Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.96 KB, 45 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT </b>
<b>TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG SÁNG</b>
<b>3.1. Giọng điệu trần thuật</b>
của tác phẩm, khuynh hướng nghệ thuật của tác giả và của thời đại. Như
vậy, giọng điệu là biểu hiện của thái độ cảm xúc chủ thể đối với đời sống,
giọng điệu mang nội dung tình cảm thái độ ứng xử của nhà văn đối với hiện
thực được phản ánh, giọng điệu thể hiện ở điểm nhìn của chủ thể, ở quan hệ
của chủ thể đối với cái được miêu tả. Trong truyện, giọng điệu phức tạp hơn
thơ, “chủ yếu gồm hai giọng cơ bản: giọng nhân vật đối với thế giới và
giọng của người kể chuyện đối với nhân vật. Tùy theo đặc điểm tính cách số
phận nhân vật, người kễ và các mối quan hệ đa dạng của chúng mà ta có
giọng điệu đa dạng”[54,110]. Do giọng điệu gắn với việc dùng hình tượng
để miêu tả đối tượng sáng tác nên nó thể hiện cách nhìn nhận riêng của cá
nhân đối với đời sống. Nói cách khác, giọng điệu tác phẩm phụ thuộc vào
cảm hứng chủ đạo của nhà văn. Vì vậy, trong sáng tác, mỗi nhà văn thường
có một giọng điệu riêng khiến ta khi đọc văn của họ dễ dàng nhận ra dáng vẻ
và cốt cách riêng ở mỗi người. Nguyễn Công Hoan thì dí dỏm trào phúng.
Thạch Lam thì nhẹ nhàng, mượt mà đằm thắm và sâu lắng …Còn Nguyễn
Quang Sáng là nhà văn xuất sắc của văn xuôi thời kỳ hiện đại, đặc biệt trong
thời chống Mỹ cứu nước và đổi mới, ơng đã tạo cho mình một giọng điệu
trần thuật riêng. Đó là giọng điệu sử thi, hào hùng đan xen với giọng chiêm
nghiệm, triết lý, khác với giọng điệu đằm thắm tha thiết trữ tình của Anh
Đức, giọng tâm tình hịa lẫn chất dân gian của Nguyễn Thi.
3.1.1. Giọng điệu sử thi, hào hùng
Những chủ đề bao trùm trong nền văn học giai đoạn ấy là những vấn đề về
vận mệnh của cộng đồng, hiện thực mà văn học phản ánh là hiện thực lịch
sử dân tộc, nhân vật tiêu biểu nhất là người anh hùng đại diện cho sức mạnh
và phẩm chất của dân tộc, giai cấp, cho thời đại và nhà văn cũng là người
Khuynh hướng sử thi đã chi phối hầu khắp các sáng tác thuộc đủ mọi
thể loại. Nó khơng chỉ thể hiện trong tiểu thuyết mà cịn ở truyện ngắn và kí.
Khuynh hướng sử thi đã hình thành từ những bước khởi đầu của nền văn học
mới sau Cách mạng tháng Tám, nhưng từ những năm cuối cuộc kháng chiến
chống Pháp và nhất là trong thời kỳ chống Mỹ, khuynh hướng ấy càng phát
triển mạnh mẽ và bao trùm cả nền văn học.
Khuynh hướng sử thi chi phối từ việc lựa chọn đề tài, chủ đề đến việc
xây dựng hình tượng nhân vật và chi phối cả đặc điểm kết cấu tác phẩm,
nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi. Văn học theo khuynh hướng sử thi
cũng tất yếu tìm đến những phương thức nghệ thuật phù hợp với nội dung sử
thi, đồng thời cũng tạo nên giọng điệu đặc trưng là giọng ngợi ca, trang
trọng.
cường anh dũng trong đấu tranh, thủy chung nhân hậu trong cuộc sống đời
thường và lạc quan tràn đầy niềm tin ở tương lai. Hầu hết các truyện ngắn
của ông trong thời kỳ này đều tập trung khai thác cuộc sống và chiến đấu
của nhân dân, đồng bào vùng đồng bằng Sơng Cửu Long, đó là vùng Đồng
Tháp Mười và An Giang. Cũng khai thác đề tài chiến tranh cách mạng như
nhiều nhà văn khác nhưng Nguyễn Quang Sáng lại đi sâu khai thác tình cảm
ruột rà, máu mủ của tình cha con ( Chiếc lược ngà ), tình mẹ con ( Bơng
<i>cẩm thạch ), hay tình u đơi lứa ( Chị xã đội trưởng ), tình cảm vợ chồng (</i>
<i>Tên của đứa con ), tình đồng chí, đồng đội ( Bạn hàng xóm ). Đó là tình cảm</i>
Truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng cũng đồng thời tập trung khai
thác cuộc sống và chiến đấu của những con người rất đỗi bình thường. Đó
là những con người bình thường nhưng vĩ đại vì mang trong mình lý tưởng
cách mạng cao đẹp, sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do cho Tổ quốc. Tất cả
đều “sống chung” với bom đạn Mỹ nhưng họ dám coi thường để vượt lên tất
cả mọi nguy hiểm.
nhất là anh chị em du kích rất hoan nghêng và đã phóng to trên các tường
phịng thơng tin. “ Bức tranh có ba ơ. Ơ thứ nhất: chiếc máy bay trực thăng
sà xuống, mấy anh du kích lũi nấp vào bụi, rụt cổ, lè lưỡi nói với nhau: “ Ôi,
thứ này khiếp quá! “. Ô thứ hai: một anh du kích thị cổ ra, chỉa chiếc “
hồnh tầm sàu” về phía máy bay: “ bắn một phát thử coi sau?”. Ô thứ ba:
chiếc trực thăng rơi nằm kềnh dưới đất. Mấy anh du kích trèo lên thân máy
bay cười hỉ hả: “ ngó như vậy mà ngon xơi đa!...” . Thì ra cái câu chuyện
đánh dấu một giai đoạn của cuộc đọ sức giữa bà con ta trong đó với vũ khí
hiện đại của quân thù…” .Cảnh, người, cuộc chiến đấu của miền Nam giờ
đây sau mà thân thiết thế! Nó đã sống và sống mãi trong lịng chúng ta, đi
vào vốn luyến tinh thần của mỗi người chúng ta, trở thành một sợi dây tình
cảm nhạy bén nhất trong tâm hồn chúng ta. Chỉ cần khêu nhẹ vào đó một
chút là sợi dây đó rung lên trong tìềm thức của chúng ta. Trong nội dung yêu
nước của chúng ta, từ bao giờ rồi, đã bao hàm tình yêu đối với miền Nam.
Quá trình Thu ( Chiếc lược Ngà) nhận ra bố do ngoại khêu gợi cũng
là q trình em bé học được bài học vỡ lịng đầu tiên về Cách mạng và
kháng chiến, Thu đã hiểu ra vì sao bố con phải xa cách bảy, tám năm rịng ?
Vì sao bố Thu đã phải già đến nỗi khơng giống bức hình chụp trước kia
nữa ? Thu đã nhận ra tội ác của thằng Tây ở cái sẹo trên mặt bố, cái sẹo làm
cho Thu không nhận ra bố nữa và do đó cũng nhớ lại được tội ác của chúng
ở ngay cái bót vàm.
dang hai tay ơm chặt lấy cổ ba nó – Tơi thấy làn tóc tơ sau ót nó như dựng
đứng lên.
Nhưng lúc này, trong cái sung sướng được nhận ra “ba” cũng như
trước đây, trong cái gan lì khơng nhận ra “ba” Thu vẫn là một em bé cứng
cỏi, biết làm chủ cảm xúc của mình. Sau những cử chỉ rất tự nhiên như
muốn níu “ba” ở lại khi biết “ba” phải ra đi, cuối cùng Thu đã ôm “ba” một
lần nữa và mếu máo:
- Ba về ! Ba mua cho con một cây lược nghe ba – Nó nói trong tiếng
nấc, vừa nói vừa từ từ tuột xuống.
