Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Nâng cáo chất lượng bồi dưỡng lý luận chính trị của các trung tâm bồi dưỡng chính trị ở thành phố cần thơ giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (729.29 KB, 111 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

CAO VĂN NGOAN

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG BỒI DƢỠNG
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA CÁC TRUNG TÂM
BỒI DƢỠNG CHÍNH TRỊ Ở THÀNH PHỐ
CẦN THƠ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

ĐỒNG THÁP - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

CAO VĂN NGOAN

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG BỒI DƢỠNG
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA CÁC TRUNG TÂM
BỒI DƢỠNG CHÍNH TRỊ Ở THÀNH PHỐ
CẦN THƠ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Đoàn Minh Duệ


ĐỒNG THÁP - 2015


LỜI CẢM ƠN
Tôi trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Giáo dục Chính trị, Phịng
đào tạo Sau đại học, cùng tồn thể các thầy giáo, cơ giáo Trường Đại học Vĩnh
đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt cho tơi những kiến thức lý luận chính trị quý
báu, tạo điều kiện giúp đỡ tơi trong q trình học tập.
Tơi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. GVCC. Đoàn Minh Duệ
đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tơi hồn thành luận văn này.
Cuối cùng, tơi xin gửi lời cảm ơn đến Huyện ủy Vĩnh Thạnh; Các Trung
tâm Bồi dưỡng chính trị quận, huyện; Ban tuyên giáo Thành ủy Cần Thơ, đồng
nghiệp, gia đình và bạn bè đã động viên tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình
học tập và hồn thành luận văn này.
Thành phố Cần Thơ, tháng 5 năm 2015
Tác giả

Cao Văn Ngoan


MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU...................................................................................................... 01
B. NỘI DUNG..................................................................................................

08

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
BỒI DƢỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TẠI CÁC TRUNG TÂM BỒI
DƢỠNG CHÍNH TRỊ……………………………………………………….


08

1.1. Một số khái niệm………………………………………………………...

08

1.2. Vai trị, chức năng của cơng tác bồi dưỡng lý luận chính trị của các trung
tâm bồi dưỡng chính trị…………………………………………………….
23
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG BỒI DƢỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG BỒI DƢỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CỦA CÁC TRUNG TÂM BỒI DƢỠNG CHÍNH TRỊ Ở THÀNH PHỐ
CẦN THƠ……………………………………………………………………

35

2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, xã hội và các trung
tâm bồi dưỡng chính trị ở thành phố Cần Thơ……………………………….

35

2.2. Thực trạng BDLLCT và nâng cao chất lượng BDLLCT của các trung tâm
bồi dưỡng lý luận chính trị TP Cần Thơ……………………………………,,,,,,, 43
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG BỒI DƢỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CỦA CÁC TRUNG TÂM BỒI DƢỠNG CHÍNH TRỊ Ở THÀNH PHỐ
CẦN THƠ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY…………………………….

69


3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng BDLLCT của các TTBDCT ở thành
phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay……………………………………..
69
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng BDLLCT của các TTBDCT
ở thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay……………………………..
73
C. KẾT LUẬN.................................................................................................. 91
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đ. PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCHĐB

:

Ban Chấp hành Đảng bộ

BTVTU

:

Ban Thường vụ Thành ủy

BTGTU

:

Ban Tuyên giáo Thành ủy


BTGTW

:

Ban Tuyên giáo Trung ương

ĐBSCL

:

Đồng bằng sông Cửu Long

ĐTBD

:

Đào tạo, bồi dưỡng

LLCT

:

Lý luận chính trị

BDLLCT

:

Bồi dưỡng lý luận chính trị


TTBDCT

:

Trung tâm Bồi dưỡng chính trị

UBND

:

Uỷ ban nhân dân

HTCT

:

Hệ thống chính trị

TPCT

:

Thành phố Cần Thơ

Nxb

:

Nhà xuất bản


TS

:

Tiến Sĩ

GS

:

Giáo sư

PGS

:

Phó Giáo sư


1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác BDLLCT là một bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng, có
vai trị hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. C.Mác chỉ rõ:
"Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ
khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận
cũng trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [49;
580]. V.I.Lênin nhấn mạnh: "Không có lý luận cách mạng thì khơng có phong

trào cách mạng” [58; 30] và “chỉ Đảng nào trang bị lý luận tiên phong thì Đảng
đó mới hồn thành trách nhiệm tiên phong của mình" [58; 32].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác
BDLLCT trong tổ chức các hoạt động phong trào cách mạng cho cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân. Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam chưa ra
đời, Hồ Chí Minh đã mở nhiều lớp huấn luyện cho các lớp thế hệ thanh niên
Việt Nam yêu nước về ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, những nguyên lý
của chủ nghĩa cộng sản, tinh thần đấu tranh, phương pháp cách mạng… đó là
bước khởi đầu chuẩn bị về lý luận và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Gần 85 năm qua, công tác BDLLCT được Đảng ta tiến hành thường
xuyên và liên tục, ngày càng sâu rộng và có bước phát triển mới. Trong những
năm gần đây, Đảng ta càng đặc biệt quan tâm đến vấn đề này, Ngày 3/6/1995
Ban Bí thư Trung ương (Khoá VII) ban hành Quyết định số 100- QĐ/TW về
việc tổ chức Trung tâm Bồi dưỡng chính trị ở cấp huyện, nhằm tăng cường cơng
tác chính trị, tư tưởng, thường xuyên bồi dưỡng các chương trình LLCT; tuyên
truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân để tạo sự thống nhất trong Đảng, sự
đồng thuận trong nhân dân; bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ công tác Đảng, chính


