…
Tóm lại, có 5 nhiệm vụ cơ bản mà các tổ chức cơ sở Đảng cần thực hiện
như sau:
Một là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Hai là, lãnh đạo công tác tư tưởng.
Ba là, lãnh đạo công tác tổ chức và cán bộ
Bốn là, lãnh đạo các đoàn thể nhân dân.
Năm là, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh.
1.2. Quan điểm về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở Đảng
1.2.1. Quan điểm về năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng
Năng lực lãnh đạo của Đảng, theo cuốn sách Tìm hiểu một số khái niệm
trong văn kiện Đại hội IX của Đảng (2001), do PGS Vũ Hữu Ngoạn chủ biên thì
năng lực lãnh đạo của Đảng là “Khả năng đề ra được mục tiêu cách mạng đúng
đắn, cơ bản, lâu dài, cũng như thời kỳ và bằng những phương thức, phương
pháp đúng đắn tổ chức nhân dân, dân tộc thực hiện có hiệu quả” [35, tr.38].


19
Năng lực lãnh đạo của Đảng là khả năng hiện thực bao gồm nhiều nội
dung: năng lực đề ra chủ trương, đường lối, năng lực xây dựng nghị quyết, chỉ
thị, năng lực tổ chức thực hiện đường lối, năng lực kiểm tra phát hiện và xử lý.
+ Năng lực đề ra chủ trương, đường lối của Đảng: Đó là khả năng thực tế
được cụ thể hóa bằng việc xây dựng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chiến
lược và sách lược của Đảng, đồng thời nó phải là sự định hướng phát triển cho

cả thời kỳ lịch sử. Do vậy, Đảng phải nghiên cứu, am hiểu để dự báo, tổng kết
thực tiễn, khái quát lý luận thành cương lĩnh, đường lối, chủ trương và xây
dựng giải pháp mang tính đồng bộ để thực hiện đối với tất cả lĩnh vực liên quan
đến đời sống xã hội, phù hợp với hoàn cảnh trong nước và quốc tế.
+ Năng lực xây dựng nghị quyết của Đảng: Đó là những vấn đề được
nghiên cứu, xem xét, thảo luận của một tập thể và đi đến quyết nghị (có nhiều
loại và do nhiều cấp bộ Đảng khác nhau quyết nghị). Đặc trưng cơ bản của nghị
quyết là biểu quyết tập thể, ý chí và trí tuệ tập thể, sự đúc kết sâu sắc từ kinh
nghiệm thực tiễn phong phú và thể hiện đầy đủ quyền dân chủ.
+ Năng lực tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị
của Đảng là khả năng nắm vững những nội dung, quan điểm, tư tưởng và vận
dụng sáng tạo vào thực tiễn, vào hoàn cảnh cụ thể ở địa phương, đơn vị để từ đó
tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất, thích hợp nhất thực hiện thắng lợi những
mục tiêu đề ra.
+ Năng lực kiểm tra, phát hiện và xử lý những vi phạm là khả năng kiểm
nghiệm thực tiễn những chủ trương, đường lối của mình để phát huy những ưu
điểm, nhược điểm, tồn tại, hạn chế; đồng thời phát hiện những biểu hiện tiêu
cực, những vi phạm trong quá trình xây dựng và thực hiện đường lối đó. Có thể
nói đây là một trong những vấn đề mà Đảng ta rất quan tâm để làm cho Đảng
ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Như vậy: Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng là khả năng nắm vững
những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,


20
nhiệm vụ của cấp trên giao và vận dụng sáng tạo, đúng đắn, phù hợp với điều
kiện thực tiễn đối với công tác lãnh đạo ở địa phương.
1.2.2. Quan điểm về sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng
Sức chiến đấu của Đảng là “sức lực của bản thân Đảng” để chiến đấu, vượt
qua “những trở lực, chông gai phát sinh từ các thế lực thù địch với lý tưởng và sự

nghịêp của Đảng, của nhân dân, của dân tộc, từ những tiêu cực trong xã hội, trong
nội bộ nhân dân, thậm chí trong nội bộ Đảng và cả những khó khăn khách quan
của đất nước,của tình hình kinh tế xã hội trong bước đường đi lên” [35, tr.39].
Sức chiến đấu của Đảng là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, là sự thống nhất về ý chí và hành động, nhằm tạo nên sức mạnh, sức bền
nội tại của Đảng, là ý chí vượt lên trong mọi hoàn cảnh để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ, là khả năng đấu tranh kiên định và hiệu quả với mọi thế lực thù địch
trên các lĩnh vực: chính trị - tư tưởng - tổ chức, bảo vệ trong sạch nội bộ, là tính
tiên phong, gương mẫu của Đảng viên, là sự gắn kết Đảng với quần chúng và uy
tín của Đảng trong quần chúng. Từ đó có thể thấy sức chiến đấu của Đảng được
biểu hiện:
+ Bản lĩnh chính trị, sự vững vàng của Đảng trước những khó khăn và
thách thức trong và ngồi nước.
+ Trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quyết tâm thực hiện
thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng.
+ Kiên quyết đấu tranh loại bỏ những phần tử cơ hội chủ nghĩa, những phần
tử thối hóa biến chất, tham nhũng ra khỏi Đảng, đấu tranh ngăn chặn sự tác động
của những quan điểm, tư tưởng phản động, bảo vệ sự trong sạch nội bộ.
+ Tính tổ chức kỷ luật, tinh thần đồn kết nội bộ, ý thức tập thể trong lãnh
đạo và sinh hoạt Đảng.
+ Phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, trình độ năng lực thực tế và vai
trị tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ đảng viên.