Vẫn rất trẻ thơ mà đã có cái gì thật là lớn. Và ở đây, trong phút chia
tay này, Thu lại học được bài học vỡ lòng thứ hai về Cách mạng qua lời dỗ
dành của người mẹ:
- Thu ! Con. Để ba con đi. Thống nhất rồi ba con về”.
“Thống nhất rồi ba con về”, bài học đó hẳn sẽ soi rọi mãi cuộc đời
chiến đấu anh hùng mà thằm lặng của cô gái giao liên Thu sau này. Thù nhà,
nợ nước, truyền thống kháng chiến trước và sau nhiệm vụ cách mạng tương
lai…hình như tất cả những gì cần thiết để tạo nên một phẩm chất anh hùng
đã đến với Thu ngay từ ngày thơ ấu ấy và đã đến với Thu trong một hoàng
cảnh độc đáo làm sao, với một cá tính độc đáo làm sao!
khi nhận được chiếc lược ngà, vật kỉ niệm của người cha suốt đời xa cách
cũng như cái trấn tĩnh phi thường của Thu khi phải nhắc đến cái chết của
người cha mà chính người trao vật kỉ niệm này tìm cách giấu giếm; “ Cháu
chịu đựng được, bác đừng ngại, cháu nghe tin ba cháu chết đã hai năm rồi,
Có thể nói, trong khn khổ của một thiên truyện ngắn, Nguyễn Sáng
đã dựng lại cho ta không phải một người anh hùng chung chung nào đó mà
là một tính cách anh hùng sinh động, độc đáo.
Câu chuyện mở đầu bằng cuộc gặp gỡ với ba nhân vật chính: cha, con
và một đồng chí chiến đấu của cha (người kể chuyện này). Trong cuộc gặp
gỡ ấy, Thu hầu như chỉ mới biết có một thứ tình cảm: tình cha con – tất
nhiên khơng phải tình cha con thơng thường mà là tình cha con trong Cách
mạng. Câu chuyện kết thúc cùng bằng một cuộc gặp gỡ giữa hai ba người:
Chiếc lược ngà hay là hiện thân tấm lòng của người cha chiến sĩ đã khuất,
người con hay là cô gái giao liên Thu và người đồng chí chiến đấu của cha
xưa, cũng là người khách Thu có trách nhiệm đưa đường. Bao quanh cô gái
giao liên lúc này không phải chỉ có những cánh lúa xanh mà là một thế giới
tình cảm cũng dạt dào như sóng lúa vậy: tình cha con, tình đồng chí, tình
cảm q khứ, với người đã khuất và tình cảm với con người hiện tại, tất cả
như hịa vào nhau, chuyển hóa với nhau, thống nhất làm một trong khung
cảnh của quê hương đang chiến đấu và sinh sơi nẩy nở. Có phải đây chính là
biểu hiện cụ thể của một thứ tình cảm mới mà chúng ta gọi chung bằng một
cái tên cao quý: tình cảm Cách mạng !
trong bản lĩnh riêng của Nguyễn Sáng được bộc lộ trên khá nhiều mặt đặc
sắc. Lối kể chuyện tưởng chừng như rất thoải mái, tùy hứng, nhưng thật ra là
đã thông qua ban tay rất chủ động của tác giả.
Giọng sử thi, hào hùng trong Quán rượu người câm : Ba Hoành là
đảng viên, hơn bốn mươi tuổi, bị địch bắt vì hồi kháng chiến chín năm anh
là ủy viên nông hội đo đất tạm cấp cho dân làng – qua ba tháng chịu mọi cực
hình tra tấn, anh vẫn giữ được khí tiết đảng viên, khơng khia báo gì. Nhưng
Về nhà anh mở quán bán rượu để nuôi vợ và ba con. Nơi đây trở
thành điểm tụ họp của bà con. Người ta kể lại mọi tin tức về địch khủng bố,
bắt bớ tra tấn người, nhiều chuyện rất thương tâm.
Mỗi khi khách về hết anh uống rượu – đúng hơn là rót thẳng vào họng
những chén rượu và khóc.
Ngồi chuyện trong lịng, ngoại huyện, bản thân anh cịn có một nỗi
đau thầm lặng trong lịng ! Đó là vì đói nghèo nên mất người yêu, vì vậy đến
năm ba mươi sáu tuổi mới lấy vợ. Vợ anh là người đàn bà luống tuổi – người
yêu của một vệ quốc đoàn đã hi sinh…
trọng hi sinh của một cô gái, phỉ nhổ vào mặt tên phản bội cũng phải có
dũng khí mới làm được. Ba Hoành là biểu tượng của sự tất thắng trong chiến
đấu. Bởi vì thời kì này có thể coi là hồn cảnh điển hình làm bật ra những
mâu thuẫn, những lí tưởng sống, con người phải bộc lộ bộ mặt thật của
mình, phải chọn cho mình một chiến tuyến giữa hai cực đối lập nhau: cao
thượng và thấp hèn, sống và chết, công và tội…Là người câm nhưng tai vẫn
nghe chuyện đời, lịng vẫn đau xót khi được tin đồng bào bị giết hại, nhưng
khóc thì khơng có nước mắt. Mỗi khi khách về hết, anh ngửa cổ lên dốc
thẳng vào ống họng những chén rượu, nhờ chất men làm khoây đi cái cay
đắng, căm thù ? Khơng, lịng Ba Hồnh “sóng đang nổi lên từ đáy lịng
Tác giả đã giành một phần khá dài để tả về sự ra đời và cuộc đấu tranh
của đội qn “tóc dài”. Ba Hồnh vẫn là người chủ quán rượu, quán rượu đã
biến thành diễn đàn tranh luận về cuộc tranh đấu. Anh đã trịnh trọng đưa cho
bà Tư Trầu một ly rượu màu hồng quân – người ta đã biến thế trận từ bị
động sang tiến công làm cho quân địch nhục với “đàn bà”. Và ông chủ quán
ấy đã cổ vũ cuộc đấu tranh này bằng chính tay mình cất rượu trái cây riêng
cho đàn bà, uống vào ngọt mà không say…
đều đực huy động vào cuộc chiến đấu. Nhân dân đã nhất tề đứng lên làm
cuộc “Đồng khởi”. Và đã san bằng đồng bót bằng những tiếng kêu đó, hịa
trong lớp sóng người !
Một sự bất ngờ sững người, kinh người: trong ánh lửa hồng người chỉ
huy hiện lên trước khán đài…
“… Bốn năm nay tôi không nói, khơng phải tơi câm. mà tơi im lặng.
<i>Đã đến lúc chúng ta không im lặng được nữa. Đã đến lúc chúng ta phải… </i>
Chủ đề tác phẩm đã thể hiện một cách sâu lắng, nhưng rõ ràng: “sự
nổi dậy, đồng khởi của nhân dân miền Nam đã trải qua bao ngày gian khổ và
đã đưa cuộc chiến đấu chống Mỹ sang một bức phát triển mới mẻ”. Một
nhân vật với một tình tiết, tính cách Ba Hoành đi suốt chiều dọc câu
chuyện, nhưng người đọc vẫn thấy một sức hút kì lạ của nó.
Giọng điệu sử thi, hào hùng còn thể hiện ở sự trở về gặp gỡ của những
người con đi xa. Mùa xuân năm 1975 đã đánh dấu một mốc son chói lọi
trong lịch sử hào hùng của dân tộc. Chiến tranh đã khép lại, non sông quy về
một mối. Bao người con đi xa vì tiếng gọi thiêng liêng, có người đã nằm n
ra đi sớm nhứt, từ ngày đầu năm 1945, đi đến mút mùa hai cuộc kháng
chiến. Đi đúng 30 năm mới trở về với cương vị Đại tá, Đại tá Trần Tất
Đắc . . . ”.
