Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Tài liệu Đề tài " LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG VAY TIỀN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ HIỆN NAY" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.74 KB, 78 trang )





Đề tài " LÃI SUẤT
TRONG HỢP
ĐỒNG VAY TIỀN
VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ ĐẾN NỀN
KINH TẾ HIỆN
NAY"

LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG VAY TIỀN VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ HIỆN NAY
CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA
HỌC”
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI – NĂM 2009

Người thực hiện: Dương Thu
Phương
Giới tính: Nữ Dân tộc: Kinh
Lớp: DS32C Năm thứ: 3/4 Khoa: Luật Dân
Sự
Người hướng dẫn: Nguyễn Minh
Oanh
THS. GV Khoa: Luật Dân
Sự


LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta luôn


luôn nỗ lực tìm kiếm các giải pháp nhằm đưa nền kinh tế nước nhà phát triển một
cách toàn diện và hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Những giải pháp
đưa ra và được thực hiện trên thực tế đã thu được những kết quả khả quan, trong
đó có những biện pháp quy định về lãi suất (interest rate). Việc điều chỉnh lãi suất
hợp lí sẽ giúp phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên, hiện nay những quy định của pháp luật về hợp đồng vay tài sản và đặc biệt là
lãi suất có những bất cập nhất định. Những bất cập đó thể hiện ở chỗ những quy định
pháp luật này còn thiếu cụ thể, lỗi thời không phù hợp với thực tế. Sự quy định của pháp
luật đã bộc lộ những khiếm khuyết khi những quy định này được áp dụng trong cuộc
sống. Và khi có rất nhiều tranh chấp xảy ra cộng với tình hình phức tạp của nền kinh tế
hiện nay thì một đòi hỏi nhất thiết là phải sửa đổi luật để đảm bảo lợi ích cho các chủ thể
và xây dựng một hàng rào pháp luật vững chắc.
Với tình hình diễn biến kinh tế ngày càng phức tạp đòi hỏi các nhà chuyên môn phải có
những biện pháp để cải thiện tình hình, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính
toàn cầu cuối năm 2008 vừa qua. Nhiều nước chịu ảnh hưởng nặng nề và rất khó khăn
khi khôi phục lại, trong đó có Việt Nam. Việc áp dụng mức lãi suất của từng nước như
nào sẽ giúp điều phối được một phần nền kinh tế của nước đó.
Ngày nay, tỉ lệ lạm phát có nguy cơ tăng cao và biến đổi nhanh chóng khiến các nhà
chuyên môn rất khó khăn để có thể dự đoán được biến đổi của lạm phát như thế nào. Hơn
nữa trong thời gian này lạm phát tăng cao cộng với những khó khăn trong quá trình khôi
phục nền kinh tế sau khủng hoảng càng làm tăng tính quan trọng của lãi suất đối với nền
kinh tế. Vì vậy, việc quy định mức lãi suất hợp lí và thay đổi đúng lúc sẽ giúp giảm tỉ lệ
lạm phát đồng thời giúp khắc phục những khó khăn mà khủng hoảng kinh tế tài chính
toàn cầu mang lại.
Vay tiền là một hình thức rất phổ biến, trong hợp đồng vay thường có một điều khoản gọi
là lãi suất. Với những tác động tích cực của nó, lãi suất là một yếu tố quan trọng và đôi
khi không thể thiếu trong đời sống. Việc sử dụng lãi suất trong hợp đồng vay tiền cũng
vậy. Lãi suất không chỉ đem lại lợi nhuận và thoả mãn nhu cầu về vật chất của người cho
vay, lãi suất còn đem lại sự đầu tư hay sử dụng có mục đích của người đi vay.
Trên thực tế các tranh chấp về hợp đồng vay tiền ngày càng gia tăng đặc biệt là các tranh

chấp liên quan đến lãi và lãi suất. Tuy nhiên những quy định của pháp luật về vấn đề này
còn rất chung chung và chưa rõ ràng. Điều đó càng làm tăng thêm các tranh chấp và đã bị
một số đối tượng lợi dụng những quy định còn thiếu chặt chẽ của pháp luật để cho vay
nặng lãi, để tổ chức đánh bạc… làm biến thái đi mục đích thiết thực của lãi suất. Vì vậy
có rất nhiều điều cần phải nói và bàn bạc thêm về lãi suất nhưng với sự phong phú và đa
dạng của nó nên đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu một số khía cạnh cơ bản, khái quát
nhất.
Có thể nói lãi suất là một vấn đề còn rất mới mẻ và sự biến đổi không ngừng, thất thường
của chính nó đặc biệt trong thời gian gần đây đã thôi thúc rất nhiều nhà khoa học, nhà
chuyên môn và những ai yêu thích tìm hiểu về tiền tệ nghiên cứu với mục đích mong
muốn kìm hãm những rủi ro do lãi suất mang lại. Cụ thể, đặt ra những mục tiêu trước
mắt, giải thích được do đâu lãi suất lại có sự tăng giảm nhanh chóng như vậy, tại sao lãi
suất chịu sự chi phối của nền kinh tế và ngược lại lãi suất có ảnh hưởng gì đối với lạm
phát và giảm phát thì sẽ tìm ra biện pháp khắc phục. Tuy nhiên với kiến thức còn nhiều
hạn chế và sự eo hẹp về tài liệu, thời gian nên đề tài này không thể tránh khỏi những
thiếu sót nhất định. Tôi xin chân thành đón nhận ở thầy cô và các bạn những ý kiến đóng
góp bổ ích để đề tài được hoàn thiện hơn.
Trong đề tài gồm những chương sau:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về hợp đồng vay tiền
Chương 2: Lãi suất trong hợp đồng vay tiền
Chương 3: Quy định của pháp luật Việt Nam về lãi suất trong hợp đồng vay tiền và thực
trạng áp dụng
Chương 4: Tác động của lãi suất trong hợp đồng vay tiền tới nền kinh tế hiện nay
Chương 5: Nhận xét và kiến nghị.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG VAY TIỀN
1.1. Khái niệm hợp đồng vay tiền
Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện khi trong xã hội loài người có
tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Khái niệm cho vay, theo nghĩa chung nhất