2

quyền và nghiệp vụ chuyên môn cho HTCT cơ sở trên địa bàn cấp huyện. Đặc
biệt, khi Ban Bí thư Trung ương (khoá X) ban hành Quyết định số 185-QĐ/TW,
ngày 03/9/2008 “Về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của TTBDCT huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh”, từ đó cơng tác BDLLCT lại đặt ra những nội
dung u cầu mới.
Trong thời gian qua, Đảng ta đã có nhiều Nghị quyết chuyên đề về công
tác tư tưởng lý luận trong tình hình mới. Nghị quyết số 01-NQ/TW ngày

28/3/1992, của Bộ Chính trị về “Cơng tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”;
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX, Khóa X), Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày
26/5/2014 của Bộ Chính trị, Đảng chỉ đạo các cấp ủy tiến hành tổng kết công tác
tuyên truyền miệng và tăng cường công tác tuyên truyền miệng trong tình hình
mới và tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
cho cán bộ lãnh đạo quản lý, thể hiện sự quan tâm đối với công tác BDLLCT
của Đảng.
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ BDLLCT của mình, những năm qua, các
TTBDCT ở TPCT hoạt động tương đối chặt chẽ, thống nhất và dần đi vào nền
nếp; nội dung chương trình được biên soạn lại sát với tình hình thực tế hơn; cơ
sở vật chất, trang thiết bị được quan tâm đầu tư, nâng cấp một bước; tổ chức, bộ
máy các trung tâm đang được củng cố, kiện tồn; trình độ đội ngũ giảng viên
kiêm chức, chuyên trách và báo cáo viên từng bước được chuẩn hoá.
Tuy nhiên, chất lượng BDLLCT của các TTBDCT ở TPCT còn nhiều mặt
chưa đáp ứng u cầu. Nội dung chương trình BDLLCT cịn những bất cập,
chưa thống nhất. Cơ sở vật chất, trang thiết bị của các trung tâm mặc dù có quan
tâm đầu tư, nhưng một số trung tâm vẫn còn tạm bợ, phòng học không đảm bảo,
trang thiết bị lạc hậu không phù hợp với điều kiện hiện nay. Đội ngũ giảng viên
kiêm chức một số chưa đảm bảo về trình độ chuyên mơn cũng như trình độ
LLCT theo quy định. Số giảng viên được bồi dưỡng về nghiệp vụ sư phạm chưa


3

nhiều, nên ảnh hưởng lớn đến chất lượng BDLLCT của các trung tâm. Đại hội
đại biểu Đảng bộ TPCT lần thứ XII, nhiệm kỳ 2010-2015 nhận định: “...công tác
tư tưởng, lý luận chưa sắc bén, tính thuyết phục chưa cao. Việc triển khai quán
triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng chưa sâu;…”.
Từ những vấn đề đã nêu trên, là một giảng viên kiêm chức tham gia
giảng dạy tại Trung tâm BDCT huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ, tôi nhận

thấy việc nâng cao chất lượng BDLLCT của các Trung tâm BDCT ở thành phố
Cần Thơ hiện nay là một vấn đề cần đặc biệt được quan tâm nghiên cứu. Với ý
nghĩa đó, chúng tơi chọn vấn đề: "Nâng cao chất lượng bồi dưỡng lý luận
chính trị của các Trung tâm bồi dưỡng chính trị ở thành phố Cần Thơ trong
giai đoạn hiện nay" làm đề tài tốt nghiệp cao học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, vấn đề đào tạo, BDLLCT, đổi mới và nâng cao
chất lượng hoạt động các TTBDCT đã được nhiều nhà khoa học, nhà lãnh đạo
quan tâm nghiên cứu. Đến nay đã có nhiều cơng trình khoa học, luận văn,
luận án nghiên cứu về vấn đề này, trong đó có một số cơng trình tiêu biểu có
liên quan sau đây:
2.1. Sách, tạp chí và đề tài khoa học
- Vũ Thùy Thuỳ, “Công tác giáo dục LLCT cho cán bộ đảng viên ở cơ sở
của tỉnh Hải Dương - Thực trạng và kinh nghiệm”, Tạp chí Thơng tin cơng tác
Tư tưởng, lý luận, số 4 năm 2006.
- Trần Khắc Việt, “Đào tạo lý luận sao cho thiết thực”, Tạp chí LLCT, số
6 năm 2006.
- Trần Thị Tâm, “Xác định tính đặc thù của các TTBDCT huyện để nâng
cao chất lượng giảng dạy”, Tạp chí Thơng tin cơng tác tư tưởng, lý luận, năm
2006.


4

- Đặng Thanh Long, “Tiếp tục nâng cao hiệu quả của trung tâm bồi
dưỡng chính trị huyện ở Kom Tum”, Tạp chí Cơng tác Tư tưởng, lý luận, số 4,
năm 2006.
- Phương Kiến Quốc, “Đổi mới phương pháp dạy và học lý luận chính trị
ở trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Cầu Giấy”, Tạp chí Tư tưởng- Văn hố,
Số 4, năm 2007.