Đề tài tư tưởng này không chỉ giản đơn là xóa bỏ khoảng cách mà ẩn
ý sau xa hơn: sự trở về, sự hịa hợp, đồn tụ của một dân tộc sau bao nhiêu
năm xa cách, nỗi đau thương mất mát vì thế mà dịu đi. Niềm vui, niềm hân
hoan, niềm tự hào của bà con hàng xóm đón người đi xa trở về cũng chình là
niềm vui mà bao năm tháng chờ đợi, chịu mất mát hi sinh nay được bù đắp,
được đền đáp.
Như vậy, giọng sử thi hào hùng là giọng điệu chủ đạo trong sáng tác
của Nguyễn Quang Sáng trước 1980. Giọng điệu ấy được thể hiện qua: việc
tái hiện lại cuộc chiến đau thương mà hào hùng của dân tộc, ngày trở về của
những người con bao năm xa xứ vì nghĩa lớn và qua cách sử dụng những
hình ảnh giàu tính tượng trưng. Nhà văn miêu tả con người hịa quyện với
khơng khí đấu tranh, với thiên nhiên cây cỏ, với tâm hồn rộng mở bao la của
sơng nước Cửu Long, với tình cảm nồng thắm như hoa ơ mơi đỏ rực sáng
ngời ý chí căm thù và chiến đấu của con người miền Nam.
<i><b>3.1.2. Giọng xót thương, cảm thông</b></i>
<b> Nhờ yếu tố đa giọng điệu với khả năng điêu luyện trong nghệ thuật</b>
trần thuật với chiều sâu nội dung phản ánh hiện thực mà truyện ngắn
người giết con mình được thể hiện qua cảnh đối thoại giữa ông và tên Lý, đã
lột tả được bản chất con người bên trong của ơng. Từ giọng nói “rưng rưng
nghẹn ngào bật lên tiếng nấc và hai cánh tay rụng xuống như cánh cung bị
gãy làm đôi” đến giọng của ông vừa căm hờn vừa đau xót “. . . mày mới giết
con tao”. Ngòi bút sắc lạnh của nhà văn đã thể hiện những diễn biến phức
tạp của tâm lí nhân vật. Ông Năm Hạng là một người cha thương con, đau
xót trước cái chết của đứa con, nhưng khơng phải vì vậy mà ơng khơng phân
biệt được lẽ phải, chính nghĩa và gian tà.
Nhân vật Bảy Quyên ( <i>Tên của đứa con</i>) là người phụ nữ xinh đẹp
nhưng lại có số phận khơng bình lặng. Bảy Qun có những ngày hạnh phúc
sau sự trở về của người chồng tưởng như đã chết, niềm vui như được nhân
đơi khi biết mình sắp được làm mẹ. tình huống khó xử xảy ra, một bên vì sự
an nguy dễ bề hoạt động cho chồng cô phải giấu là anh cịn sống, một bên là
việc nói ai là cha đứa con cơ mang trong bụng? Tình huống éo le đã đẩy
nhân vật vào bi kịch chịu tiếng oan “ bị mọi người khinh rẻ xa lánh”. Hình
ảnh Bảy Quyên đã thể hiện cách nhìn của nhà văn về con người cách mạng
dưới góc nhìn “đời tư”, “thân phận”. Nhân vật được nhà văn đặt vào hoàn
cảnh đặc biệt của chiến tranh, để từ đó sáng lên vẻ đẹp của con người bản
lĩnh, kiên nghị. Vẻ đẹp của Bảy Quyên tượng trưng cho vẻ đẹp của tư tưởng
nhân văn cách mạng.
Những năm tháng sau ngày giải phóng, ở miền Nam nổi cộm lên một
ván đề: dân cư ở thành phố q đơng đúc, khơng có cơng ăn việc làm. Cái
đói, cái nghèo và cuộc sống không ổn định là điều không tránh khỏi. Nhà
tập trung miêu tả nhân vật ở vẻ đẹp cá tính, tâm hồn con người gắn trong
mối quan hệ với cộng đồng, với cách mạng thì sau 1975 vấn đề mà nhà văn
quan tâm là đạo đức của con người và những vai trò mới của con người
trong cộng đồng xã hội. Nhà văn cảm nhận về con người đời tư gắn liền với
“ mơ típ” cá nhân lầm lỡ, mất mát, cô đơn. Nhân vật đời tư là những “con
người bé nhỏ” thường có số phận khơng may rơi vào hoàn cảnh éo le.
Đó cịn là bi kịch của người lính trở về sau chiến tranh, trong chiến
đấu họ là những anh hùng, lập được nhiều chiến công, anh dũng xem thường
cái chết, nhưng trở về với cuộc đời thường họ lại lạc lõng bơ vơ và khơng
thể hịa nhập, bị đẩy qua bên lề xã hội, khó khăn trong cuộc sống, chật vật
tìm kiếm miếng ăn: “Từ chiến trường Campuchia trở về, mất sức, anh xin
<i>chuyển ngành, về phụ trách tổ chức cho một xí nghiệp. Qua một năm, Tấn</i>
<i>thấy cơng việc khơng hợp mình. Anh tự thấy mình khơng đủ sức hiểu người</i>
<i>trên, người dưới và người chung quanh. Họ không dễ hiểu dễ nhận như</i>
<i>những người lính của anh. Người ta tặng q, anh khơng dám nhận, được</i>
<i>mời đi tiệc tùng cũng e ngại. Anh thấy đằng sau những buổi tiệc linh đình là</i>
<i>một cái gì đó sẽ đến với anh. Có được một bữa nhậu tình nghĩa thật hiếm</i>
<i>hoi. Đã đến cái tuổi muốn thảnh thơi, anh xin hưu. Hưu sống sao đây? Vợ</i>
<i>chồng anh sống sao cũng được, khơng địi hỏi gì, chỉ thương hai đứa con bị</i>
<i>thua thiệt muốn xem tivi màu phải xem nhờ hàng xóm, đi học thì nhờ bạn bè</i>
<i>chở giúp. Vợ anh, thỉnh thoảng lại bị sốt rét rừng tái phát, vẫn xanh xao,</i>
<i>mỗi ngày mỗi yếu, không xông xáo như chị em.Cũng may, nhà có được cái</i>
<i>sân, anh che mát, làm trại mộc. Khởi đầu là sửa bàn ghế cho lối xóm, sau</i>
<i>đóng bàn đóng ghế cho các quán cà phê, quán bia vỉa hè. Chỉ cần đóng ghế</i>
<i>cóc thơi cũng đã có đồng ra đồng vào. Dần dần, khách đến đặt bàn, đặt tủ.</i>
<i>Một mình làm khơng xuể, anh về quê, kéo lên những tay nghề đang thất</i>
<i>nghiệp ” .</i>
dây để tiên bay không đủ sức, dù anh đã buộc thêm cả một cục đá ở đầu dây
cho thêm sức nặng. Hay nhất là lớp tiên bay mà tiên không bay lên được thì
thất bại to. Tệ hơn là vì bay lên lại nhào xuống thì vừa khơi hài, vừa nguy
hiểm. Thanh Sa lo quá. May thay “lâm nguy mà được giải nguy” Châu xuất
hiện và động lịng nghĩa khí. Anh chỉ chồm phóng lên chụp sợi dây và sức
nặng của thân hình rắn chắc của anh kéo Thanh Sa ở đầu kia sợi dây bay vút
lên trời thật ngoạn mục. Cô đào thành công rực rỡ. Thế nhưng một lần sợi
dây bay vì dùng quá nhiều, bị ải và đứt, Châu ngã đập đầu vào tảng đá chết.