được hiểu là việc một người thoả thuận để cho người khác được quyền sử dụng số tài sản
của mình (bao giờ cũng là tài sản cùng loại) trong một thời hạn nhất định với điều kiện có
hoàn trả, dựa trên cơ sở tin tưởng hay tín nhiệm của mình đối với người đó. Hợp đồng
vay tiền là một hợp đồng vay có đối tượng là một tài sản đặc biệt – tiền. Cho vay nói
chung và cho vay tiền nói riêng bao gồm các yếu tố cấu thành cơ bản sau:
· Thứ nhất, về chủ thể, việc cho vay bao giờ cũng có ít nhất hai bên chủ thể tham gia, bao
gồm bên vay và bên cho vay. Bên cho vay là người có khoản tiền chưa dùng đến, muốn
cho người khác sử dụng để thoả mãn lợi ích của mình, có thể là lợi ích vất chất hoặc tinh
thần. Còn bên vay chính là người đang cần sử dụng số tiền đó để thoả mãn nhu cầu về
kinh doanh hoặc tiêu dùng.
· Thứ hai, hình thức pháp lý của việc cho vay chính là hợp đồng cho vay tiền. Hợp đồng
này được các bên xác lập và thực hiện trên nguyên tắc căn bản của hợp đồng như nguyên
tắc về tự do và thống nhất ý chí, nguyên tắc tự định đoạt…
· Thứ ba, sự kiện cho vay phát sinh bởi hai hành vi căn bản là hành vi ứng trước và hành
vi hoàn trả một số tiền nhất định. Hành vi ứng trước tài sản do người cho vay thực hiện,
còn hành vi hoàn trả lại được người vay thực hiện sau đó một khoảng thời gian theo sự
thoả thuận giữa các bên.
Có thể thấy rằng, phổ biến là hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nhưng không
phải vì thế các hình thức cho vay khác không hoạt động. Có thể là cho vay giữa hai chủ
thể, hai tổ chức với nhau… hoặc dưới hình thức họ, hụi, biêu, phường. Việc cho vay
chính là giao dịch dân sự được thể hiện dưới hình thức pháp lý là hợp đồng vay tiền. Vậy
hợp đồng vay tiền là gì?
Hợp đồng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống, là hình thức pháp lý của các
mối quan hệ của các chủ thể trong xã hội.
Điều 388 – Bộ Luật Dân sự 2005 (BLDS 2005) định nghĩa: “Hợp đồng dân sự là sự thoả
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
BLDS của Pháp giải thích Hợp đồng là một sự nhất trí, theo đó, một người hoặc một số
người giao cho một hoặc một số người khác nghĩa vụ phải làm hoặc không phải làm một
việc gì đó.
Về cơ bản, các quy định đều đề cập tới các khía cạnh quan trọng của hợp đồng như sau:

+ Hợp đồng là sự thoả thuận ý chí của ít nhất hai bên. Sự thoả thuận này được thể hiện
thông qua hai giai đoạn là đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị.
+ Sự thoả thuận của các bên phải đạt được đến sự thống nhất tức là chỉ khi nào ý chí qua
lại đồng thời là ý chí thống nhất thì hợp đồng mới hình thành. Nếu giao dịch thể hiện ý
chí một bên sẽ không có hợp đồng.
+ Mục đích của hợp đồng phải nhằm đạt được hậu quả pháp lý đã định trước. Hậu quả
pháp lý của hợp đồng có thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa
vụ dân sự.
Là một loại hợp đồng dân sự, hợp đồng vay tài sản được hiểu là sự thoả thuận giữa các
bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả bên vay phải hoàn trả
cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu
có thoả thuận hoặc pháp luật đã quy định”
([1])
.
Hợp đồng vay tiền là một loại hợp đồng vay tài sản, dựa trên định nghĩa về Hợp đồng
(Điều 388 – BLDS 2005) và Hợp đồng vay tài sản (Điều 471 – BLDS 2005) tác giả xin
định nghĩa về hợp đồng vay tiền như sau: hợp đồng vay tiền là sự thoả thuận giữa các
bên, theo đó bên cho vay giao tiền cho bên vay; khi đến hạn trả bên vay phải hoàn trả
cho bên cho vay đúng số lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật
quy định.
Hợp đồng vay tiền có lãi suất là hợp đồng có sự thoả thuận về lãi suất hoặc lãi suất do
pháp luật quy định. Khi tranh chấp xẩy ra đòi hỏi thẩm phán phải quan tâm để giải quyết
cả về việc trả tiền nợ gốc, nợ lãi, bao gồm cả lãi suất và thời gian tính lãi nợ quá hạn kể
từ khi hết hạn vay, với hợp đồng vay không có thời hạn thì thời gian tính lãi nợ quá hạn
kể từ khi đòi nợ.
1.2. Đặc điểm của hợp đồng vay tiền
Qua những phân tích ở trên, hợp đồng vay tiền có những đặc điểm pháp lý sau:
· Thứ nhất, hợp đồng vay tiền là hợp đồng chuyển quyền sở hữu đối với số tiền vay, khi
bên vay nhận tiền. Bên vay có toàn quyền đối với tiền vay trừ trường hợp vay tiền có điều
kiện sử dụng. Ví dụ: A thoả thuận với B không được sử dụng khoản tiền mà A cho B vay

để chi tiêu vào việc kinh doanh, chỉ được mua sắm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hành
ngày…
· Thứ hai, hợp đồng vay tiền có lãi suất là hợp đồng song vụ. Nghĩa là các bên chủ thể
trong hợp đồng (bên cho vay và bên vay) đều có nghĩa vụ đối với nhau (theo khoản 1
điều 406 – BLDS 2005), hay nói cách khác mỗi bên chủ thể trong hợp đồng vay tiền có
lãi suất là người vừa có quyền vừa có nghĩa vụ dân sự. Trong nội dung của hợp đồng,
quyền dân sự của bên này đối lập tương ứng với nghĩa vụ bên kia và ngược lại. Tức là
bên cho vay có nghĩa vụ chuyển tiền đúng thời hạn, bên vay có nghĩa vụ nhận tiền và
phải trả cả gốc và lãi đúng thời hạn theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Khi
các bên vi phạm nghĩa vụ nêu trên thì sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự.
· Thứ ba, hợp đồng vay tiền là hợp đồng có đền bù hoặc không có đền bù. Trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài này, vấn đề mà chúng ta đề cập tới là lãi suất trong hợp đồng vay
tiền nên hợp đồng vay có lãi suất là hợp đồng vay có đền bù. Các bên chủ thể sau khi
thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng. Chúng
ta biết rằng bản chất của các giao dịch dân sự mang tính đền bù tương đương và đặc điểm
cơ bản của quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự là sự trao đổi ngang giá. Khi cho vay
một khoản tiền nhất định thì trong một thời hạn có thể do các bên thoả thuận hoặc do
pháp luật quy định phải có một khoản tiền phát sinh để đền bù cho sự đầu tư cho vay tiền
của bên cho vay nhằm thoả mãn nhu cầu của bên cho vay.
1.3. Đối tượng và kỳ hạn của hợp đồng vay tiền
1.3.1. Đối tượng
Đối tượng của hợp đồng vay tiền là một khoản tiền nhất định. Sự tiến triển không ngừng
các hoạt động kinh tế dưới các hình thức khác nhau của sản xuất và trao đổi sản phẩm là
sự phát triển của hệ thống tiền tệ. Dù tiền tệ được thể hiện dưới dạng vỏ sò, hạt tiêu,
miếng vàng hay tiền giấy chúng đều thể hiện ba chức năng cơ bản sau:
- Phương tiện trao đổi
Trong hầu hết các giao dịch, tiền đóng vai trò phương tiện trao đổi – thực chất là thực
hiện giá trị của hàng hoá, có nghĩa là nó được sử dụng mua bán, thanh toán tiền hàng hoá,
dịch vụ. Chức năng trao đổi của tiền tệ khắc phục được những hạn chế của quá trình trao
đổi trực tiếp, nhờ đó mà tiết kiệm các chi phí giao dịch liên quan đến việc tìm kiếm, chờ