- PGS.TS. Trần Hữu Cát và PGS.TS.CVCC. Đoàn Minh Duệ (đồng chủ
biên) giáo trình: “Đại cương khoa học quản lý”, Nxb Nghệ An, 2008
- PGS.TS.CVCC Đoàn Minh Duệ, GS.TS Nguyễn Đăng Dung (đồng chủ
biên) giáo trình: “Lịch sử các học thuyết chính trị”, Nxb Từ điển Bách khoa,
2010
- PGS.TS.CVCC Đoàn Minh Duệ, GS.TS Nguyễn Đăng Dung (đồng chủ
biên) giáo trình: “Chính trị học”, Nxb Nghệ An,2014
- Đề tài khoa học cấp tỉnh: “Đề án đầu tư xây dựng hệ thống TTBDCT
quận, huyện thuộc TPCT đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020”. Do Trần
Văn Kiệt làm chủ nhiệm, năm 2010.
- Mai Yến Nga, “Một vài kinh nghiệm trong hoạt động ở trung tâm bồi
dưỡng chính trị huyện Kiên Lương”, tạp chí Thơng tin Cơng tác Tư tưởng, lý
luận, số 3, năm 2006.
- Nguyễn Thị Thu Hà, “Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ của
thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu mới”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5
năm 2010.
- PGS.TS.GVCC . Đoàn Minh Duệ và Ths. Hồ Thị Hồng Cúc (Đồng chủ
biên), “Một số giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ cơ sở
các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long trong thời kỳ hội nhập và phát triển”,Nxb
Nghệ An, 2014.


5

2.2. Luận văn, luận án
- Vũ Xuân Quảng, "Nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng cán bộ xã,
phường, thị trấn ở Trường chính trị Thái Bình hiện nay", Luận văn thạc sỹ Khoa
học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001.
- Thiều Quang Nhàn, "Công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp phường ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay - Thực trạng và

giải pháp", Luận văn thạc sỹ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 2003.
- Trịnh Thị Hoa, “Chất lượng hoạt động của các trung tâm bồi dưỡng
chính trị huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay”,
Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2008.
Nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập tới nhiều khía
cạnh của công tác BDLLCT tại các TTBDCT. Mặc dù vậy, các cơng trình
nghiên cứu trên chưa đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao
chất lượng BDLLCT ở các TTBDCT. Đến nay, chưa có cơng trình, đề tài nào
nghiên cứu một cách cụ thể, có hệ thống về nâng cao chất lượng BDLLCT của
các TTBDCT ở thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác BDLLCT của các
TTBDCT ở thành phố Cần Thơ, đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân,
luận văn đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
BDLLCT của các TTBDCT ở thành phố Cần Thơ giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích đặc điểm công tác BDLLCT của các TTBDCT và đặc điểm của
đội ngũ cán bộ - đối tượng học viên của các TTBDCT ở thành phố Cần Thơ.


6

- Làm rõ quan niệm về nâng cao chất lượng BDLLCT của các TTBDCT ở
thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng công tác BDLLCT của các TTBDCT ở thành phố
Cần Thơ; chỉ rõ nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm cần thiết.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng

BDLLCT của các TTBDCT ở thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng: đối tượng nghiên cứu của luận văn là nâng cao chất lượng
BDLLCT của các TTBDCT ở thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu nâng cao chất lượng BDLLCT của các
TTBDCT ở thành phố Cần Thơ từ năm 2011 đến nay. Phương hướng và những
giải pháp của luận văn có giá trị đến 2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin. Đồng thời thực hiện các phương pháp chuyên ngành như: Phân tích
tổng hợp; logic lịch sử; điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương pháp
chuyên gia.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ quan niệm về nâng cao chất lượng BDLLCT
của các TTBDCT ở thành phố Cần Thơ giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng công tác BDLLCT và thực trạng nâng cao chất
lượng BDLLCT của các TTBDCT ở thành phố Cần Thơ hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng BDLLCT của các
TTBDCT ở thành phố Cần Thơ những năm tới.


7

- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
lãnh đạo, chỉ đạo của địa phương về nâng cao chất lượng BDLLCT cho cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân; làm tài liệu nghiên cứu, học tập của học viên
ở các TTBDCT ở thành phố Cần Thơ giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận

văn được kết cấu trong 3 chương:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng bồi dưỡng lý luận
chính trị tại các Trung tâm bồi dưỡng chính trị
Chƣơng 2. Thực trạng bồi dưỡng lý luận chính trị và nâng cao chất lượng
bồi dưỡng lý luận chính trị của các Trung tâm bồi dưỡng chính trị ở thành phố Cần
Thơ
Chƣơng 3 . Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng bồi dưỡng lý luận chính trị của các Trung tâm bồi dưỡng chính trị ở thành
phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay


8

B. NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG BỒI DƢỠNG
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TẠI CÁC TRUNG TÂM BỒI DƢỠNG CHÍNH TRỊ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Lý luận chính trị
1.1.1.1. Lý luận chính trị
Khái niệm “Lý luận”:
Cho đến bây giờ, khái niệm lý luận chưa hoàn tồn thống nhất, bởi có rất
nhiều cách tiếp cận, cách diễn đạt khác nhau- Do lý luận là một phạm trù rộng
lớn, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội lồi người. Vì thế,
khái niệm lý luận ngày càng được hiểu một cách đầy đủ hơn.
Từ điển triết học, định nghĩa: “Lý luận là sự tổng hợp các tri thức về tự
nhiên và xã hội tích lũy được trong q trình lịch sử”; là “hệ thống tư tưởng chủ
đạo trong một lĩnh vực tri thức”.
Từ điển Tiếng Việt viết: “Lý luận là hệ thống những tư tưởng được khái
quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận là những

kiến thức được khái quát và hệ thống trong một lĩnh vực nào đó”.
Trong cuốn Phương pháp giảng dạy lý luận chính trị do Ban Tuyên giáo
TW xuất bản năm 2008 viết: “Lý luận, hiểu theo nghĩa chung nhất là các khái
niệm, phạm trù, quy luật được khái quát hóa từ hoạt động thực tiễn của con
người. Lý luận là kết quả nhận thức chủ quan của con người đối với những hiện
tượng khách quan của tự nhiện, xã hội và tư duy”.
Đoàn Thế Hanh trong bài viết: Tăng cường nhận thức lý luận chính trị đối
với cán bộ, đảng viên theo tinh thần nghị quyết TW 5 khóa X, Tạp chí Cộng sản
số 781 (11/2007), đã khẳng định: “Lý luận là hệ thống những tri thức đã được


9

khái quát, tạo ra một quan niệm hoàn chỉnh về các quy luật và về mối liên hệ cơ
bản của hiện thực. Lý luận là sự phản ánh và tái hiện hiện thực khách quan. Mọi
lý luận đều quy định bởi hồn cảnh lịch sử trong đó nó hình thành từ điều kiện
cụ thể của lịch sử sản xuất, kỷ thuật và thực nghiệm”.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì: “Lý luận là sự tổng kết
những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã
hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”
Mặc dù, các khái niệm lý luận đã trình bày ở trên tuy có khác nhau về
hình thức hoặc cách dùng từ trong diễn đạt, nhưng đều có những điểm tương
đồng, đó là: Lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh
nghiệm thực tiễn của con người, phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên
mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan và được
biểu đạt bằng hệ thống những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật...; lý
luận có cơ sở là thực tiễn, lý luận có tính khái qt cao, thể hiện bản chất của sự
vật, hiện tượng; lý luận có tính hệ thống.
Khái niệm “Chính trị”:
Chính trị là một hiện tượng xã hội đặc biệt, nó xuất hiện cùng với sự

phân chia xã hội thành giai cấp và nhà nước, sự thăng trầm của lịch sử nhân loại,
xét đến cùng đều có nguồn gốc sâu xa từ những thay đổi trong lĩnh vực chính trị,
vì tính phức tạp của nó mà cho đến nay vẫn cịn nhiều tranh luận xung quanh
khái niệm chính trị. Theo tiếng Hy lạp “Politica” có nghĩa là những công việc
liên quan tới nhà nước, là nghệ thuật cai trị đất nước, đó cịn là một tổ chức xã
hội nằm dưới quyền lực nhất định, quyền lực nhà nước. Theo Từ điển tiếng Việt,
Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa (2010), Chính trị có nghĩa là: Những vấn đề về
tổ chức và điều khiển bộ máy nhà nước trong nội bộ một nước và về mối quan
hệ chính thức giữa các nước với nhau; là những hoạt động của một giai cấp, một
chính Đảng, một tập đồn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền điều khiển bộ
máy nhà nước.


10

C.Mác và Ph.Ăng ghen, những nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học,
khi đề cập đến chính trị, các ơng xem xét chính trị với tư cách là một hiện tượng
xã hội -chính trị mang tính lịch sử, chỉ ra vai trị to lớn của nó trong đời sống xã
hội. Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cho rằng:
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là tham gia vào việc nhà nước, định
hướng cho sự phát triển của đất nước, xác định hình thức, nhiệm vụ và nội dung
hoạt động của nhà nước. Chính trị phản ánh cuộc đấu tranh của các giai cấp
xung quanh vấn đề giành, giữ, sử dụng chính quyền và cuối cùng do địa vị kinh
tế của những giai cấp đó quy định. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế.
Những quan hệ chính trị, những vấn đề chính trị có ảnh hưởng trở lại mạnh mẽ
đối với kinh tế hoặc thúc đẩy, hoặc cản trở sự phát triển kinh tế. Chính trị biểu
hiện trên các tri thức được tích lũy trong q trình lịch sử và những quan hệ thực
tế gắn với con người, với giai cấp, với dân tộc và với thời đại. Với tư cách là hệ
thống các quan hệ xã hội hiện thực, chính trị có tính khách quan, khơng phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của bất cứ cá nhân hay đảng phái nào, với tư cách là

một thiết chế xã hội, chính trị ln tìm cách dẫn dắt xã hội theo tư tưởng của
giai cấp nắm quyền thống trị xã hội.
Khái niệm “Lý luận chính trị”
Trong cuốn Phương pháp giảng dạy Lý luận Chính trị do Ban Tuyên giáo
TW xuất bản năm 2008 cho rằng: “Lý luận chính trị là từ ghép giữa lý luận và
chính trị. Ở đây, lý luận được giới hạn ở lĩnh vực chính trị, khái niệm chỉ mối
liên hệ giữa các giai cấp trong xã hội có giai cấp, xung quanh vấn đề giành hoặc
giữ chính quyền của giai cấp mình.
Do vậy, lý luận chính trị được hiểu là những vấn đề lý luận gắn liền với
cuộc đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội có giai cấp, xung quanh vấn đề
giành và giữ chính quyền” [17; 7]