21
+ Lối sống, phương pháp công tác và phong cách lãnh đạo của cán bộ đảng viên.
Từ những vấn đề đã trình bày trên, có thể nhận thấy sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng và tổ chức, sự
thống nhất về ý chí và hành động, là khả năng đấu tranh chống lại mọi tác động

làm suy yếu tổ chức cơ sở Đảng, là sự gắn kết Đảng với quần chúng để thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Như vậy, tổ chức cơ sở Đảng có sức chiến đấu cao là thể hiện ở những nội
dung chủ yếu: Chất lượng hoạt động của chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở, trình độ
chun mơn nghiệp vụ, ý thức tự giác và bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức,
lối sống của đảng viên và vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên. Khả
năng khắc phục những khó khăn và yếu kém, những biểu hiện tiêu cực, những
sai trái trong chi ủy, đảng ủy và trong nhân dân. Đấu tranh ủng hộ cái đúng, cái
mới, phê phán cái cũ, lạc hậu và các thế lực thù địch. Đặc biệt, là mỗi đảng viên
phải “vừa hồng, vừa chuyên”, thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc tổ chức,
kỷ luật Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình,
khơng bè phái làm mất đoàn kết nội bộ.
1.2.3. Mối quan hệ giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở Đảng
Từ quan niệm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng
có thể thấy rằng: Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng là
vấn đề cơ bản nhất và quyết định đối với khả năng lãnh đạo hoàn thành nhiệm
vụ chính trị của tổ chức cơ sở Đảng và nó là những căn cứ chủ yếu để xây dựng,
đồng thời là căn cứ xem xét, đánh giá về tổ chức cơ sở Đảng có trong sạch,
vững mạnh hay khơng.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng luôn vận động,
phát triển theo yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng và nhiệm vụ chính trị ở địa
phương. Trong từng giai đoạn, tình hình cụ thể mà cơng tác lãnh đạo có những


22
trọng tâm khác nhau. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng là khả năng nắm bắt và xử lý đúng những công việc trọng tâm đó.
Hơn nữa, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng có tác
động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau, có những nội dung của mặt này cũng đồng thời

thể hiện nội dung của mặt kia và ngược lại; song, chúng khơng hồn tồn đồng
nhất mà mỗi mặt có những biểu hiện đặc trưng, có tính độc lập tương đối.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng tốt sẽ là cơ sở cho sức chiến đấu
cao, đồng thời, tổ chức cơ sở Đảng có sức chiến đấu cao là điều kiện để năng lực
lãnh đạo tốt. Do đó, sức chiến đấu cao thì năng lực lãnh đạo càng tốt và ngược lại.
Thực tế cho thấy giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu rất khó chia tách rạch
rịi vấn đề nào là của năng lực lãnh đạo và vấn đề nào của sức chiến đấu.
Có thể nói, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng là
khả năng nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, nghị quyết của cấp trên và vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện
thực tiễn của địa bàn dân cư, là khả năng tập trung được nguồn lực, khai thác
được thế mạnh của địa phương, phát huy được sức mạnh tổng hợp nhằm thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở Đảng. Bên cạnh đó, cịn là
khả năng tun truyền, vận động và tổ chức quần chúng thực hiện tốt các yêu
cầu đề ra, là việc thực hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đấu tranh kiên quyết với
mọi biểu hiện tiêu cực trong tổ chức cơ sở Đảng và trong nhân dân, bảo vệ
những cái đúng, cái mới phù hợp với xu hướng chung của những tổ chức, cá
nhân; đấu tranh những vi phạm điều lệ Đảng và pháp luật.
Như vậy: Những nhân tố cấu thành năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
không chỉ là chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng, là sức mạnh của bản thân, đây
còn là khả năng phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, khả năng huy
động và vận động quần chúng nhân dân.