đợi tác nhân có khả năng thoã mãn nhu cầu trao đổi.
- Đơn vị tính toán giá trị
Các hàng hoá khi trao đổi với nhau cần có sự so sánh để hình thành tỉ lệ trao đổi. Chức
năng này của tiền tệ biểu hiện giá trị hàng hoá thành tiền, nhờ đó mà các hàng hoá có thể
so sánh với nhau về mặt lượng. Điều này có tầm quan trọng rất lớn do tiết kiệm được các
chi phí giao dịch bởi số lần hình thành giá trung gian trong trao đổi trực tiếp.
- Phương tiện tích luỹ giá trị
Chức năng này của tiền tệ giúp để tích luỹ sức mua trong thời gian nhận thu nhập cho đến
khi sử dụng chúng bởi thu nhập của con người thường không được sử dụng ngay một lúc.
Tiền là đối tượng của hợp đồng vay có thể là Việt Nam đồng (VND) hay ngoại tệ tuỳ
theo sự thoả thuận của các bên hoặc pháp luật quy định. Đối tượng của hợp đồng vay tiền
được chuyển từ bên cho vay sang bên vay làm sở hữu. Bên vay có quyền định đoạt số
tiền vay. Khi hết hạn của hợp đồng vay tiền, bên vay có nghĩa vụ trả cho bên kia số tiền
đã vay. Có hợp đồng vay tiền không thoả thuận thời hạn thì bên vay phải trả số tiền vay
bất kỳ lúc nào khi có yêu cầu của bên cho vay.
1.3.2. Kỳ hạn
Hợp đồng vay tiền có thể có hoặc không có kỳ hạn (xác định hoặc không xác định). Nếu
hợp đồng vay tiền không thoả thuận về kỳ hạn thì hợp đồng vay tiền được coi là không có
kỳ hạn. Bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay phải thực hiện hợp đồng bất kỳ lúc nào.
Tuy nhiên để tạo điều kiện cho bên vay chuẩn bị tiền, bên cho vay phải báo trước cho bên
vay một thời gian hợp lí để thực hiện hợp đồng. Hết thời gian đó, bên vay buộc phải thực
hiện nghĩa vụ của mình (Điều 447 – BLDS 2005). Nếu hợp đồng không có kỳ hạn thì bên
vay có thể thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, bên cho vay không được từ chối tiếp nhận
việc thực hiện nghĩa vụ của bên vay. Xác định thời điểm chấm dứt hợp đồng vay tiền có
ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm dân sự của các bên và thời hiệu khởi
kiện yêu vầu giải quyết tranh chấp về hợp đồng.
Trường hợp hết hạn hợp đồng mà bên vay không trả nợ được thì phải chịu trách nhiệm
dân sự do vi phạm hợp đồng. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này chúng ta đang đề
cập tới hợp đồng vay có lãi suất nên bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi quá hạn theo
lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời

điểm trả nợ, nếu có thoả thuận (Khoản 4 Điều 474 – BLDS 2005).
1.4. Hình thức của hợp đồng vay tiền
Hình thức của hợp đồng vay tiền có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản. Hình thức miệng
thường được áp dụng trong những trường hợp như số lượng tiền cho vay không lớn hoặc
giữa các bên có mối quan hệ thân quen. Trường hợp cho vay bằng miệng nếu xảy ra tranh
chấp hợp đồng, bên cho vay phải chứng minh được là mình đã cho vay một số tiền nhất
định. Trong thực tế nếu hình thức của hợp đồng bằng miệng có tranh chấp thì rất khó xác
định quyền và nghĩa vụ của các bên. Để làm cơ sở pháp lí cho việc giải quyết hợp đồng
vay tiền, các bên cần phải ký kết hợp đồng bằng văn bản. Các bên có thể tự lập văn bản
hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận văn bản đó.
1.5. Quyền và nghĩa vụ của các bên
1.5.1. Bên cho vay
Nếu hợp đồng vay tiền không có kỳ hạn, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay trả lại
tiền và lãi bất cứ thời gian nào nhưng phải thông báo cho bên vay một thời hạn hợp lí.
Hết thời hạn đó là hết hạn của hợp đồng và bên vay không trả nợ là vi phạm nghĩa vụ trả
tiền.
Đối với hợp đồng vay tiền có kì hạn, khi hết hạn của hợp đồng, bên cho vay có quyền yêu
cầu bên vay phải trả cho mình một số tiền tương ứng với số tiền đã vay cộng với một
khoản lãi tính theo lãi suất thời hạn và theo thoả thuận. Nếu hợp đồng cho vay tiền có áp
dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhưng bên vay không thực hiện đúng thời
hạn thì bên cho vay có quyền xử lý tài sản bảo đảm đó hoặc bán đấu giá để thực hiện
nghĩa vụ.
Bên cho vay có nghĩa vụ giao tiền đúng số lượng như thoả thuận cho bên vay. Nếu bên
cho vay có ý lừa dối bên vay mà gây thiệt hại cho bên vay thì phải bồi thường.
1.5.2. Bên vay
Là người cần đến sự giúp đỡ vật chất của bên cho vay do vậy khi hết thời hạn của hợp
đồng phải tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình phát sinh từ hợp đồng đã ký
kết. Phải trả đủ tiền gốc và tiền lãi theo thoả thuận hoặc theo pháp luật quy định. Nếu hợp
đồng cho vay không kỳ hạn, khi bên cho vay yêu cầu trả nợ thì bên vay phải thực hiện
hợp đồng trong thời gian thoả thuận. Bên vay cũng có thể thực hiện hợp đồng bất cứ thời