11

Lý luận chính trị là hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính
sách của một Đảng, một giai cấp để giành và thực thi quyền lực nhà nước, lý
luận chính trị thể hiện bản chất của hoạt động chính trị có tính hệ thống, lý luận
chính trị ra đời khi xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp để đại diện cho lợi
ích của một Đảng, một giai cấp cầm quyền trong xã hội.
Đảng Cộng sản Việt nam lấy Chủ nghĩa Mác- Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Căn cứ vào
những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta xác
định những quan điểm chỉ đạo cơ bản, từ đó xây dựng một hệ thống những chủ
trương, chính sách phù hợp. Nhờ đó, Đảng ta xác định những quan điểm chỉ đạo
cơ bản, từ đó xây dựng một hệ thống những chủ trương, chính sách phù hợp.
Nhờ đó, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh đạo nhân dân ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, cho dù hồn cảnh nào, Đảng ta vẫn ln kiên
trì Chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên trì phát triển đất nước theo con đường mà Bác
và cả dân tộc đã lựa chọn.

Hệ thống lý luận chính trị của Đảng ta là lý luận về thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, về nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, về đấu tranh giai cấp, về xây dựng Đảng và Nhà nước, về dân
tộc…
Đảng ta nhấn mạnh việc học tập, nghiên cứu, rèn luyện và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc do thực tiễn đất nước và thời đại
đặt ra. Tuy nhiên, việc học tập đó phải khơng ngừng được bổ sung, phát triển
trên cơ sở thực tiễn để lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh ln có sức sống mãnh liệt trong sự nghiệp cách mạng, trong sự phát triển
trường tồn của dân tộc.


12

Nghị quyết hội nghị lần thứ 5, BCHTW Đảng khóa IX đã đề ra nhiệm vụ
đối với công tác lý luận trong tình hình mới bao gồm những vấn đề sau:
1. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ
hơn lý luận về Chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác tun truyền giáo dục lý luận
chính trị, tạo sự thống nhất cao hơn nữa trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân
dân…
3. Công tác tư tưởng, lý luận phải góp phần giải quyết những vấn đề kinh
tế - xã hội bức xúc, chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, chặn
đà suy thoái về đạo đức, lối sống.
4. Chủ động tiến cơng, triển khai có hiệu quả cuộc đấu tranh trên mặt trận
tư tưởng, lý luận, làm thất bại chiến lược “Diễn biến hịa bình”, âm mưu bạo
loạn lật đổ của các thế lực thù địch” [37; 95-96].
Học tập lý luận chính trị, bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị chính là
xây dựng, phát triển, truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,

các quan điểm đường lối của Đảng, hình thành hệ giá trị cách mạng và khoa học
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
1.1.1.2.Bản chất của lý luận chính trị
Lý luận chính trị xuất phát từ thực tiễn
Thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính
lịch sử - xã hội. Theo PGS. TS. Đồn Minh Duệ, lịch sử hình thành và phát triển
của xã hội loài người trước hết phải là lịch sử của quá trình cải tạo thực tiễn tự
nhiên xã hội. Để thực hiện được cơng việc này thì điều kiện cơ bản là con người
phải có tri thức. Tri thức là cái khơng phải có sẳn trong đầu óc con người mà
được hình thành và bổ sung trong quá trình con người tác động vào tự nhiên và
xã hội để cải tạo thế giới. Từ những kinh nghiệm thu thập được trong hoạt động


13

thực tiễn, con người trừu tượng hóa, khái quát hóa để hình thành nên lý luận về
một lĩnh vực hiện thực nhất định của đời sống xã hội, định hướng cho thực tiễn.
C. Mác nêu rõ: “Thực tiễn của cuộc sống hiện đại, sự áp bức chính trị của
chính phủ hiện tồn tại với cơng nhân nhằm mục đích chính trị cũng như xã hội
đều buộc giáo dục công nhân dù muốn hay khơng cũng phải làm chính trị. Cổ vũ
họ từ bỏ chính trị có nghĩa là đẩy họ vào vịng tay của chính trị tư sản. Từ bỏ
chính trị là hồn tồn khơng thể được, đặc sau Cơng xã Pari đã đưa hoạt động
chính trị của giai cấp vơ sản vào chương trình nghị sự”.
Bên cạnh đó, lý luận chính trị là hệ thống lý luận về một lĩnh vực chính
trị, phản ảnh trực tiếp tập trung lợi ích của một giai cấp, một chính đảng nhất
định trong xã hội; là cơ sở lý luận cho hệ thống các quan điểm, chủ trương,
đường lối, chính sách của một Đảng hay một giai cấp nhằm giành, giữ và thực
thi quyền lực Nhà nước. Để thực hiện được chức năng này, lý luận chính trị
buộc phải xuất phát từ thực tiễn hoạt động chính trị. Từ đó chính trị mới có
những bài học kinh nghiệm, có cơ sở để lý luận chính trị bổ sung, hồn thiện các

quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách nhằm định hướng trở lại cho hoạt
động chính trị.
Lý luận chính trị mang tính giai cấp
Xã hội có chính trị là xã hội cịn giai cấp, cịn nhà nước. Trong xã hội đó,
vấn đề chính trị ln tồn tại, chỉ khác nhau về tính chất, quy mơ, mục tiêu,
phương pháp…mà thơi. Chính trị là một trong những lĩnh vực cơ bản của đời
sống xã hội, nó có mối quan hệ và tác động qua lại với các lĩnh vực khác như
kinh tế, văn hóa, tư tưởng…tính giai cấp của chính trị đã được khẳng định.
Khi bàn về tính giai cấp của lý luận chính trị, Triết gia Khổng Tử là một
trong những nhà tư tưởng đầu tiên của Phương Đơng có cách tiếp cận riêng đến
chính trị. Niềm tin chính trị của ơng gắn chặt với tư tưởng đức trị. Ông cho rằng:
Chỉ những người quân tử có đức sáng mới có thể cai trị thiên hạ tốt bằng chính