Từ đó Thanh Sa lập bàn thờ Châu bên cạnh bàn thờ Ông Tổ chung của các
đoàn hát. Thanh Sa thờ Châu như Nguyệt Nga thờ Vân Tiên vậy. Câu
chuyện kết thúc với một nỗi buồn man mác. Khi Châu đã tắt thở, đơi mắt
anh vẫn mở như muốn nói một lần nữa với Thanh Sa câu anh đã từng nói cổ
vũ cô đào: “Tôi sẵn sàng hạ xuống để Thanh Sa bay lên”. Và tác giả bình
luận thêm: chúng ta dù lớn dù nhỏ nhưng ai là người đang có một sự nghiệp
nhất định, chắc rằng trong mỗi chúng ta đều có một người nào đó đã “hạ
xuống cho ta bay lên”. Câu nói nhắn gởi rất nhiều.
Đối diện với ông lúc này không phải là đề tài sống, chết trong trận
chiến ác liệt mà là số phận cá nhân, là thế giới nội tâm vốn rất phong phú và
phức tạp của con người, trong đó bao hàm những mặt đối lập giữa cái tốt và
cái xấu, cái cao cả và cái thấp hèn, cái thật và cái giả . . . Những mặt đối lập
đó có khi tồn tại đan xen, khuất lấp nhau trong mỗi cá nhân, mỗi con người.
ta có thể thấy được điều đó qua các truyện như: Tơi thích làm vua, Thế võ,
<i>Con chim qn tiếng hót,…</i>
có những khát khao được sống hạnh phúc như một người phụ nữ bình
thường.
Trong truyện <i>Con ma da</i>, nhân vật Hiền là hiện thân của sự bất hạnh,
<i><b>3.1.3. Giọng triết lý</b></i>
<i><b> Giọng điệu triết lí khơng phải lúc nào cũng được khái quát thành câu</b></i>
văn phơi bày trên trang giấy mà đơi khi nó cịn ẩn sau câu chữ. Qua sự lắp
ghép những câu chuyện, nhà văn thể hiện quan niệm về số phận của con
người trong xã hội.
vẻn vẹn hai trang kể lại việc ông nội “tơi” có ni một con nhồng. Con
nhồng biết nói những câu “chào khách”, “em ơi em”. Nhưng dần, những đứa
nhỏ dạy thêm những câu “đồ đểu, cút đi”, nó nói miết thành quen và qn
dần tiếng hót. Một hơm, quan huyện đến nhà, nó cất tiếng nói: “đồ đểu, cút
đi”, vì sợ quan, ơng nội đã đập chết ngay con nhồng. Sau cái chết của con
nhồng bà rút ra lời răn dạy: “Cho nên, biết thì nói, khơng biết thì đừng nói
theo lời người khác, chết oan đó các con”. Qua câu chuyện con chim có ý
nghĩ khuyên răn: con người hãy sống đúng với chính mình đừng đánh mất
bản thân. Truyện Thế võ kết thúc bằng câu chuyện chiêm nghiệm về thói
đời: “Thế võ khơng bằng cái thế ở đời”. Kết thúc truyện Bài học tuổi thơ là
một triết lí nhẹ nhàng:
“Chuyện của đứa học trò bị bài văn không điểm đã để lại trong tôi một
<i>cái xấu. Mà cái xấu và cái đẹp lại song song tồn tại với con người. Và đó là</i>
<i>bi kịch của người nghệ sĩ”.</i>
Lối kết thúc mang nội dung giáo dục đạo đức toát ra từ việc truyền đạt
qua một hiện tượng, một nhân vật được tác giả nhắc lại nhiều lần. Bài học
đạo đức thường được kết thúc thành những lời khuyên răn giáo huấn, chứa
đựng hàm ý sâu xa của tác giả, có ý nghĩa nhận thức, giáo dục rất thâm thúy.
Nhìn chung, các kiểu kết thúc bất ngờ, kiểu kết thúc mang tính triết lí
trong tác phẩm là kết tinh của một ngịi bút giàu chất trí tuệ, nó mở rộng ý
nghĩa của câu chuyện, của tác phẩm, gợi ra những phương diện nào đó của
cuộc đời, chứa đựng những suy nghĩ, cảm xúc của nhà văn về cuộc sống và
con người.
<b>3.2. Ngôn ngữ trần thuật</b>
trần thuật “ chẳng những có vai trị then chốt trong phương thức tự sự mà
còn là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng
điệu, cá tính của tác giả”[13,235 ]. Sự biến đổi linh hoạt của giọng điệu góp
phần làm nên màu sắc đa dạng ở bình diện ngơn từ. Ngơn ngữ của Nguyễn
Quang Sáng là thế, nhà văn toàn tâm toàn ý với văn chương, dồn tụ cảm xúc
vào cả văn chương. Lúc ca ngợi câu văn dồn dập, mức độ tình cảm mãnh
liệt, lúc thương cảm câu văn thống thiết, xót xa, lúc bình dị chân chất đời
thường . . . Suốt một đời cầm bút, gắn bó thủy chung với văn chương,
Nguyễn Quang Sáng rất ý thức sự sáng tạo trong sáng tác để tìm cho mình
hướng đi riêng, trong đó có ngôn ngữ trần thuật. Ở đây trước hết là nhà văn
với đời sống kháng chiến (mẹ củ Mì, chị Bảy, anh Bảy Ngàn). Tác giả nêu
bật tính chất quần chúng của chiến tranh nhân dân ở miền Nam, tô đậm thêm
chủ nghĩa anh hùng cách mạng ở chính hành động anh hùng và phẩm chất
anh hùng. Cảm nhận nhà văn về những con người này được thể hiện qua
việc khắc họa những đặc điểm chân dung nhân vật – chân dung con người
lac quan yêu đời.
Trong miêu tả ngoại hình nhân vật , trạng thái con người lạc quan yêu
đời, nhà văn thường chú trọng các chi tiết ánh mắt, nụ cười của nhân vật.
Nhà văn chú trọng miêu tả những nét ngoại hình này khơng chỉ gợi lên sự
hình dung về dáng vẻ nhân vật mà còn gợi lên cả tâm tính, bản chất bên
trong cả nhân vật. Con người lạc quan yêu đời được tác giả miêu tả đẹp nhất
khi đối mặt với đạn bom, với kẻ thù nguy hiểm, qua những khuôn mặt luôn
tươi tắn rạng rỡ nụ cười, ánh mắt luôn tràn đầy niềm tin mãnh liệt.
Nhân vật cô giao liên Thu (Chiếc lược ngà) được tác giả khắc họa vẻ
đẹp chân dung đầy đặn từ hình thức đến nội dung. Một vẻ đẹp giản dị, thanh
khiết đối lập với bối cảnh thời chiến tranh khói lửa, bom đạn và bóng đen
thần chết ln rình rập xung quanh. Trong suốt chuyến đi với sự chứng kiến
của người kể, nhân vật đã thể hiện được những phẩm chất, tính cách cao đẹp
của mình. Vẻ đẹp của Thu được tác giả tập trung miêu tả sau khi Thu chặn
địch, vừa bước ra khỏi chổ nguy hiểm mà “mặt cứ phơi phới”. Tác giả chỉ
miêu tả một chi tiết ngoại hình qua khn mặt cứ phơi phới để nói lên tính
cách lạc quan của cơ giao liên, bên cạnh tính cách thơng minh, bình tĩnh của
cơ.