gian nào. Thời điểm này được coi là thời điểm chấm dứt hợp đồng cho vay tiền không kỳ
hạn. Trường hợp các bên có thoả thuận về mục đích vay, bên cho vay có quyền kiểm tra
việc sử dụng tiền của bên vay có đúng mục đích như thoả thuận hay không. Nếu sử dụng
tiền không đúng mục đích như đã thoả thuận, bên cho vay có quyền huỷ hợp đồng
(Khoản 2 Điều 478 – BLDS 2005).
1.6. Họ, hụi, biêu, phường
Họ, hụi, biêu, phường (gọi chung là họ) là một loại giao dịch dân sự về tài sản. Giao dịch
này được nhân dân ta sử dụng từ lâu và nó đã trở thành tập quán. Dưới hình thức góp
vốn, lĩnh vốn theo phường, hội trên cơ sở thoả thuận của một nhóm người về thời gian, số
tiền, thể thức góp vốn, lĩnh họ và quyền, nghĩa vụ của các thành viên.
Nguyên tắc chung của chơi họ là nhiều người (nhà con) cùng tham gia một dây họ bầu ra
nhà cái (người thu tiền của các nhà con và chuyển cho người bốc (bát) họ). Hàng tháng,
mỗi nhà con phải góp một số tiền nhất định cho nhà cái. Lần lượt theo thứ tự bốc thăm
hoặc theo thoả thuận đến kỳ hạn bốc họ, một nhà con sẽ nhận về số tiền từ nhà cái, số
tiền này do các nhà con khác góp họ. Theo thứ tự bốc họ, khi người cuối cùng bốc họ thì
dây họ chấm dứt.
Bản chất truyền thống của góp họ là những người chơi họ tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Dưới hình thức góp họ, thành viên góp họ có được số vốn tập trung để có điều kiện kinh
doanh hoặc sử dụng vào những công việc cần chi tiêu lớn. Những hình thức chơi họ có
tính chất lành mạnh được Nhà nước khuyến khích. Ngược lại Nhà nước cấm hình thức
“chơi họ” để nhằm mục đích cho vay nặng lãi giữa nhà cái với các nhà con, các hình thức
chơi họ nhằm lừa đảo hoặc các hình thức biến tướng của chơi họ là đánh bạc… Những
trường hợp này, tuỳ theo mức độ vi phạm nặng nhẹ mà bị xử lí hành chính, chịu trách
nhiệm dân sự hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ngày 27/11/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định 144/2006/NĐ-CP quy định về hình
thức họ, hụi, biêu, phường; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của những người tham gia
họ. Theo nội dung Nghị định, Nhà nước nghiêm cấm việc tổ chức họ để cho vay nặng lãi,
lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm hoặc các hành vi trái pháp luật khác để chiếm đoạt tài sản
của người khác. Nghị định nêu rõ, quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia
họ là nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân. Có hai hình thức họ là họ không lãi và họ

có lãi, trong đó họ có lãi gồm họ đầu thảo và họ hưởng hoa hồng. Chủ họ phải trả lãi đối
với các phần họ giao chậm theo mức lãi do các bên thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận
hoặc không thỏa thuận được thì áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố tương ứng với thời gian giao chậm tại thời điểm giao các phần họ. Trong trường
hợp họ có lãi thì lãi suất đối với phần họ được thực hiện theo quy định tại Điều 476 của
BLDS 2005.
Trong trường hợp có tranh chấp về họ hoặc phát sinh từ họ thì tranh chấp đó được giải
quyết bằng thương lượng, hòa giải hoặc theo yêu cầu của một hoặc nhiều người tham gia
họ, tranh chấp đó được giải quyết tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.


Chương 2
LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG VAY TIỀN
2.1. Định nghĩa lãi suất (interest rate)
Trong hầu hết các hợp đồng cho vay tiền, người vay thường phải trả thêm một phần giá
trị ngoài phần vốn gốc ban đầu. Tỉ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với phần vốn
vay ban đầu được gọi là lãi suất (interest rate). Lãi suất phải được trả bởi lẽ đồng tiền
ngày hôm nay có giá hơn đồng tiền nhận được ngày mai khi tính đến giá trị thời gian của
tiền tệ. Khi người cho vay chuyển quyền sử dụng tiền cho người khác có nghĩa là anh ta
đã hi sinh quyền sử dụng tiền tệ ngày hôm nay của mình với hi vọng có được lượng tiền
lớn hơn ngày mai. Sẽ không có sự chuyển nhượng vốn nếu không có phần lớn lên thêm
đó hoặc là nó không đủ đề bù đắp cho giá trị thời gian của tiền tệ.
Có nhiều cách định nghĩa về lãi và lãi suất. Theo Quy định phương pháp tính và hoạch
toán thu, trả lãi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tín dụng Ban hành
kèm theo Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17-5-2001 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước th× Lãi ®îc hiÓu là khoản tiền bên vay, huy động vốn hoăc bên thuê trả cho
bên vay, đầu tư chứng khoán, gửi tiền hoặc bên cho thuê về việc sử dụng vốn vay, vốn
huy động hoặc tài sản cho thuê. Lãi được tính toán căn cứ vào số vốn, thời gian sử dụng
vốn và lãi suất
([2])

.
Cũng có định nghĩa cho rằng: lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong
một thời gian nhất định mà người sử dụng vốn phải trả cho người sở hữu vốn
([3])
.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, lãi suất được định nghĩa là tỷ lệ của tổng số tiền
phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà
người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người
cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
Từ những cơ sở trên, tác giả xin được đưa ra định nghĩa về lãi suất như sau: lãi suất
trong hợp đồng vay tiền là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tiền đã vay
tính theo đơn vị thời gian. Lãi suất thường được tính theo tuần, tháng hoặc năm do các
bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định. Căn cứ vào lãi suất số tiền vay và thời gian
vay mà bên vay phải trả một số tiền nhất định. Số tiền này tỉ lệ thuận với lãi suất, số tiền
đã vay và thời gian vay.
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về lãi suất thì hợp đồng vay tiền sẽ không
có lãi suất. Nếu các bên có thoả thuận về lãi suất thì không được vượt quá “150% của lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố đối với loại cho vay tương
ứng”
(
[4]
)
. Như vậy, nếu các bên thoả thuận về lãi suất gấp hai, ba hoặc nhiều lần lãi suất
của Ngân hàng Nhà nước công bố thì khi tranh chấp xảy ra, mức lãi suất tối đa mà Toà án
chấp nhận không vượt quá “150% mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại
cho vay tương ứng”.
2.2. Đặc điểm của lãi suất
Là một công cụ để tính lợi nhuận nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của cả
bên cho vay và bên vay, lãi suất có những đặc điểm cơ bản sau đây:
· Thứ nhất, lãi suất được phát sinh chủ yếu trong các hợp đồng vay tài sản: Qua nghiên