14

tấm gương đạo đức và tình thương yêu dân chúng của mình. Khổng Tử cũng cho
rằng, một triều đại tốt là “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”, nghĩa là vua
phải làm trịn bổn phận của vua, tơi phải làm trịn bổn phận của tơi, cha phải làm
trịn bổn phận của cha và con phải làm tròn bổn phận của con và mọi người sống
chan hòa, thân ái với nhau.
Như vậy, tiếp cận các quan niệm trên có thể xem chính trị là một lĩnh vực
của đời sống xã hội, thể hiện mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các
quốc gia trong vấn đề giành, giữ, sử dụng hoặc chi phối quyền lực nhà nước.
Lý luận chính trị phản ánh mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động chính trị
Vào thế kỷ XIX, John Stuart Mill là người đi tiên phong trong việc dùng
khái niệm “tự do trong chính trị”. Ơng nhấn mạnh rằng, dân chủ là sự phát triển
chủ yếu trong thời đại của ông. Trong tác phẩm Bàn về tự do của mình, ơng đã
cổ vũ cho việc bảo vệ tốt hơn các quyền cá nhân và chống lại ảnh hưởng của nhà

nước và dân chủ là sự phát triển chủ yếu sự cầm quyền của đa số. Ông cho rằng,
tự do là quyền quan trọng nhất của lồi người. Có quan điểm cho rằng, tác phẩm
Bàn về tự do của Ông là một lời bảo vệ hùng hồn và mạnh mẽ nhất cho chủ
nghĩa tự do mà chúng ta có. Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tự do
ngôn luận và cho rằng đó cũng là một bộ phận cơ bản trong tự do nói chung.
Một số quan điểm lại cho rằng, chính trị là khả năng con người đóng
những vai trị khác nhau, hồn thành những chức năng khác nhau trong khn
khổ của một thể chế chính trị. Theo quan điểm đó, bản chất chính trị là sự phân
chia trách nhiệm và các thẩm quyền cũng như bảo đảm hiệu quả chính trị và sự
bền vững của chính thể. Ở đây, chính trị được họ hiểu như là sự khôn khéo, khả
năng đạt được sự phân chia chức năng, mà vẫn đảm bảo duy trì tác động qua lại
của chúng.


15

Trong những quan niệm nêu trên, tuy có chứa đựng một số nhân tố hợp lý
nhất định, nhưng chúng vẫn chưa nêu ra được nội dung cơ bản nhất của phạm
trù chính trị - đó là mối quan hệ giữa con người ở các địa vị khác nhau, lấy
quyền lực làm đích.
Bởi lý luận chính trị là kim chỉ nam cho hành động, soi đường, dẫn dắt,
chỉ đạo hoạt động chính trị và lý luận chính trị xuất phát từ thực tiễn hoạt động
chính trị, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu, đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, do vậy chỉ có thực tiễn
mới là tiêu chuẩn của chân lý để kiểm nghiệm lý luận chính trị đúng hay sai.
Nếu lý luận chính trị xã rời thực tiễn thì chính trị dẫn tới các sai lầm của bệnh
chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
Tuy nhiên, tự thân lý luận chính trị ln ln phải đổi mới để theo kịp sự
phát triển của thực tiễn hoạt động chính trị, để khỏi lạc hậu, lỗi thời và phải làm
vai trò hướng dẫn, chỉ đạo và thúc đẩy hoạt động thực tiễn chính trị, bởi vì chỉ

có một lý luận chính trị khoa học, cách mạng thì hoạt động thực tiễn chính trị
mới đạt hiệu quả cao. Lý luận chính trị có vai trị rất lớn đối với thực tiễn chính
trị, tác động trở lại thực tiễn chính trị, thơng qua hoạt động của con người.
Thực tiễn hoạt động chính trị phải được chỉ đạo, hướng dẫn bởi lý luận
chính trị khoa học, cách mạng. Nếu thực tiễn chính trị khơng có lý luận chính trị
dẫn đường thì nó sẽ trở nên mù qng. Cịn nếu thực tiễn chính trị được chỉ đạo
bởi lý luận chính trị sai lầm và phản cách mạng thì hậu quả sẽ khó lường. Do
vậy, lý luận và thực tiễn phản ánh mối quan hệ trong hoạt động chính trị.
1.1.1.3. Đặc trưng của lý luận chính trị
Một là: Tính trừu tượng và tính khái quát
Đây là đặc trưng cơ bản của lý luận nói chung, lý luận chính trị nói riêng.
Thường khi nói đến lý luận, người ta liên tưởng đến tính trừu tượng và tính khái
qt của nó. Tư duy là vấn đề cốt lõi của lý luận nhận thức cảm tính, khơng hiểu