mọi người “cười mĩm mĩm một mình”; trao lá thư gởi cho người u “chị
Nhân vật cô giao liên Ánh (Chị xã đội trưởng) được tác giả miêu tả
thơng qua dáng vẻ “đầu đội mũ giải phóng màu xanh lá cây, ngồi dựa lưng
vào cột nhà, hai chân dũi thẳng trên đệm, cây bá đỏ gát ngang qua ghế” cũng
phần nào nói lên bản tính hồn nhiên, nhí nhảnh của nhân vật. Khơng những
thế, nụ cười ln in dấu trên khuôn mặt cô “cô giao liên cười … reo lên” …
“anh nhìn tơi nheo một mắt bụm miệng cười”. Hai cô giao liên Nhung (Chị
<i>Nhung) sau tám năm không gặp giữa anh Tám Sơn (người kể chuyện) và</i>
Nhung ở tuổi trưởng thành nhưng đọng lại trong anh vẫn là “cái nét quen
thuộc tơi có thể nhớ và từ đó mà lần ra hình ảnh ngày xưa của cháu là cái
ánh lung linh trong đôi mắt”. Nhà văn đã miêu tả đôi mắt ngày xưa của
Nhung qua những sắc thái khác nhau: “một đôi mắt lung linh”… “đôi mắt
nhìn xốy”… “đơi mắt bổng biến đi như cút bắt”… “đôi mắt lung linh đầy
nước mắt”. Đôi mắt ấy bộc lộ được tâm nguyện của Nhung lúc bé “ chú phải
hứa là chú phải giao cho cháu một công tác”. Anh Bảy Ngàn (Một chuyện
<i>vui) kể lại chuyện một mình “suốt một ngày chống chọi với tàu chiến tối tân</i>
của giặc mà như “một chuyện vui” cứ “ngứa cổ cười hè hè”, “tự nãy giờ cứ
cười hì hì”. Anh Ba Hồnh (Qn rượu người câm) cũng có nụ cười khó
qn “ông cười mặt ông thảm hại làm sao. Mặt ông nghiêm, nhắm một con
mắt, miệng méo”, “lịch sự theo người câm nhe răng cười ú ớ”.
<i>đội trưởng). Với lối miêu tả này, chân dung dường như hòa tan vào hành</i>
động được miêu tả và phần nào trở thành sự biểu thị hành vi, tính cách của
nhân vật. Nguyễn Sáng đi vào những nét bình thường để miêu tả nhân vật,
những cái bình thường đó khơng kém phần độc đáo ở việc nhà văn tỏ ra
nhạy cảm trong miêu tả đối tượng từ ánh mắt, khuôn mặt gắn liền với tính
cách, chân dung của một tầng lớp người chịu nhiều mất mát đau thương
nhưng biết vươn lên dưới ánh sáng cách mạng. Miêu tả chân dung nhân vật
theo cách đó, Nguyễn Sáng chỉ ra được những nét tính cách lạc quan yêu đời
từng giọt nước mắt lăn ra, nối nhau chảy dài xuống đôi má”. Cơ khóc khơng
phải vì đau khổ, cơ khóc vì niềm tin hy vọng ở tương lai giúp cho cô vững
bước đi lên đi trên đường đời để xứng đáng với người u cơ “người đã hy
sinh cho tổ quốc”.
Nhìn chung, những chi tiết miêu tả ngoại hình trong truyện ngắn
Nguyễn Sáng điều là những chi tiết sống động và hàm chứa bao điều ẩn giấu
bên trong. Việc dụng chi tiết ngoại hình để khắc họa tính cách nhân vật
không phải là biện phải nghệ thuật mới mẻ, nhưng nét độc đáo của Nguyễn
Sáng là đã vận dụng một số nét chi tiết ngoại hình về “ánh mắt”, “nụ cười”
thành hành vi biểu cảm của nhân vật.
Cũng như nhiều nhà văn khác, không chỉ miêu tả ngoại hình mà
Nguyễn Quang Sáng và đây mới điều quan trọng, đi sâu miêu tả nội tâm
nhân vật. Nguyễn Sáng miêu tả nội tâm nhân vật bằng việc sử dụng thủ pháp
độc thoại nội tâm. Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên trong của tâm hồn nhân
vật, là lời nhân vật tự bộc lộ ở những trạng thái suy tư, dằn vặt, những cảm
xúc, xúc động của nhân vật tự nói với chính mình. Đây là việc nhà văn “thể
hiện trực tiếp q trình tâm lí nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy
nghĩ của con người trong dịng chảy trực tiếp của nó” [12,106]. Trong truyện
ngắn trước năm 1975, Nguyễn Sáng thường miêu tả thế giới nội tâm nhân
vật thể hiện qua sự chuyển biến tâm lý, tình cảm con người một lịng hướng
về cách mạng, về đời sống kháng chiến.
Nhà văn khắc họa tính cách Dung (Chị xã đội trưởng) dưới hình thức
một bức thư của Dung gửi cho người yêu, nhưng thực chất là tâm trạng, cảm
xúc mà cô muốn giải bày: “Hôm trước thư anh hỏi ai bị cháy em muốn trả
Trong miêu tả nội tâm nhân vật, nhà văn còn chú ý ở biện pháp dùng
lời nửa trực tiếp – lời người kể chuyện mang ý thức của nhân vật. Bằng thủ
pháp này, nhà văn vừa thể hiện nội tâm nhân vật, vừa thể hiện sự đồng cảm
của tác giả đối với nhân vật.
là tạo hóa thương ơng cho ơng điếc ln? Chẳng biết nữa. Lâu lâu ơng cúi
xuống, rút giấy ra ghi. Ơng ghi tiền rượu cho khách hay ghi những chuyện
đáng cười đáng giận đó. Chẳng ai hiểu nỗi, mà hiểu làm gì mới được chớ!
Từ câm đến ngớ ngẩn có khó gì. Lúc ông ta cúi cái đầu bùm xùm xuống
quầy, hai tay khuỳnh ra mặt nghiêng nghiêng, tay ghi ghi, miệng há hốc,
dáng điệu của ông ta đúng là dáng điệu của một thằng ngớ ngẩn, lúc ghi lúc
viết miệng ông ta như không ngậm lại được” [43,90]. Với thủ pháp này, nhà
văn đã miêu tả được tâm trạng đau xót, căm thù đến như trở thành dị dạng
của nhân vật Ba Hồnh nhằm tơ đậm tính cách kiên trì của nhân vật.
Hay tâm trạng vừa bồn chồn, lo lắng vừa day dứt của người cha khi
Nhìn chung, Nguyễn Sáng vận dụng lời nửa trực tiếp vừa miêu tả
được tâm trạng nhân vật, vừa thể hiện rõ cách nhìn, ý thức của tác giả trước
sự kiện và con người. Nhân vật của Nguyễn Sáng tuy có trăn trở, băn khoăn,
suy tính nhưng có chung đặc điểm tính cách, phẩm chất của người lao động:
yêu chính nghĩa, ghét gian tà, sẵn sàng hi sinh vì lợi ích chung của dân tộc.
Mỗi nhà văn đều có cách thức riêng trong miêu tả nhân vật. Nếu như
ngịi bút Nguyễn Thi có khả năng thâm nhập rất sâu vào đời sống nội tâm
nhân vật và diễn tả chính xác q trình tâm lí của con người thì Nguyễn
Sáng đã thể hiện được khả năng nhạy bén của mình trong sự kết nối giữa
miêu tả ngoại hình và miêu tả nội tâm nhân vật. Sự kết hợp hai biện pháp
xây dựng nhân vật trên đã làm cho nhân vật luôn xuất hiện trong những chân
dung với ngoại hình đầy đặn và thê giới nội tâm phong phú, đa dạng.
đã sử dụng ngôn ngữ địa phương vào trong tác phẩm của mình một cách
nhuần nhuyễn. Tiếng địa phương dùng trong cuốn tiểu thuyết này khơng
phải là ít đâu nhưng mà chúng được dùng đắc địa. Chúng ta đọc đến những
tiếng địa phương này có thể hiểu được và khơng thấy chỏi vì trong câu dùng
tiếng địa phương mỗi nhân vật lại có cách nói riêng của mình một cách
nhuần nhuyễn”.
