Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

TIỂU LUẬN NĂNG LỰC THÔNG TIN DÂN CHỦ MỸ TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.56 KB, 37 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
~~~~~~*~~~~~~

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
ĐỀ TÀI: DÂN CHỦ MỸ TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN
THỰC TIỄN


MỤC LỤC

Trang
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN CHỦ....................................................... 8
1.1. Khái niệm dân chủ......................................................................................... 8
1.2. Đặc trưng của dân chủ.................................................................................... 10
1.3. Khái quát lịch sử phát triển và sự ảnh hưởng của dân chủ trên thế giới.........12
Tiểu kết chương 1........................................................................................................... 17
CHƯƠNG 2: DÂN CHỦ MỸ TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN THỰC TIỄN........................19
2.1. Quan niệm về dân chủ Mỹ........................................................................................ 19
2.1.1. Học thuyết dân chủ của Jefferson.................................................................19
2.1.2. Học thuyết dân chủ của Lincoln...................................................................21

2.2. Hành xử mang giá trị dân chủ Mỹ............................................................................. 23
2.2.1. Chính sách mở rộng dân chủ dưới chính quyền G.Bush.............................23
2.2.2. Chính sách thúc đẩy dân chủ dưới chính quyền Obama..............................24

Tiểu kết chương 2........................................................................................................... 29
KẾT LUẬN.................................................................................................................... 30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................31



LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân chủ không chỉ được coi là giá trị cơ bản trong hệ giá trị niềm tin của người
Mỹ; mà từ sớm, vấn đề này đã được coi là một công cụ giá trị điển hình để hướng các
chương trình hành động của quốc gia này đến thực hiện sứ mệnh đặc biệt; là trở thành
hình mẫu dân chủ, lan rộng vai trị ảnh hưởng ra toàn thế giới. Đáng chú ý từ thế kỷ
XX đến nay, kết hợp nhiều đối sách khác nhau, trong đó đẩy mạnh việc phơ trương
sức mạnh kinh tế và quân sự, nước Mỹ đã khéo léo sử dụng những giá trị thuộc về bản
sắc tích cực của họ như: tự do, dân chủ và nhân quyền,… để đặt trong cơng cuộc xây
dựng hình ảnh quốc gia, nâng cao sức mạnh và lan tỏa những giá trị tư tưởng của Mỹ
trên toàn thế giới.
Nhưng, nhận thức và hành xử đối ngoại theo giá trị dân chủ của chính quyền
Mỹ không phải luôn luôn nhất quán, trong rất nhiều trường hợp, đơi khi nó bị chi phối
bởi các lợi ích kinh tế, chính trị, quân sự thực dụng mới là ưu tiên trong các chính sách
và hành xử đối ngoại của Mỹ chứ không phải là bản thân giá trị dân chủ hay nhân
quyền. Qua đó, có thể thấy được sự chuyển mình mạnh mẽ của nước Mỹ từ một cường
quốc mới nổi và dần xác định vị trí siêu cường số một thế giới hiện nay. Tuy nhiên,
quan niệm về giá trị dân chủ Mỹ lại không đồng nhất đối với cách hành xử mà chính
quyền Washington thực hiện.
Chính vì vậy, tơi quyết định lựa chọn đề tài “Dân chủ Mỹ từ lý thuyết đến thực
tiễn” góp phần làm rõ hơn các vấn đề cơ bản nhất về nội hàm của dân chủ, qua đó giải
thích sự hiện diện của nó trong các vấn đề chính trị quốc tế hiện nay.
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1.

Nghiên cứu trong nước

Thứ nhất là những cơng trình nghiên cứu về lý thuyết dân chủ, tiêu biểu là:
Nguyễn Hữu Khiển (1998), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của hình thức dân chủ

trực tiếp”, Tạp chí Thơng tin Lý luận. Thái Ninh, Hồng Chí Bảo (1991), “Dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa”, NXB Sự thật, Hà Nội. Nguyễn Tiến Phồn (2001),
“Dân chủ và tập trung dân chủ: Lý luận và thực tiễn”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Đỗ Nguyên Phương, Trần Ngọc Đường (1992), “Xây dựng nền dân chủ xã | hội chủ
1


nghĩa và nhà nước pháp quyền”, NXB Sự thật, Hà Nội. Phạm Thành (1991),
“Tư

2


tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh”, NXB Sự thật, Hà Nội. Trần Thành (2015), “Vấn đề
dân chủ và dân chủ hóa đời sống xã hội - lịch sử và hiện đại”, NXB Lý luận chính trị,
Hà Nội. Đỗ Trung Hiếu (2004), “Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam
hiện nay”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Quang Nhiếp (2006), “Dân chủ với
phát triển cộng đồng”, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. Ngô Thị Phượng (2015),
“Thực hành dân chủ trong Đảng hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam.