16

được bản chất, quy luật của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng
trong thế giới hiện thực. Các hình thức thể hiện của lý luận như: khái niệm,
phạm trù, nguyên lý… đều là sản phẩm của q trình khái qt hóa, trừu tượng
hóa cao của tư duy. Vì vậy, lý luận có thể hướng con người trong việc tìm tịi
chân lý, nắm bắt những mối liên hệ khách quan, bản chất, phát hiện ra quy luật
chi phối sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng.
Trừu tượng hóa và khái quát hóa là hai q trình khơng thể tách rời nhau,
ln liên hệ chặt chẽ và xâm nhập, bổ sung lẫn nhau, nhờ đó, con người có được
những tri thức về các mối liên hệ bản chất, tính quy luật trong sự vận động và
phát triển của sự vật. Với đặc tính phản ánh cái chung, cái bản chất có tính quy
luật của các sự vật, hiện tượng, nên quy luật có tính chính xác, chặt chẽ, logic và
có độ tin cậy cao, mặc dù các khái niệm, phạm trù, nguyên lý…biểu đạt những
khía cạnh, những yếu tố khác nhau cùng phát triển. Lý luận Mác - Lênin là một

điển hình về tính thống nhất, chặt chẽ và logic. Do đó, nó là khoa học về những
quy luật chung, phổ biến đang vận động trong thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy
con người.
Nhờ có tính trừu tượng hóa, khái qt hóa của lý luận mà tư duy con
người khơng ngừng tìm tòi, sáng tạo ra những cái mới, khoa học, đáp ứng những
nhu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn.
Hai là: Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Đây là nguyên tắc cơ bản của lý luận khoa học nói chung và của Chủ
nghĩa Mác - Lênin nói riêng. Lý luận, xét đến cùng là thuộc về lĩnh vực hoạt
động tinh thần của xã hội, còn thực tiễn thuộc về hoạt động vật chất.
Theo lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin thì vật chất quyết định ý thức,
hoạt động vật chất đóng vai trị quyết định đối với hoạt động tinh thần.
V.I.Lênin đã viết: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm
khơng những của tính phổ biến mà cả của tính hiện thực trực tiếp” [57; 230].


17

Tuy nhiên, lý luận cũng đóng vai trị tác động trở lại đối với thực tiễn, do đó,
nếu khơng có nhận thức đúng thì cũng khơng thể có hành động đúng. Chính vì
vậy, Đảng ta ln nhấn mạnh đến vai trò kim chỉ nam của Chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng của đất nước.
Lý luận và thực tiễn ln có mối quan hệ biện chứng, là điều kiện, là tiền
đề cho sự tồn tại và phát triển của nhau, điều đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của
Chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực
tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận sng .”[54;
498]. Với tư tưởng chỉ đạo đó, trong suốt q trình chỉ đạo cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên không ngừng học tập lý
luận cách mạng và vận dụng sáng tạo lý luận đó vào thực tiễn. Người nói, hoạt
động thực tiễn mà khơng có lý luận thì khơng khác gì đi trong đêm tối, vừa

chậm chạp vừa hay vấp váp, phải có lý luận thì mới hiểu được mọi việc trong xã
hội, trong phong trào, để từ đó đề ra chủ trương và hành động đúng.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, trước thực trạng “Một bộ phận không
nhỏ cán bộ đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí phấn đấu, vi phạm
ngun tắc đảng, phê bình, tự phê bình yếu. Tình thương u đồng chí bị giảm
sút. Tình trạng suy thối về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ
phận cán bộ đảng viên rất đáng lo ngại…” [40; 67], Đảng càng phải quan tâm
nhiều hơn đến việc học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ đảng
viên, bởi nó góp phần nâng cao trí tuệ cho Đảng. Hơn lúc nào hết, để lãnh đạo
công cuộc đổi mới đất nước đi đến thắng lợi, Đảng phải có trí tuệ, không ngừng
nâng cao năng lực tổ chức, từ việc phát hiện và nắm vững quy luật về sự vận
động của đời sống xã hội cho đến việc hiểu biết về thế giới và thời đại.
Những thắng lợi của gần 30 năm đổi mới đất nước và từ bài học sự khủng
hoảng của Chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời gian qua, cho thấy, khi chủ trương,


18

đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được xây dựng trên cơ sở lý luận
của Chủ nghĩa Mác - Lênin và sự vận dụng sáng tạo lý luận ấy phù hợp điều
kiện của thực tiễn đất nước thì cách mạng sẽ giành được thắng lợi. Ngược lại,
mọi sự rập khn, máy móc trái với những ngun lý cơ bản của lý luận thì
khơng tránh được hậu quả, đó là nền kinh tế trì trệ, đó là khủng hoảng kinh tế xã hội…tất yếu sẽ làm nguy hại đến sự tồn vong của chế độ.
Ba là: Sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học
Trong xã hội có giai cấp, lý luận bao giờ cũng do một giai cấp nhất định
trong xã hội xây dựng nên xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của giai cấp đó. Lý
luận chính trị của Đảng ta hiện nay là xuất phát từ nhu cầu và hoàn toàn phù hợp
với lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động, cho nên lý luận đó ln đảm bảo
sự thống nhất chặt chẽ giữa tính đảng và tính khoa học.
Trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác- Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, lý