cứu có thể thấy lãi suất có thể xuất hiện trong các hợp đồng đầu tư, cho thuê tài chính
hoặc các hợp đồng khác và là cơ sở để tĩnh lãi. Tuy nhiên, lãi suất chủ yếu vẫn được tồn
tại trong các hợp đồng vay bởi lẽ trong hợp đồng vay bên vay chỉ phải trả lại tài sản vay
sau một thời hạn nhất định do đó phải có một tỉ lệ xác định để tính lãi tương ứng với thời
hạn vay. Hơn nữa, nếu trong các hợp đồng khác như thuê tài chính, đầu tư thì cơ sở để
tính lãi còn dựa trên nhiều yếu tố khác như chi phí bỏ ra, công sức đóng góp… còn trong
hợp đồng vay thì cơ sở để tính lãi chủ yếu vẫn là lãi suất do các bên thoả thuận hoặc do
pháp luật quy định.
· Thứ hai, lãi suất không được phát sinh một cách độc lập, nó chỉ phát sinh do thoả
thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số vay gốc: Bản chất của lãi suất là một tỉ
lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay dựa vào số tiền vay gốc trong một thời
hạn nhất định. Do đó, sẽ không thể có tỉ lệ đó nếu như không tồn tại số tiền gốc mà các
bên thoả thuận được trong hợp đồng vay tài sản.
· Thứ ba, lãi suất được tính dựa trên số vay gốc và thời hạn vay (thời gian vay): Như đã
phân tích ở trên, lãi suất tỉ lệ thuận với vốn gốc và thời hạn vay. Do đó, tương ứng với số
nợ gốc nhiều hay ít, thời hạn vay dài hay ngắn mà các bên có thể thoả thuận mức lãi suất
cho phù hợp.
2.3. Phân loại lãi suất
Có nhiều tiêu chí để phân loại lãi suất, có thể là lãi suất do các bên thoả thuận hoặc lãi
suất do pháp luật quy định; có thể là lãi suất đúng hạn hay lãi suất quá hạn… Dựa vào
mỗi tiêu chí khác nhau sẽ có những cách phân loại lãi suất khác nhau.
2.3.1. Phân loại theo loại hình tín dụng
(
[5]
)
Trong lãi suất tín dụng thường có lãi suất tín dụng thương mại (TDTM), lãi suất tín dụng
ngân hàng, lãi suất tín dụng Nhà nước và lãi suất tín dụng tiêu dùng.
- Lãi suất tín dụng thương mại được áp dụng khi các doanh nghiệp cho nhau vay với hình
thức mua bán chịu hàng hoá. Tuỳ theo thời điểm mua bán chịu, cung – cầu về mua bán
chịu và mức độ tín nhiệm giữa các doanh nghiệp tham gia quan hệ mua bán chịu mà lãi

suất tín dụng thương mại có các mức khác nhau. Song các mức lãi suất tín dụng thương
mại đều có điểm chung là chúng không được ghi cụ thể bằng tỷ lệ phần trăm (%) trên
chứng từ vay nợ (trên thương phiếu) mà được bao hàm trong tổng giá cả hàng hoá bán
chịu có nghĩa là doanh nghiệp mua chịu phải trả giá hàng hoá cao hơn mức mua trả tiền
ngay. Chênh lệch giữa hai loại tổng giá cả hàng hoá này là tiền lãi mà doanh nghiệp mua
chịu trả cho doanh nghiệp bán chịu, do vậy để tính lãi suất tín dụng thương mại, người ta
sử dụng công thức sau:

Tổng giá cả hàng hóa bán chịu – Tổng giá cả hàng hóa bán trả tiền ngay x 100%
Lãi suất TDTM = ————————————————————————————

Tổng giá cả hàng hóa bán trả tiền ngay
- Lãi suất tín dụng ngân hàng áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng với công chúng và
doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay, trong hoạt động tái cấp vốn của
Ngân hàng Trung ương cho các ngân hàng, và trong quan hệ giữa các ngân hàng với nhau
trong thị trường liên ngân hàng. Việc phân biệt khái niệm lãi suất trong các quan hệ này
là cần thiết để hiểu rõ mối quan hệ giữa chúng:
+ Lãi suất tiền gửi được áp dụng để tính tiền lãi phải trả cho người gửi tiền. Lãi suất tiền
gửi có nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn gửi, vào quy mô tiền gửi. Sự biến
động lãi suất tiền gửi ở mức độ lớn không chỉ ảnh hưởng đến quy mô nguồn vốn của các
ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến khối tiền giao dịch và qua đó tới lạm phát. Chính vì
vậy việc áp dụng chính sách tăng mạnh lãi suất tiền gửi có hiệu quả cao trong kiềm chế
đẩy lùi lạm phát.
+ Lãi suất tiền vay được áp dụng để tính lãi tiền vay mà khách hàng phải trả ngân hàng.
Về mặt nguyên tắc mức lãi suất tiền vay bình quân phải cao hơn mức lãi suất tiền gửi
bình quân, và có sự phân biệt giữa các khoản vay với thời hạn khác nhau cũng như mức
rủi ro khác nhau. Sự thay đổi lãi suất tiền vay có tác động tới quy mô cho vay và khả
năng cung ứng tiền của hệ thống ngân hàng trung gian. Vì cơ chế này mà Ngân hàng
Trung ương có thể thực hiện mục tiêu nới lỏng hoặc thắt chặt cung ứng tiền bằng cách
ảnh hưởng tới lãi suất tiền vay của các ngân hàng áp dụng đối với nền kinh tế.

+ Lãi suất chiết khấu áp dụng khi ngân hàng trung gian cho khách hàng vay dưới hình
thức chiết khấu các giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán và thoả mãn các điều kiện
chiết khấu theo quy định. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) trên mệnh giá của giấy
tờ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng. Mức chiết
khấu được quyết định bởi cung – cầu vốn trên thị trường tín dụng, căn cứ vào chất lượng
của giấy tờ có giá, thời hạn chiết khấu cũng như quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng.
+ Lãi suất tái chiết khấu (lãi suất tái cấp vốn) áp dụng khi ngân hàng trung ương tái cấp
vốn cho các ngân hàng dưới hình thức chiết khấu lại các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến
hạn thanh toán của các ngân hàng. Lãi suất tái chiết khấu do Ngân hàng Trung ương ấn
định căn cứ vào mục tiêu của chính sách tiền tệ trong thời kỳ và chiều hướng biến động
lãi suất trên thị trường tiền tệ. Ngân hàng Trung ương các nước thường hình thành một
cặp lãi suất tái cấp vốn tạo nên một khung lãi suất chỉ đạo nhằm kiểm soát và điều tiết sự
biến động lãi suất trên thị trường đặc biệt là mức lãi suất ngắn hạn.
+ Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị
trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng thường được ấn định hàng ngày vào một
buổi sáng (còn gọi là lãi suất hàng ngày). Nó được hình thành bởi quan hệ cung – cầu tiền
trung ương của các tổ chức tín dụng và chịu sự chi phối bởi lãi suất tái cấp vốn của Ngân
hàng Trung ương. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của nghiệp vụ thị
trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay Ngân hàng Trung ương của các tổ chức tín dụng.
Giữa lãi suất tái chiết khấu, lãi suất liên ngân hàng và lãi suất chiết khấu của ngân hàng
trung gian có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Với một thị trường tài chính phát triển, sự
thay đổi lãi suất tái chiết khấu tạo nên những phản ứng dây truyền giữa các mức lãi suất.
Kết quả cuối cùng sẽ thay đổi mặt bằng lãi suất phù hợp mục tiêu của Ngân hàng Trung
ương.
+ Lãi suất cơ bản: là lãi suất mà các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi
suất kinh doanh của mình.
Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tuỳ từng nước, nó có thể do Ngân hàng trung
ương ấn định (Nhật là mức lãi suất cho vay thấp nhất) hoặc có thể do bản thân các ngân
hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể của ngân hàng mình (Mỹ, Anh,
úc) và đó là mức lãi suất được áp dụng cho các ngân hàng có mức rủi ro thấp nhất; hoặc

căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của một số ngân hàng đứng đầu, của các ngân hàng
khác… cộng, trừ (±) biên độ dao động theo một tỷ lệ phần trăm (%) nhất định để hình
thành lãi suất cơ bản của mình (Malaysia). Một số nước lại sử dụng lãi suất liên ngân
hàng làm lãi suất cơ bản (Singapore, Pháp) vì thực chất lãi suất cơ bản của các ngân hàng
rất gần với mức lãi suất thị trường liên ngân hàng nếu không như vậy hoạt động
Arbitrage (buôn chứng khoán) về lãi suất sẽ diễn ra. Mặc dù khác nhau, lãi suất cơ bản
của hầu hết các nước đều hình thành trên cơ sở thị trường và đó là mức lãi suất tối thiểu
bù đắp được chi phí và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép. Khi áp dụng đối với
các đối tượng có mức rủi ro khác nhau, mức lãi suất kinh doanh sẽ khác nhau vì sự biến
động của mức bù rủi ro.
ở Việt Nam, Luật Ngân hàng Nhà nước 1997“ quy định
Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức
tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”
([6])
.
Hiện nay lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở tham khảo lãi suất cho vay thương
mại tốt nhất của một nhóm ngân hàng (chiếm phần lớn thị phần tín dụng) do thống đốc
Ngân hàng Nhà nước quy định.
- Lãi suất tín dụng Nhà nước áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể khác nhau
trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu. Loại lãi suất này có thể
do Nhà nước ấn định căn cứ vào lãi suất tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng, vào các yếu tố
khác như: sự biến động của lạm phát, nhu cầu cấp thiết về vốn của Nhà nước… hoặc
được hình thành thông qua hoạt động đấu thầu tín phiếu, trái phiếu của Nhà nước. ở Việt
Nam hiện nay, Ngân hàng Nhà nước được giao nhiệm vụ tổ chức đấu thầu tín phiếu Kho
bạc Nhà nước.
2.3.2. Phân loại theo giá trị thực của lãi suất (hay theo mối quan hệ giữa lạm phát và
giảm phát)
(
[2]
)

Theo giá trị thực, lãi suất được phân chia thành lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế.
- Lãi suất danh nghĩa là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời điểm
nghiên cứu hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Ví dụ: trong hợp đồng vay tiền quy định lãi suất mà bên vay phải trả cho bên cho vay là
14%/năm. Đây chính là lãi suất danh nghĩa vì đã chưa trừ đi tỷ lệ lạm phát.
- Lãi suất thực tế là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm
phát. Hay nói cách khác là lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa – tỉ lệ lạm phát
Ví dụ: Lãi suất danh nghĩa là 18%/năm; tỷ lệ lạm phát là 8%/năm
Ta sẽ có lãi suất thực tế bằng: 18% – 8% = 10%/năm
Như vậy lãi suất thực tế là 10%/năm.
Từ công thức trên ta có thể gọi:
+ i là lãi suất danh nghĩa;
+ ir là lãi suất thực tế;
+ p là tỷ lệ lạm phát.
è Có thể viết mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa, lãi suất thực tế và tỷ lệ lạm phát như
sau:
ir = i – p
Biến đổi phương trình, chúng ta có thể thấy lãi suất danh nghĩa là tổng của lãi suất thực tế
và tỷ lệ lạm phát:
i = ir + p
Phương trình trên gọi là phương trình Fisher
([7])
.
Theo phương trình, tỷ lệ lạm phát tăng 1% sẽ tiếp tục làm lãi suất danh nghĩa tăng 1%.
Tỷ lệ một – một giữa tỷ lệ lạm phát và lãi suất danh nghĩa được gọi là hiệu ứng Fisher.
Mặc dù người cho vay và người vay không thể dự đoán một cách chắc chắn lạm phát
trong tương lai, nhưng họ có một kỳ vọng nào đó về tỷ lệ lạm phát. Dùng p để biểu thị tỷ
lệ lạm phát thực hiện trong tương lai và pe biểu thị kì vọng về lạm phát trong tương lai.
Mức lãi suất thực dự kiến là i – pe, còn mức lãi suất thực được thực hiện là i – p.

Sự phân biệt giữa lạm phát thực tế và dự kiến cho thấy lãi suất danh nghĩa không thể điều
chỉnh để thích ứng với lạm phát thực tế mà chỉ có thể điều chỉnh để thích ứng với lạm
phát dự kiến. Hiệu ứng Fisher có thể biểu diễn chính xác hơn dưới dạng:
i = ir + pe
Lãi suất thực dự kiến ir bị quy định bởi trạng thái cân bằng trên thị trường hàng hoá và
dịch vụ. Lãi suất danh nghĩa i thay đổi theo tỷ lệ một – một với những thay đổi trong tỷ lệ
lạm phát dự kiến pe.
Vì được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về mức giá nên lãi suất thực phản
ánh chính xác hơn thu nhập từ việc cho vay cũng như chi phí thật của việc vay tiền và do
vậy sự phân biệt hai loại lãi suất này có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ thể tham gia
trên thị trường tín dụng.
2.3.3. Phân loại theo bản chất hợp đồng tài chính
(
[8]
)
Trả lãi theo mức độ cố định hay thả nổi là bản chất của hợp đồng tài chính. Cách phân
loại theo tiêu thức này chia lãi suất thành hai loại là lãi suất cố định và lãi suất thả nổi.
Lãi suất cố định được giữ cố định trong suốt thời hạn vay. Còn lãi suất thả nổi có thể thay
đổi theo chỉ số lạm phát.
Lãi suất cố định có ưu điểm: người gửi tiền và người vay tiền biết trước số tiền lãi được
trả và phải trả. Nhưng cũng có những nhược điểm: bị ràng buộc vào một lãi suất nhất
định trong thời gian nào đó, dù cho các loại lãi suất khác thay đổi như thế nào. Nó thường
được áp dụng trong trường hợp lãi suất thị trường tương đối ổn định.
Lãi suất thả nổi có lợi cho cả hai bên nếu khi nhận và trả tiền đều tính theo cùng mức lãi
suất chung là lãi suất hiện tại thường áp dụng trong các thời kỳ lãi suất thị trường biến
động nhiều, khó dự đoán chính xác chiều hướng cũng như mức độ biến động lãi suất.
2.3.4. Phân loại theo cách đo lường lãi suất
(
[9]
)