Thứ hai, là các cơng trình nghiên cứu về mơ hình dân chủ điển hình trên thế
giới, đáng chú ý là: Trần Quốc Hùng (2006), “Dân chủ và phát triển: Kinh nghiệm Ấn
Độ và Trung Quốc”, Tạp chí Thời đại mới. Đặng Đình Lựu (2008), “Phát triển chế độ
chính trị dân chủ và dân chủ trong Đảng Cộng sản Trung Quốc”, Tạp chí Xây dựng
Đảng, tr 57 – 60. Mạch Quang Thắng (1999), “Bảo đảm và phát huy dân chủ trong
chế độ một Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay”, Đề tài cấp bộ, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tống Đức Thảo, Bùi Việt Hương (2011), “Trào lưu
xã hội dân chủ ở một số nước phương Tây hiện đại”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Thơng tấn xã Việt Nam (2006), “Đảng Cộng sản Trung Quốc với vấn đề cải cách dân
chủ”, Thông tấn xã Việt Nam.
Thứ ba, là các cơng trình nghiên cứu về ảnh hưởng của giá trị dân chủ, tiêu biểu

là: Thái Thượng Kim (2015), “Đảng cộng sản các nước trên thế giới tận dụng như thế
nào sự tham dự dân chủ để thắt chặt quan hệ giữa đảng với quần chúng”, Thông tin
những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Nhị Lê, Lê Khả Thọ (2005), “Một Đảng lãnh đạo và thực thi dân chủ”, Tạp chí Cộng
sản. Đỗ Mười (1998), “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa xây dựng Nhà nước của
dân, do dân, vì dân trong sạch vững mạnh”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm
Thành Nam, Đỗ Ngọc Thanh (2005), “Phát huy dân chủ trong đấu tranh chống tham
nhũng ở nước ta hiện nay”, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội. Vũ Văn Hiền (2004),
“Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm của Thụy Điển và Trung Quốc”, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.

2.2.

Nghiên cứu ngồi nước


Thứ nhất, là các nhóm cơng trình nghiên cứu về lý thuyết dân chủ, tiêu biểu là:
BOURKE, R. (2019), “Democracy as ideal And Democracy as struggle.
Modern


Intellectual History”, tr. 613 – 619. DE DIJN, A. (2019), “The ethos of democracy.
Modern Intellectual History”, tr.607 – 612. Isaac, J. (2011), “Analyzing Democracy.
Perspectives on Politics”, tr. 241 – 245. RODGERS, D. (2019), “The commitments of
democracy. Modern Intellectual History”, tr. 593 – 598. Lintott, A. (1992), “Aristotle
and Democracy. The Classical Quarterly”, tr. 114 – 128. kloppenberg, J. (2019), “The
receding horizon of democracy. Modern Intellectual History”, tr. 621 – 632.
Thompson, M. (2015), “Democracy with Asian Characteristics. The Journal of Asian
Studies”, tr. 875 – 887. Przeworski, A. Alvarez, M. Cheibub, J. & Limongi, F. (2000),
“Democracy and Development: Political Institutions and Well – Being in the World,

1950 – 1990 (Cambridge Studies in the Theory of Democracy) Cambridge”,
Cambridge University Press. Wenman, M. (2013), “Agonistic Democracy: Constituent
Power in the Era of Globalisation. Cambridge”, Cambridge University Press.
Schofield, N., & Sened, I. (2006), “Elections and Democracy. In Multiparty
Democracy: Elections and Legislative Politics (Political Economy of Institutions and
Decisions, pp. 11 – 36). Cambridge”, Cambridge University Press. Delos, J. (1943).
“The Idea of Democracy. The Review of Politics”, tr. 38 – 54.