luận chính trị của Đảng ta hiện nay có vai trị to lớn trong việc tìm tịi, sáng tạo,
xây dựng các luận cứ khoa học cho việc đề ra và tổ chức thực hiện thắng lợi
những mục tiêu, đường lối chính trị của Đảng. Lý luận đó là sự tổng hợp những
tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của thời đại, là sự khái quát những thành tựu khoa
học tiên tiến nhất của nhân loại, đồng thời, nó còn là sự đúc kết kinh nghiệm từ
lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, từ sự tổng kết phong
trào cách mạng của thế giới. Đây chính là một điển hình về sự vận dụng sáng tạo
của Chủ nghĩa Mác- Lênin, về sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học,
giữa tính khoa học và tính cách mạng.
Trong lý luận chính trị khơng có sự tách rời giữa tính đảng và tính khoa
học, mà là sự thống nhất chặt chẽ, là điều kiện, là tiền đề thúc đẩy nhau cùng
phát triển. Trong đó, tính đảng càng cao thì tính khoa học càng sâu sắc. Khẳng
định tính thống nhất đó, Ph.Ăngghen viết: “Khoa học càng được tiến hành một
cách dũng cảm và kiên quyết thì nó càng phù hợp với lợi ích và nguyện vọng


19

của giai cấp cơng nhân” [50; 451]. Vì vậy, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VIII, Đảng ta khẳng định: “Phát triển và kết hợp chặt chẽ các ngành khoa học xã
hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ… làm chỗ dựa khoa học cho
việc triển khai thực hiện Cương lĩnh, Hiến pháp, xác định phương hướng, bước
đi của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng pháp luật, các chính sách, kế
hoạch và chương trình kinh tế - xã hội” [35;104].
Sự thống nhất chặt chẽ giữa tính đảng và tính khoa học trong lý luận chính
trị tạo nên đặc trưng cơ bản, vừa cách mạng, vừa khoa học. Lý luận chính trị có
nhiệm vụ quan trọng là định hướng cho con người trong việc cải biến tự nhiên
và cải tạo xã hội. Tính khoa học là cơ sở, là tiền đề cịn tính đảng là định hướng
cách mạng để xóa bỏ cái củ , xây dựng cái mới phù hợp với quy luật chung của
sự phát triển.

Tính đảng địi hỏi việc nghiên cứu lý luận chính trị phải xuất phát từ tình
hình, đặc điểm cụ thể của đất nước, từ thực tiễn chính trị của mỗi nước, của thế
giới, đưa ra những dự báo khoa học về sự phát triển của tình hình. Trên cơ sở đó
đề ra được những giải pháp đúng đắn để giải quyết, kịp thời bổ sung những vấn
đề mới cho chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ngày càng hoàn thiện,
sát với thực tiễn cuộc sống. Ngày nay, trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, Đảng
phải luôn đổi mới và tự chỉnh đốn, trước hết phải không ngừng nâng cao trình
độ trí tuệ, tính tiên phong về lý luận bởi: “Chỉ một Đảng nào được một lý luận
tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm trịn vai trị chiến sĩ tiên phong”
[58; 497].
Ngồi những đặc trưng cơ bản, đó là tính trừu tượng và tính khái quát,
tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tính thống nhất giữa tính đảng và tính
khoa học, lý luận chính trị cịn có một số đặc trưng khác như: tính chính xác và
logic, tính hệ thống và tính kế thừa…


20

Với ý nghĩa là lý luận tiền phong, lý luận chính trị giúp Đảng Cộng Sản
Việt Nam làm trịn vai trò lãnh đạo cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong giai đoạn hiện nay, Đảng càng
phải không ngừng phát triển lý luận chính trị, lý luận chính trị đó phải thể hiện
được trí tuệ của Đảng, của dân tộc và của thời đại, phải hội tụ đầy đủ các đặc
trưng. Đó chính là lý luận chính trị Mácxít, được xây dựng trên cơ sở của Chủ
nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, được trải nghiệm và khẳng định
trong thực tiễn cách mạng nước ta, lý luận đó đã, đang và sẽ được những đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung, phát triển bằng những luận cứ khoa học
mới để khơng ngừng hồn thiện.
1.1.2. Bồi dưỡng Lý luận chính trị
Theo từ điển Tiếng việt (Internet), “Bồi dưỡng” có 2 nghĩa: (1) Làm cho

tăng thêm sức của cơ thể bằng chất bổ. Bồi dưỡng sức khỏe. Tiền bồi dưỡng
(tiền cấp cho để ăn uống bồi dưỡng). (2) Làm cho tăng thêm năng lực hoặc
phẩm chất.
Theo Nghị định 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ:
Ở đây, “Bồi dưỡng” được dùng với nghĩa là cập nhật, bổ túc thêm một số
kiến thức, kỹ năng cần thiết, nâng cao hiểu biết sau khi đã được đào tạo cơ bản,
cung cấp thêm những kiến thức chun ngành mang tính ứng dụng...
Hay nói cách khác, Bồi dưỡng là quá trình hoạt động làm tăng thêm kiến
thức mới cho những người đang giữ chức vụ, đang thực thi công việc của một
ngạch, bậc nhất định để hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao. Khối lượng
kiến thức, kỹ năng được quy định tại các chương trình, phải phù hợp với từng
đối tượng cán bộ, công chức. Kết quả của các khóa bồi dưỡng, người học sẽ
nhận được chứng chỉ ghi nhận kết quả như: bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước ngạch chuyên viên cao cấp, chun viên chính, chun viên hoặc bồi
dưỡng chun đề, cơng tác chuyên môn, tập huấn nghiệp vụ.


×