Đọc một truyện ngắn gần đây nhất của Nguyễn Quang Sáng – <i>Vểnh</i>
<i>râu - nhà văn Tơ Hồi nhận xét: “Lần này đọc của Sáng, tơi thấy đã thuần</i>
lắm của cốt cách văn phong một trung tâm - miền Nam là một trung tâm, mà
trong văn khơng có cái nhàn nhạt chữ nghĩa dùng cho miền nào cũng được”.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết: “Người ta đã nói và nhắc lại nhiều lần trên
sách báo: Văn là người. Trường hợp này rơi đúng vào đời-văn - đời-người
của Nguyễn Quang Sáng. Mặc dù phải xa đến mấy mươi năm dịng sơng
Cửu Long mạnh khỏe đỏ rực phù sa, nhưng trong văn chương anh vẫn là văn
chương của kẻ tha thẩn trên những dịng sơng Nam Bộ. Nếu tơi khơng nhầm
lẫn q thì hình như địa lý của mỗi miền thường ảnh hưởng thâm chí quy
định độ bền, chiều sâu, độ dài của tác phẩm mỗi con người viết Văn học
miền Nam, theo tơi ít người viết truyện ngắn. Chín con rồng đầy đủ phù sa
như thế làm sao mà thu gọn súc tích trong vài trang giấy cho được. Nguyễn
Quang Sáng là kẻ muốn đánh lạc mình ra ngồi địa lý và ở ngồi khơng gian
quy định để làm người kể chuyện mộc mạc và tinh tế những chuyện mình và
chuyện đời như một quà tặng gọn ghẽ muốn chuyển đến cho mọi người một
cách thầm lặng”.
<i>võ, Tơi thích làm vua, Nhi đồng cụ, Nhân vật ấy không được chết, Cây gậy</i>
<i>ba số, Thua trận, Con khướu sổ lồng, Con mèo của Foujita, Dân chơi…</i> mỗi
truyện đều chứa đựng một bài học đạo lý về lẽ sống ở đời, khiến người đọc
thấm thía dư vị của nó và gợi lên những suy nghĩ sâu xa.
<i><b>3.2.2. Đặc điểm lời văn trần thuật</b></i>
3.2.2.1.Sử dụng lời nửa trực tiếp
Bào là nhờ hiểu và thâm nhập vào ý nghĩ của Bào. Bào phải ở đợ cho nhà
thằng Quyên để trừ khoản nợ mà gia đình Bào đã vay, bị mắng nhiếc, hành
hạ khơng thương tiếc.
“<i>Cũng con chim này, đối với Bào thì khác hẳn. Bào rất căm ghét con </i>
<i>chim vàng. Có lúc nghĩ thấy con chim bị bắn nát đầu, rơi xuống, vài sợi </i>
<i>lông vàng bay theo, Bào hả dạ lắm ! </i>
<i> Thằng Quyên mười tuổi là con nhà chủ. Cha nó là hương quản trong </i>
<i>làng. Bào mười hai tuổi là đứa ở chăn trâu cho nhà này. Đêm ngủ, Bào trằn</i>
<i>trọc tìm mưu bắt cho con "bà chủ". Bắt khơng được chim, không được ăn cơm.</i>
<i>Hai năm trước, mẹ Bào mắc nợ nhà này hai thúng thóc, nó địi ngặt, Bào </i>
<i>phải đến ở đợ. Nhưng nợ đó khơng bằng nợ con chim vàng. Gặp Bào nó địi,</i>
<i>Bào chịu địn để thế. Bào sợ quá, bữa nào cũng rình cũng bắt. Nhưng bắt </i>
<i>làm sao được, nó có cánh, vừa leo lên là nó vụt mất, có khi cịn ỉa xuống </i>
<i>mặt Bào. Hết phương cách rồi ! Chiều đó Bào về, thằng Quyên đòi chim, </i>
<i>Bào hai tay bưng chiếc nón lá rách đựng đầy đồ chơi...”. </i>
Còn trong <i>Quán rượu người câm</i> là câu chuyện anh Ba Hoành bị
địch bắt năm 1956, tra tấn đến hóa câm. Anh về nhà ở với vợ, dọn một hàng
rượu. Ở quán rượu “người câm” được nghe đủ mọi thứ chuyện về tội ác của
kẻ thù, về sức câm thù quật khởi của nhân dân. Cho đến ngày đồng khởi,
nhân dân chờ đợi người lãnh đạo xuất hiện. Phút chờ đợi thật nghiêm trang.
Nhưng khơng ngờ người đó lại chính là anh: “Bốn năm rồi, tơi khơng nói,
khơng phải tơi câm, mà tôi im lặng. Đã đến lúc chúng ta không im lặng được
nữa !”
nhân dân phá thế kìm kẹp của kẻ thù ! Cái thế giới mà người đọc được
Nguyễn Sáng đưa vào quả là kỳ lạ !
3.2.2.2.Câu văn trần thuật
Khảo sát truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng thấy tác giả thường sử
<i>3.2.2.2.1. Sử dụng câu văn ngắn</i>
Kiểu câu văn ngắn thường được tác giả dùng trong trường hợp kể
vắn tắt sự kiện, nội dung, miêu tả hành động, lời nói của nhân vật. Chính qua
những kiểu câu ngắn đó giúp người đọc nhận diện ra được bản chất từng
nhân vật trong truyện.
Nhà văn sử dụng câu văn ngắn, ít từ mà nhiều nội dung thơng báo
như trong Con mèo của Foujita:
“ <i>Một hôm, người bạn họa sĩ nổi tiếng ở đất Sài Gòn vốn cũng quen</i>
<i>với tơi, đến tìm tơi: </i>
<i>- Nghe nói anh quen với anh Nam? </i>
<i>- Bạn học từ nhỏ. </i>
<i>- Vậy là may cho tôi. </i>
<i>- Sao? </i>
<i>- Vậy là đúng rồi. Tôi muốn nhờ anh giới thiệu tôi với ông Nam. </i>
<i>- Để xem tranh?</i>” [43, 28].
Hay như trong Con khướu sổ lồng:
<i>“- Ba ơi! Chim bay rồi. </i>
<i>- Cái gì? </i>
<i>- Chim bay rồi! </i>
<i>- Chim nào bay? </i>
<i>- Con Khướu nhà mình đó, nó sổ lồng, nó bay mất rồi. </i>
<i>- Thiệt sao? </i>
<i>- Thiệt! “</i>
Tương tự như thế, trong Cái gáo mù u
<i>“- Cậu ăn cái gì mà đỏ đỏ vậy? </i>
<i>- Cháo đậu đỏ. </i>
<i>- Có gì lạ đâu mà hai con mắt anh sáng lên. </i>
<i>- Nhà cậu nấu à? </i>
<i>- Khơng! ở chợ Cây Xồi. </i>
Khi cần liệt kê những hành động, suy nghĩ thì kiểu câu văn ngắn rất
thích hợp. Điển hình như trong Chiếc lược ngà
<i>“ -Ba con, sao con khơng nhận?</i>
<i>-Khơng phải - đang nằm mà nó cũng giẫy lên.</i>
<i>-Sao con biết là không phải? Ba con đi lâu, con qn rồi chứ gì?</i>
<i>-Ba khơng giống, cái hình ba chụp với má,</i>
<i>-Sao không giống, đi lâu, ba con già hơn trước thôi.</i>
<i>-Thu! Để ba con đi. Thống nhất rồi ba con về.</i>
<i>Bà ngoại nó vừa vuốt tóc nó vừa dỗ:</i>
<i>-Cháu của ngoại giỏi lắm mà! Cháu để ba cháu đi rồi ba sẽ mua về cho </i>
<i>cháu một cây lược.</i>
<i>Con bé lại ơm chầm ba nó một lần nữa và mếu máo:</i>
<i>-Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba! - Nó nói trong tiếng nấc, vừa</i>
<i>nói vừa từ từ tuột xuống”. </i>
<i> 3.2.2.2.2. Sử dụng kiểu câu văn dài</i>
Bên cạnh kiểu câu ngắn để diễn đạt rõ nghĩa hơn và liệt kê những
hành động, suy nghĩ, sự vật, sự việc...nhà văn còn dùng khá nhiều kiểu câu
văn dài để kể hoặc tả. Tập trung nhất trong sáng tác của Nguyễn Quang
Sáng là ở truyện ngắn Chị Nhung: “Chờ khi trời sẩm tối, xuồng của chúng
tôi mới tách bến và rặng lá hai bên bờ sông vàm Cỏ Đông như cũng chờ đến
lúc trời tắt nắng mới rì rào chuyển động, khiến cho ta có cảm tưởng như gió
chiều khơng phải từ xa thổi tới mà dậy lên từ trong những ngọn lá lao
<i>người giàu, dân chơi thì hầu như nó khơng bao giờ nghĩ tới . . .Anh Tư nhà </i>
<i>văn, anh chỉ hơn 40 mà sao ai cũng gọi anh Tư già? ở chung nhà với anh </i>
<i>một tuần, tơi đốn chừng, một là trong cơ quan văn nghệ R ai cũng trẻ, hai </i>
<i>là anh lúc nào cũng thong thả, thong thả đến chậm chạp, nghe có tiếng máy </i>
<i>diễn. . . Đêm đầu hát ở Bạc Liêu, sau khi hạ màn, giãn hát, thì có một thanh </i>
<i>niên ăn mặc sang trọng quần tây trắng, áo sơ mi lụa lèo màu hột gà, người </i>
<i>tầm thước, nước da trắng hồng, mái tóc hớt xanh, tay cầm một bó hoa hồng </i>
<i>rực rỡ lên sân khấu xin được tặng cho cô đào Năm Thanh”.</i>
<i> Tóm lại, với kiểu câu văn dài nhà văn chỉ sử dụng tập trung trong một số</i>
truyện ngắn để miêu tả tận chiều sâu diễn biến tâm trạng nhân vật. Những
truyện ngắn còn lại chỉ được sử dụng một cách rãi rác, khi cần thiết phục vụ
cho dụng ý nghệ thuật Nguyễn Quang Sáng mới dùng đến, chính điều đó đã
làm nên tài năng trần thuật Nguyễn Quang Sáng.