Theo cách đo lường lãi suất, lãi suất được chia thành: lãi suất đơn, lãi suất kép và lãi suất
hoàn vốn.
- Lãi suất đơn là lãi suất tính một lần trên số vốn gốc cho suốt thời kỳ hạn vay. Loại lãi
suất này thường được áp dụng cho các khoản tín dụng ngắn hạn và việc trả nợ một lần
khi đến hạn.
Ta có thể tính lãi suất đơn theo công thức như sau:
Số tiền lãi = vốn gốc x lãi suất x số thời kỳ gửi vốn
(Số thời kỳ gửi vốn phải tương đương với thời kỳ của lãi suất)
Ví dụ: Khoản cho vay 1.000.000 đồng (1 triệu đồng); lãi suất 15%/năm; thời hạn vay 90
ngày, 1 năm = 360 ngày. Khoản tiền lãi thu được như sau:
1. 000. 000 x 15% x 90/360 ngày = 37.500 đồng
- Lãi suất kép: là mức lãi suất có tính đến giá trị đầu tư lại của lợi tức thu được trong thời
hạn sử dụng tiền vay. Nó thường áp dụng cho các khoản đầu tư có nhiều kỳ hạn thanh
toán trong đó lãi của kỳ trước được nhập vào vốn gốc để tính lãi cho kỳ sau.
- Lãi suất hiệu quả tương tự như lãi suất kép nhưng tính cho 1 năm.
- Lãi suất hoàn vốn là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của đồng tiền (hay các khoản
thu nhập) nhận được trong tương lai từ một khoản đầu tư với giá trị hôm nay (hiện tại)
của khoản đầu tư đó. Lãi suất hoàn vốn là phép đo chính xác nhất. Nó cho phép so sánh
tỷ lệ sinh lời của các khoản đầu tư khác nhau về thời hạn về cách thức trả nợ.
2.3.5. Phân loại theo thời hạn vay
Theo thời hạn vay lãi suất có thể được phân loại thành lãi suất đúng hạn và lãi suất quá
hạn.
Lãi suất đúng hạn là tỷ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay tính trên số tiền
đã vay tương ứng với thời hạn mà các bên đã thoả thuận.
Lãi suất quá hạn là tỉ lệ phần trăm tính trên nợ gốc mà bên vay phải trả cho bên cho vay
tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất quá hạn thường cao hơn lãi suất đúng hạn do
được áp dụng đối với người vay vi phạm nghĩa vụ về thời hạn. Sau thời hạn mà bên vay
không trả hoặc trả không hết số tiền vay thì bên cho vay có quyền tính lãi dựa trên lãi
suất quá hạn theo đúng như thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Cũng cần nên chú ý việc trả lãi trước hoặc sau thời hạn vẫn có thể coi là đúng hạn. Ví dụ:

đến hạn trả lãi nhưng do sự kiện bất ngờ hay sự kiện bất khả kháng mà bên vay không thể
thực hiện nghĩa vụ trả lãi của mình hoặc được bên cho vay chấp nhận không phải trả lãi
quá hạn khi qua thời hạn vay…
2.4. Những chính sách về lãi suất ở nước ta từ đầu thập kỷ 90 đến nay
Từ đầu thập kỷ 90, chính sách lãi suất đã dần thay đổi để từng bước thích ứng với cơ chế
lãi suất thị trường đồng thời tăng cường hiệu lực của cơ chế giá trong việc thực hiện
chích sách tiền tệ.
2.4.1. Giai đoạn trước tháng 6 năm 1992
(
[10]
)
Nhà nước can thiệp ở mức độ cao và trực tiếp vào lãi suất thông qua ấn định các mức lãi
suất tiền gửi và lãi suất tiền vay. Cơ chế lãi suất âm và mang nặng tính chất bao cấp được
duy trì suốt thời kỳ này với mức cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước thấp hơn đối
với doanh nghiệp ngoài quốc doanh; Lãi suất danh nghĩa nhỏ hơn (<) tỉ lệ lạm phát. Lãi
suất cho vay ngắn hạn lớn hơn lãi suất cho vay dài hạn; Lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao
hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất tiền gửi các tổ chức kinh tế. Tình trạng này
làm cho lãi suất không thực hiện được chức năng vốn có của nó.
2.4.2. Giai đoạn từ tháng 6 năm 1992 đến năm 1995
(
[11]
)
Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều bước điều chỉnh trong điều hành chính sách lãi suất:
chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương để đảm bảo cho bên
cho vay và bên vay đều có lợi, xoá bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các
thành phần kinh tế; thay vì ấn định lãi suất cụ thể bằng quản lý lãi suất theo một khung,
bao gồm lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay. Những thay đổi về lãi
suất đã được cải cách linh hoạt hơn với cơ chế thị trường. Tuy nhiên, cơ chế này vẫn
khống chế trực tiếp lãi suất, điều này làm giảm tác dụng kích thích và điều tiết hoạt động
kinh doanh của các ngân hàng.

2.4.3. Giai đoạn từ năm 1996 đến tháng 7 năm 2000
(
[12]
)
Ngân hàng Nhà nước trực tiếp ấn định mức lãi suất tái cấp vốn và có những đổi mới căn
bản về điều hành lãi suất. Thay vì quy định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi – lãi suất
tối đa tiền vay, Ngân hàng Nhà nước chỉ quy định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn
cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình
quân là 0,35%/tháng (4,2%/năm) để khắc phục tình trạng hầu hết các ngân hàng thương
mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính
(khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn trước). Đến cuối tháng 1 năm 1998,
Ngân hàng Nhà nước xoá bỏ chênh lệch lãi suất chỉ còn quy định trần lãi suất cho vay.
Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, Ngân hàng Nhà nước liên tục điều chỉnh trần lãi
suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế đặc biệt trong hai năm 1998,
1999. Trong năm 1997, Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi hình thức tái cấp vốn chuyển
sang quy định mức lãi suất cụ thể. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm
xuống trong thời gian này (từ 1,1% năm 1997 xuống 0,7%/ tháng từ 4/9/1999) để phù
hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu vốn trên thị trường và thực hiện giải pháp kích
cầu về đầu tư của Chính Phủ. Để bổ sung thêm công cụ điều hành lãi suất, tháng 11/1999
Ngân hàng Nhà nước đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái triết khấu giấy tờ có giá
cho các ngân hàng thương mại. Tháng 7 năm 2000 Ngân hàng Nhà nước đưa vào sử dụng
nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất thị trường mở được hình thành qua các phiên giao dịch.
Việc điều chỉnh lãi suất như trên nhằm tiến tới việc duy trì một trần lãi suất cho vay, tạo
điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hoá lãi suất, mặt khác nhằm
mục đích kích cầu thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng. Tuy nhiên ảnh hưởng của lãi suất đối với
tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam rất hạn chế. Có hai lý do: trước hết việc giảm phát
trong thời gian từ 1996 đến nay xuất phát từ sự suy giảm các yếu tố sản xuất liên quan
đến tổng cung nhiều hơn tổng cầu vì thế các chính sách vĩ mô tác động vào tổng cầu sẽ
chỉ đem lại hiệu quả hạn chế; thứ hai, sự điều chỉnh lãi suất thường chậm so với thị
trường, nên mất đi lợi thế bất ngờ của sự thay đổi lãi suất. Hơn nữa việc sử dụng các công