Thứ hai là các cơng trình nghiên cứu về mơ hình dân chủ điển hình trên thế giới,
đáng chú ý là: Isaac, J. (2014), “Rethinking American Democracy? Perspectives on
Politics”, tr. 557 – 562. Young, J. (1973), “Changing Images of American Democracy
and the Scottish Labour Movement. International Review of Social History”, tr. 69 –
89. Clarke S. (2014), “Through Another Lens: American Democracy Viewed through
Race/Ethnicity and Subnational Institutions. PS: Political Science & Politics”, tr. 905
– 910. Barber, B. (1988), “Participation and Swiss Democracy. Government and
Opposition”, 31 – 50. PERUZZOTTI, E. (2001), “The Nature of the New Argentine
Democracy. The Delegative Democracy Argument Revisited. Journal of Latin
American Studies”, tr. 133 – 155. Pangle, T., & Burns, T. (2014), “Tocqueville’s
Democracy in America. In The Key Texts of Political Philosophy: An Introduction (pp.
381 – 396) Cambridge”, Cambridge University Press.
Thứ ba là nhóm cơng trình nghiên cứu về ảnh hưởng của giá trị dân chủ, tiêu
biểu là: Lee, F., & McCarty, N. (2019), “The Anxieties of American Democracy. In F.
Lee & N. McCarty (Eds.), Can America Govern Itself?” (SSRC Anxieties of


Democracy, pp. 1 – 12). King, G., & Palmquist, B. (1997), “The Record of American
Democracy, 1984 – 1990. PS: Political Science & Politics”, tr. 746 – 747. Appleton, S.
(1995), “Teaching About American Democracy Through Historical Cases. PS:
Political Science & Politics”, tr. 730 – 733. Norris, P. (2008), “Driving Democracy:
Do Power-Sharing Institutions Work? Cambridge”, Cambridge University Press.
Hobson, C. (2015), “The Rise of Democracy: Revolution, War and Transformations in

International Politics since 1776”, Edinburgh University Press. Hamilton, G. (1998),
“Civic Wars: Democracy and Public Life in the American City during the Nineteenth
Century. By Mary P. Ryan. Berkeley: University of California Press”, 1997. The
Journal of Economic History, tr. 913 – 914. Isaac, J. (2014), “Rethinking American
Democracy? Perspectives on Politics”, tr. 557 – 562. Clarke S. (2014), “Through
Another Lens: American Democracy Viewed through Race/Ethnicity and Subnational
Institutions. PS: Political Science & Politics”, tr. 905 – 910.
2.3.

Một vài nhận xét

Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu với quy mô và phạm vi nghiên cứu khác
nhau cho thấy mức độ quan tâm của các học giả và nhà nghiên cứu về dân chủ trên thế
giới hiện nay là rất lớn. Các tác giả hầu hết khai thác vấn đề về dân chủ với một số
điểm chính sau:
Một là, sự mở rộng ảnh hưởng của dân chủ với các biểu hiện cụ thể trong chính
trị thế giới hiện nay là vấn đề nóng, thu hút sự quan tâm.
Hai là, các hành xử mang giá trị dân chủ có sự biến đổi, tùy thuộc vào bối cảnh
kinh tế, chính trị và xã hội mang đặc trưng riêng của từng quốc gia.
Kế thừa kết quả của các nghiên cứu đã kể trên, đề tài này tập trung làm rõ lý
thuyết chung về dân chủ, cụ thể là dân chủ ở Mỹ hiện nay và quá trình thực hiện
những giá trị dân chủ đó trên thế giới hiện nay.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về dân chủ Mỹ từ lý thuyết đến thực tiễn, đề tài
nhằm làm rõ giá trị dân chủ Mỹ từ lý thuyết đến thực tiễn.



3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu của công trình nghiên cứu, đề tài hướng tới giải quyết
các nhiệm vụ sau:
Làm rõ được cơ sở lý luận chung về giá trị dân chủ.
Phân tích thực chất quan niệm và hành động của Mỹ đối với các giá trị dân chủ.
Đưa ra một số đánh giá ,nhận xét về dân chủ; về quan niệm và hành xử của Mỹ
đối với giá trị dân chủ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Lý luận về dân chủ, giá trị dân chủ Mỹ, hành động của chính quyền Mỹ dựa
trên dân chủ, quan điểm của thế giới và Việt Nam về dân chủ Mỹ.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Giá trị dân chủ Mỹ từ lý thuyết đến thực tiễn, xuyên suốt lịch sử từ thời kỳ lập
quốc và thông qua một số hành động dưới sự cầm quyền của một số Tổng thống Mỹ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.

Cơ sở lý luận


Đề tài lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở lý luận chính, bên cạnh đó sử dụng
một số lý thuyết lớn trong nghiên cứu chính trị quốc tế, tiêu biểu như: chủ nghĩa dân
tộc và chủ nghĩa tự do nhằm bổ trợ cho cơ sở lý luận chính của đề tài.