<i><b>3.2.3. Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ</b></i>
đạt, giản đơn của con người miền sông nước. Và quan trọng hơn hết là, ông
thâu tóm vào tác phẩm cái hồn cốt Nam Bộ.
“Bao giờ cũng vậy, hễ một chuyện nguy hiểm qua rồi thì chuyện đó trở
thành chuyện vui. Đó cũng là trường hợp của anh Bảy Ngàn. Trong một
ngày, anh suýt chết đến mấy lần, thốt chết rồi, bây giờ anh coi đó như một
Trận lụt chưa rút. Nước vẫn mênh mông. Trời trăng sáng. Đúng là cảnh
trăng nước của Tháp Mười. Năm, bảy chiếc xuồng kề lại gần một tàm cây.
Họ đang nhậu và nói chuyện. Hình như có cả nữ nữa.
- Ở cái chiến trường Tháp Mười này mà khơng nhanh trí, khơng táo bạo thì
làm sao mà sống được ?
Anh Bảy đang nói đấy, giọng oang oang. Một anh bạn nhà báo của tôi liền
rạp mình, thọc sâu mái dầm bơi nhanh lại.
Xuồng đang trớn, mũi va vào lái xuồng khác đánh cốp một tiếng, xuồng này
thúc xuồng kia, chịng chành, có người chới với và nhiều tiếng hỏi. Đang lúc
vui, chẳng ai muốn nổi giận. . .
- Anh Bảy, kể lại từ đầu đi!
Anh Bảy, người kể chuyện, đang ngồi giữa chiếc xuồng cui lớn. Cạnh bên
anh là một rổ ốc bươu, một chai rượu đã cạn, và một cái cốc, một bình tích
nước trà. Anh khoảng ba mươi hai tuổi, người hơi thấp, vai ngang, da nâu,
bắp thịt nổi cuồn cuộn. Anh ở trần, lồng ngực phồng lên như cái ức chim.
Mặt anh vng, tóc rễ tre, cắt ngắn và dựng đứng.” [43,334]
- Nhà chúng tôi ở cạnh nhau, gần vàm kinh (vùng của kênh, rạch đổ
ra sông) nhỏ đổ ra sông Cửu Long.
- Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi tóc cắt ngang vai,
- Cịn anh, anh khơng ghìm nổi xúc động. Mỗi lần bị xúc động, vết
<i>thẹo (vết sẹo) dài bên má phải lại đỏ ửng lên, giần giật, trong rất dễ sợ…</i>
- Mẹ nó đâm nổi giận quơ đũa bếp dọa đánh, nó phải gọi nhưng lại
<i>nói trổng (nói trống khơng với người khác, khơng dùng đại từ xưng hơ): Vơ</i>
ăn cơm.
- Mẹ nó dặn, ở nhà có gì cần thì gọi ba giúp cho. Nó khơng nói
khơng rằng, cứ lui cui (lúi húi) dưới bếp.
- Nó loay hoay rồi nhón gót lấy cái vá (cái mui) múc ra từng vá
nước…
- Xuống bến, nó nhảy xuống xuồng, mở lịi tói (dây xích sắt hoặc
dây chão lớn dùng để buộc tàu, thuyền) cố làm cho dây lịi tói khua rổn rảng,
khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông
- Biết chớ. Người ở ngoải (ngồi) về, cái gì cũng chiếc, chiếc.
- Con bị đụng ( tông) xe.
- Mạnh ( khỏe) rồi, nhưng hai chân còn yếu, không gánh nổi,
bận( lượt) đi con đi xe xích lơ, bận ( lượt) về nhẹ con gánh.
- Bỗng một hơm có một chiếc xe hơi ( xe ô tô) đậu lại trước nhà.
- Nó quơ ( múa) cây rượt theo Bào, liệng ( ném) vun vút.
- Lúc đó lu bu ( bận rộn) q, tao phải đón gia đình.
- Xe đị ( xe vận chuyển hành khách).
- Lịch sử sang trang, những thằng như tao bị phá sản, còn giới mua
vàng giữ làm của thì bây giờ lại sống phây phây ( béo tốt).
3.2.3.1. Tiếng nói hàng ngày của con người Nam Bộ được Nguyễn Quang
Sáng sử dụng nhuần nhuyễn
Ngôn ngữ Nam Bộ dày đặc trong truyện ngắn là một trong những đặc
điểm của văn chương Nguyễn Quang Sáng.