23
1.2.4. Tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở Đảng
Nhằm đánh giá đúng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng ta phải căn cứ vào các nhiệm vụ của nó. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một

văn bản nào hướng dẫn cụ thể về việc đánh giá năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở Đảng, mà chỉ vận dụng các quy định của tổ chức cơ sở
Đảng để áp dụng cho việc đánh giá. Theo chúng tôi để xây dựng tiêu chí để
đánh giá năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng cần căn cứ
vào các quy định sau:
+ Điều 23, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
+ Yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành
Trung ương (khóa VIII).
+ Đẩy mạnh xây dựng, kiện tồn và tăng sức chiến đấu cho tổ chức cơ sở
đảng gắn với xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đồn thể cơ sở và phong
trào cách mạng của quần chúng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX).
+ Hướng dẫn số 27-HD/BTCTW ngày 25/9/2014 của Ban Tổ chức Trung
ương hướng dẫn kiểm điểm tập thể, cá nhân và đánh giá, phân loại chất lượng tổ
chức cơ sở Đảng, đảng viên hàng năm.
+ Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.
+ Quy định số 220-QĐ/TU ngày 27/12/2013 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng (khóa XI) về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách
tham mưu giúp việc huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy trực thuộc tỉnh ủy,
thành ủy.


24
Do vậy, để đánh giá năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng hiện nay cần dựa trên những tiêu chí chủ yếu sau:
+ Về thực hiện nhiệm vụ chính trị:
Việc triển khai, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của

Trung ương và nhiệm vụ được cấp ủy cấp trên giao; kết quả thực hiện các nhiệm
vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
+ Về cơng tác chính trị tư tưởng:
Tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
quán triệt, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
đấu tranh với những biểu hiện, hành vi sai trái; tuyên truyền, học tập và làm theo
báo, tạp chí của Đảng. Xây dựng và thực hiện các tiêu chí về chuẩn mực đạo
đức của cán bộ, đảng viên, định kỳ đánh giá kết quả và biểu dương các tập thể,
cá nhân tiêu biểu trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
+ Về cơng tác tổ chức, cán bộ và xây dựng đảng bộ, chi bộ:
Kết quả thực hiện công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên, bảo vệ chính trị nội
bộ. Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc
tập trung dân chủ; quy chế làm việc của cấp ủy; đổi mới phương thức lãnh đạo;
nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, tổ chức đảng; xây dựng đội ngũ cấp
ủy viên và bí thư chi bộ; quản lý, phân công nhiệm vụ cho đảng viên và kết nạp
đảng viên mới; giới thiệu đảng viên đang công tác giữ mối liên hệ với cấp ủy
nơi cư trú; thực hiện cải cách hành chính và cơng tác thi đua, khen thưởng.
+ Về lãnh đạo xây dựng chính quyền (cơ quan, đơn vị):
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội: Xây dựng các tổ chức
trong hệ thống chính trị vững mạnh; phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của
chính quyền cùng cấp, xem xét, giải quyết những vấn đề nẩy sinh ở cơ sở; củng
cố mối quan hệ giữa các tổ chức và khối đại đoàn kết toàn dân; kiểm tra, giám
sát đối với hoạt động của chính quyền, tổ chức, cơ quan, đơn vị.
+ Về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng:


25
Kết quả thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát của cấp ủy, Ủy ban kiểm tra
và công tác tự kiểm tra, giám sát của đảng bộ, chi bộ. Công tác phịng, chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo;

phát hiện, xử lý tổ chức đảng, đảng viên vi phạm.
1.3. Những yếu tố ảnh hƣởng và yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng
1.3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở Đảng
Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở Đảng là yêu cầu thiết thực và cấp bách hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên, để làm được điều này đòi hỏi phải xem xét, phân tích, đánh giá
những yếu tố khách quan và chủ quan tác động năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Bởi vì, những yếu tố này đóng một vai trị to lớn
đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, nó vừa là
điều kiện cần và cũng là điều kiện đủ.
Những yếu tố khách quan:
Trong thời kỳ đổi mới, sự sụp đổ của mơ hình xã hội chủ nghĩa hiện thực ở
Liên Xơ và các nước Đông Âu trước đây cũng như tác động tiêu cực của mặt
trái nền kinh tế thị trường, tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng
và phức tạp, các thế lực thù địch, những phần tử phản động và bất mãn trong
nước tiến công phủ nhận lịch sử cách mạng của dân tộc, đặt lại vấn đề cơ bản
trong cương lĩnh, đường lối của Đảng ta. Các thế lực thù địch đã lợi dụng, cổ
vũ, khích lệ để chống phá Đảng ta bằng hai con đường (từ bên ngồi và từ bên
trong), hịng thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng dùng nhiều
chiêu thức để chia rẽ nội bộ, chúng đưa cao ngọn cờ dân chủ và lợi dụng một số
vấn đề nhạy cảm: tôn giáo, dân tộc…chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc mà sự
kiện Tây Nguyên là một minh chứng. Trước những diễn biến như vậy khiến cho
một số cán bộ, đảng viên hoang mang, dao động, suy thối về tư tưởng chính trị,


×