cụ gián tiếp khác chưa thực sự có hiệu quả; việc điều hành trần lãi suất vẫn là một biện
pháp can thiệp hành chính của Nhà nước do vậy đã hạn chế tính chủ động linh hoạt trong
kinh doanh của các tổ chức tín dụng, hạn chế việc hình thành và phát triển của các công
cụ tài chính, có nguy cơ làm suy giảm năng lực tài chính của tổ chức tín dụng.
2.4.4. Giai đoạn từ tháng 8 năm 2000 đến tháng 05 năm 2002
(
[13]
)
Đây là giai đoạn sử dụng lãi suất cơ bản với lãi suất tái triết khấu, lãi suất tái cấp vốn
trong điều hành chính sách tiền tệ. Theo cơ chế lãi suất cơ bản, Ngân hàng Nhà nước
hàng tháng sẽ công bố lãi suất cơ bản (lãi suất cơ bản được hình thành căn cứ vào mức
lãi suất cho vay thương mại tốt nhất của một nhóm các tổ chức tín dụng chiếm phần lớn
thị phần tín dụng). Chính sách lãi suất thời kỳ này đã tiến gần đến các nguyên tắc lãi suất
thị trường hơn. Tuy nhiên việc khống chế dao động của lãi suất cơ bản làm hạn chế phần
nào tính thị trường của lãi suất và làm cho cơ chế này về bản chất vẫn là cơ chế điều hành
trần lãi suất. Mặc dù vậy, việc sử dụng lãi suất cơ bản làm lãi suất tham chiếu khi cấp tín
dụng các tổ chức tín dụng là bước chuẩn bị cho tự do hoá lãi suất hoàn toàn sau này.
2.4.5. Giai đoạn từ tháng 6 năm 2002 đến cuối năm 2008 (đến khủng hoảng kinh tế tài
chính toàn cầu cuối năm 2008)
Ngân hàng Nhà nước có những thay đổi mang tính bước ngoặt trong điều hành lãi suất.
Cơ chế lãi suất thoả thuận từ ngày 01/6/2002 đã xoá bỏ biên độ khống chế lãi suất cho
vay, cho phép các tổ chức tín dụng được tự do thoả thuận lãi suất cho vay bằng đồng Việt
Nam dựa theo quan hệ cung – cầu vốn và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng. Sang
những tháng đầu năm 2003, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều chỉnh cơ chế điều hành lãi
suất mà theo đó lãi suất tái cấp vốn đóng vai trò lãi suất trần, lãi suất tái chiết khấu là lãi
suất sàn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở đóng vai trò là công
cụ điều hành thường xuyên của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài hình thức tái cấp vốn thông
thường, Ngân hàng Nhà nước qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và thanh
toán bù trừ. Ngân hàng Nhà nước còn áp dụng lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng
tại Ngân hàng Nhà nước làm phương tiện thường xuyên điều tiết lãi suất liên ngân hàng;

tiếp tục công bố lãi suất cơ bản nhằm mục đích định hướng lãi suất thị trường.
Cơ chế lãi suất mới nhằm đảm bảo tính thị trường của lãi suất và tạo điều kiện khai thác
triệt để sức mạnh của cơ chế thị trường trong các hoạt động điều tiết kinh tế vĩ mô và
kinh tế vi mô. Các tổ chức tín dụng đã chủ động linh hoạt hơn trong quyết định đưa ra lãi
suất kinh doanh của mình. Các nguồn lực đã được khai thác nhiều hơn cho sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên hiệu quả của chính sách vẫn còn hạn chế do các yếu tố nền tảng của cơ
chế này đang trong quá trình hoàn thiện.
2.4.6. Giai đoạn từ khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu cuối năm 2008 đến nay
Sự biến đổi của nền kinh tế mà đặc biệt là khủng hoảng kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp tới
lãi suất và ngược lại lãi suất sẽ giúp nền kinh tế sau khủng hoảng khắc phục được những
hậu quả của suy thoái, chống suy giảm kinh tế và kiềm chế lạm phát. Đó là lí do vì sao
không chỉ Việt Nam mà cả thế giới đã có những chính sách thay đổi lãi suất để phù hợp
với tình hình hiện tại. Trong thời gian này lạm phát đang lan tràn khắp nơi trên thế giới
và làm rung chuyển một số thị trường tài chính. Chính phủ Trung Quốc đã công bố các
biện pháp hút bớt tiền ra khỏi hệ thống tài chính để kiềm chế lạm phát. Tại Mỹ các nhà
đầu tư bán thống bán tháo trái phiếu kho bạc khi được cục dự trữ liên bang Mỹ thông báo
về nguy cơ lạm phát có thể tăng cao. Và như vậy phương thức điển hình để chống lạm
phát là tăng lãi suất đã được áp dụng ở hầu hết các quốc gia. Tuy nhiên, biện pháp này có
xu hướng gây tác hại cho tăng trưởng kinh tế và ảnh hưởng đến giá cổ phiếu. Nó cũng
gây phức tạp đối với nỗ lực của một số nền kinh tế đang phát triển trong việc duy trì sự
ổn định của đồng nội tệ, bởi các nền kinh tế này đều dựa vào xuất khẩu. Đối với Việt
Nam tỷ lệ lạm phát nhìn chung thấp hơn so với các quốc gia khác, có những thời điểm
trong thời gian này chúng ta cũng tăng lãi suất nhưng Nhà nước cũng có những chính
sách nhằm hỗ trợ lãi suất và Chính Phủ đưa ra các gói giải pháp nhằm kích cầu kinh tế.
Cụ thể gần đây nhất trong quyết định số 497/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ ngày
17/4/2009 quy định mức tiền cho vay tối đa bằng 100% giá trị hàng hóa đối với các sản
phẩm máy móc, thiết bị cơ khí, phương tiện phục vụ sản xuất, chế biến nông nghiệp và
máy vi tính (riêng máy vi tính, mức tiền cho vay tối đa không quá 05 triệu đồng/chiếc)
được hỗ trợ 100% lãi suất vay; đối với các sản phẩm vật tư nông nghiệp mức tiền cho vay
tối đa là 100% giá trị hàng hóa nhưng không vượt quá 07 triệu đồng/ha; vật liệu xây dựng

các loại để làm nhà ở được vay ở mức tiền tối đa bằng 100% giá trị hàng hóa nhưng
không vượt quá 50 triệu đồng, hai hạng mục này được hỗ trợ 4% lãi suất vay. Theo đó,
các khoản vay từ ngày 01 tháng 05 năm 2009 đến ngày 31 tháng 12 năm 2009 sẽ có thời
gian hỗ trợ lãi suất tối đa 24 tháng đối với các sản phẩm máy móc, thiết bị cơ khí, phương
tiện phục vụ sản xuất, chế biến nông nghiệp và máy vi tính, hỗ trợ lãi suất tối đa 12 tháng
đối với các sản phẩm vật tư nông nghiệp và vật liệu xây dựng các loại để làm nhà ở. Điều
kiện được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất là sản phẩm được sản xuất trong nước và phải
được đăng ký, niêm yết giá bán và có nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật. Đồng

×