Nguyễn Quang Sáng đã làm giàu thêm vốn từ vựng văn chương bằng cách
mạnh dạn đưa rất nhiều từ trong lới nói của nhân dân Nam Bộ vào trang văn của
mình. Có những từ rất lạ với người đọc ở những miền khác trên đất nước. Nhưng
những từ này được đặt trong văn mạch quen, nhờ thế người đọc vẫn có thể hiểu
được. Những từ đó cũng tạo nên âm sắc riêng của truyện ngắn Nguyễn Quang
Sáng . Chẳng hạn như “<i>Chớp nhay nháy như đom đóm trên cây bần”, “Trịn</i>
<i>như hột mít” (Linh Đa), “Đỏ ngầu như mắt cá chày”, “Giương hai con mắt</i>
<i>ếch” (Ông Năm Hạng)…</i>Việc sử dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo ngơn
ngữ một mặt làm tăng sự linh hoạt và hình ảnh cho lời văn, mặt khác góp phần
thể hiện một chiều sâu văn hóa đặc thù trong tâm lí, tính cách nhân vật - tính
cách con người Nam Bộ trong đấu tranh và trong đời thường.<i>“Nó khơng nói</i>
<i>bị dồn vào thế bí, chắc nó phải gọi ba thơi. Nó nhìn dáo dác một lúc rồi</i>
<i>- Cơm sơi rồi, chắt nước giùm cái! - Nó cũng lại nói trỏng:</i>
<i>Tơi lên tiếng mở đường cho nó:</i>
<i>- Cháu phải gọi: “Ba chắt nước giùm con”, phải nói như vậy.</i>
<i>Nó như khơng để ý đến câu nói của tơi, nó lại kêu lên:</i>
<i>- Cơm sôi rồi, nhão bây giờ! . . .” [43,163]</i>
<i>đi, những đợt sóng đuối sức lặng an dần, dịng sơng vừa trở lại n tĩnh,</i>
<i>…” </i>
“Tôi đạp tung cửa, vọt ra, tay cầm súng ngắn bắn vào những tầng
<i>nhà có bọn lính. Mũi qn của tôi hơn ba mươi tay súng liền vọt qua bãi</i>
<i>gạch đổ, hét dậy lên.</i>
<i>Như đang sống lại cảnh ấy, anh Tám Sơn vừa kể vừa ra bộ móc súng, </i>
<i>người chồm dậy. Cịn tơi thì dang tay đập mạnh vào mái chèo, mũi </i>
<i>xuồng cất lên, lướt tới như con thoi.</i>
<i>Anh Tám Sơn bỗng kêu to:</i>
<i>- Quá rồi, quay lại !</i>
<i>Tôi vừa rà một mái chèo cho mũi xuồng quay lại vừa hỏi:</i>
<i>- Cịn chị Nhung thì sao anh?</i>
<i>- Hãy khoan ! Để cho tơi tìm cái bến vơ đã.</i>
<i>Anh nắm be xuồng, ngồi hơn nghiêng một bên, nhìn vào rặng lá.</i>
<i>Tôi cho xuồng rẽ vào một bến nhỏ, mũi xuồng vừa cỡi lên bãi đất lài, </i>
<i>anh bước lên bờ, bảo tôi :</i>
<i>- Ơở đây chờ tôi nhé ! Tôi sẽ gọi cháu xuống. Cô ấy kể cho anh nghe rõ </i>
<i>hơn.Tôi vẫn đứng trên lái xuồng, nhìn theo ánh đèn pin sáng xanh của </i>
<i>anh xa dần vào những ngôi nhà trong khu vườn.</i>
<i>Thấy ánh đèn pin xanh quay trở lại, tôi bỗng hồi hộp khi nghĩ đến lúc </i>
<i>gặp mặt chị Nhung. . .”.[43,209 ] </i>
3.2.3.2. Sự phong phú các từ ngữ biểu thị đồng bằng sơng nước.
trưng văn hóa nơi đây chính là sự phong phú về các từ ngữ chỉ các loại
hình và hoạt động sơng nước: sơng, lạch, kinh, rạch, xẻo, mương, rãnh, ao,
hồ, đìa, bàu, láng, bưng, biền, vũng, xáng, vàm, cù lao, cồn, bãi, . . .; nước
lên, nước lớn, nước đứng, nước giựt, nước ròng, nước ngược, . . .
“Mỗi lần nhìn thấy cây lược ngà nhỏ ấy là mỗi lần tôi băn khoăn và
<i>ngậm ngùi. Trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến không biết</i>
<i>bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng chưa bao giờ, tôi bị xúc động như lần ấy.</i>
<i>Trong những ngày hồ bình vừa lập lại, tôi cùng về thăm quê với một</i>
<i>người bạn. Nhà chúng tôi ở cạnh nhau gần vàm kinh nhỏ đổ ra sông Cửu</i>
<i>Long. . .” [43,158]</i>
“Ba năm sau. Trong ba năm ấy, tôi xê dịch ba nơi: ở chiến trường
<i>Đồng Tháp một mùa nước thì trở về R. Từ R theo một cách quân tiến về </i>
<i>Sài Gòn năm Mậu Thân, rồi từ chiến trường Sài Gòn lại trở về R. cịn anh </i>
<i>Tư già thì ở Bến Tre, nhưng khơng ngồi yên một chỗ, khi ở cù lao này lúc </i>
<i> Cả hai đều suýt chết nhiều lần nhưng không chết mà gặp nhau trên </i>
<i>một cái hồ giữa rừng biên giới. Một cái hồ mênh mông có một dịng sơng </i>
<i>nhỏ nối liền sơng Cửu Long, nhờ đó mà cá từ Biển Hồ xi theo sơng Cửu </i>
<i>Long, rẽ vào nhánh sông nhỏ, vào hồ trú ngụ sanh đẻ. Độ mươi cái nhà bè</i>
<i>sống trên hồ, sống bằng nghề đánh cá . . .” [43,365].</i>
thúc chiến tranh, nhưng cũng đã để lại nơi đây những dấu ấn sâu đậm về
ngôn ngữ và văn hóa. Các nhóm cư dân ấy đã cung cấp cho nhau vốn liếng
ngơn ngữ sẵn có của mình, đồng thời cùng nhau sáng tạo, phát triển vốn
liếng ngôn ngữ sẵn có để nó có thể phản ánh khơng gian văn hóa mới và
các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội gắn liền với khơng gian văn hóa
mới. Chính vì vậy, tiếng Việt Nam Bộ ngày nay có những đặc trưng về
ngữ âm và từ vựng rất khác biệt với phương ngữ Bắc và phương ngữ
Trung, hai phương ngữ chính đầu tiên hình thành trong tiếng Việt. Hiện
nay, sự khác biệt đó vẫn đang tiếp tục gia tăng. Đó là vì ở nước ta, từ trước
đến nay, các luồng di dân chỉ diễn ra một chiều từ Bắc vào Nam. Và từ
thời kỳ đổi mới, hàng vạn người phương Tây, người phương Đông đã quay
trở lại Việt Nam mà nơi thu hút nhiều nhất chính là Nam Bộ. Do đó, khác
với tiếng Việt, văn hóa Việt ở miền Bắc, miền Trung, tiếng Việt cũng như
văn hóa Việt ở Nam Bộ có điều kiện để phát triển, biến đổi nhanh hơn.
“ … Sau khi nhà tơi bị bọn nó giết chết, tơi bồng bế hai chị em nó lên
<i>cái đất Sài Gịn này, chen vào cái chỗ đơng người để lánh mặt. Tôi sống</i>
<i>bằng nghề bán bánh lọt. Buổi trưa hơm ấy, cũng trên con đường ngồi</i>
<i>ngoại ơ này, tơi đang múc bánh bán cho một bà khách hàng nghèo ở bên</i>
<i>đường. Có một chiếc xe con cóc chạy qua, tự nhiên xe thắng lết bánh dừng</i>
<i>lại sát bên đường. Năm đó, mỗi lần thấy cái loại xe ấy bỗng nhiên mà dừng</i>
<i>- Cho tôi hai tô.</i>
<i>- Thầy ba muốn ăn, tôi cũng húp bậy một tô cho trơn cái cần cổ, cho</i>
<i>thêm một gáo nước dừa nữa chị, tính thêm bao nhiêu tơi trả. . . Liên đang</i>
<i>giàn giụa nước mắt, nhưng không đáp. Liên hối hận vì đã có một ý định xốc</i>
<i>nổi với người mẹ. Và chưa lúc nào, Liên lo sợ Mì như lúc này. Nếu nó chưa</i>
<i>gặp lại mẹ, chưa kịp hiểu mà phải hy sinh thì… Nghe tiếng súng nổ, ruột</i>
<i>gan cô cứ thắt lại. Cô cất gánh vội vã bước nhanh.</i>
<i>Liên dáng thâm thấp, gánh hai cái thúng bánh sà xuống mặt đường,</i>
<i>vừa đi vừa chạy, vừa tránh, vừa lách qua những chiếc xe đang ngược lại</i>
<i>trên đường.</i>
<i>Rồi sau đó, trận đánh kéo ngọn lửa mỗi lúc lan ra. Một bầy trực</i>
<i>thăng như một bầy nòng nọc chúi đầu, bơi luồn trong khói. Dưới tầm đạn</i>
<i>hỏa tiễn của trực thăng, nhiều ngôi nhà bị sụp đổ, khu phố bốc lên nhiều</i>
<i>đám cháy lớn . . .” [43,66]</i>