5.2.

Phương pháp nghiên cứu

Vì đối tượng nghiên cứu của đề tài là một vấn đề chính trị mang tính lịch sử,
nên phương pháp nghiên cứu trong khoa học chính trị và sử dụng các phương pháp
nghiên cứu liên ngành khác, đặc biệt là phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Các phương pháp khác như: so sánh, cấu trúc, mô tả, hệ thống,… được sử dụng
ở các mức độ khác nhau nhằm hỗ trợ cho các phương pháp chủ đạo nêu trên.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài được thưc hiện nhằm cung cấp những tri thức khách quan về đặc trưng
của giá trị dân chủ Mỹ, những hành xử từ chính quyền Washington đối với vấn đề dân


chủ trên thế giới. Đây là cơ sở tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các học giả
và đặc biệt là những đọc giả quan tâm, chú ý đến nước Mỹ.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận ,danh mục viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo,
đề tài có kết cấu gồm 2 chương cụ thể là:
Chương 1: Lý luận chung về dân chủ
Chương 1 trình bày khái quát một số vấn đề cơ bản về dân chủ Mỹ, cụ thể là:
khái niệm, đặc trưng của dân chủ, đồng thời cung cấp cái nhìn khái quát về lịch sử
phát triển của dân chủ trên thế giới hiện nay. Từ đó tạo thành cơ sở lý luận chính của
đề tài nhằm giải thích và luận giải vấn đề.
Chương 2 : Dân chủ Mỹ từ lý thuyết đến thực tiễn
Chương này trình bày những nội dung cơ bản liên quan đến các học thuyết , tư tưởng
về dân chủ ở Mỹ, tiêu biểu như: của Jefferson và Lincoln. Chương 2 luận giải và làm

rõ các sự mở rộng của dân chủ Mỹ, biểu hiện ở các hành động cụ thể, đơn cử như là:
Chính sách mở rộng dân chủ của chính quyền G.Bush và chính sách thúc đẩy dân
chủ dưới chính quyền Obama.


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN CHỦ

1.1.

Khái niệm dân chủ

Dân chủ xuất hiện từ sớm trên vũ đài chính trị với các hệ giá trị và tư tưởng
khác. Song dân chủ chỉ thực sự phát triển trong xã hội mà người dân có trình độ chính
trị và hiểu biết pháp luật cao. Ở đó dân chủ với tư cách là cơ sở để người dân thực hiện
quyền làm chủ của mình. Tuy nhiên, cho đến hiện tại, các vấn đề cơ bản thuộc nội hàm
dân chủ vẫn còn vấp phải nhiều tranh cãi trong giới khoa học chính trị. Dân chủ với
tính cách là phạm trù khoa học, một thuật ngữ chính trị xuất hiện và hình thành từ
trong quan hệ đấu tranh với áp bức, bóc lột, chống lại hiện tượng độc tài, chuyên chế.
Ra đời từ rất sớm, dân chủ gắn liền với quá trình phát triển của con người, vì vậy
khơng chỉ mang tính lịch sử sâu sắc,dân chủ cịn có tính xã hội rõ nét, trở thành thước
đo quan trọng khi đánh giá sự tiến bộ của một xã hội. Trước hết, cần làm rõ khái niệm
dân chủ.
Dân chủ theo nguyên nghĩa từ tiếng Hy lạp cổ đại do hai từ hợp thành: demos –
nhân dân và krapos – quyền lực dùng để chỉ “quyền lực thuộc về nhân dân”. Đây được
xem là “khái niệm căn bản” khi đã phản ánh được nội dung cốt lõi về dân chủ, thuật
ngữ” Demokrapos” đã trở thành tiền đề xuất phát chung đối với các nhà nghiên cứu,
nhà lý luận sau này.
Nhận biết được ý nghĩa trên, nhà lý luận kinh điển C. Mác đã kế thừa và làm rõ
hơn về nội hàm khái niệm dân chủ. Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Goota, C.
Mác chỉ rõ: “dân chủ” nếu chuyển sang tiếng Đức có nghĩa “nhân dân làm chủ””1.

Điều này cho thấy trong một nền dân chủ, nhân dân chính là chủ thể của nhà nước,
chính người dân xây dựng nên nhà nước và nhà nước đó phải hồn tồn thuộc về
người dân. Xét ở góc độ khác, C. Mác cho rằng dân chủ chính là các quyền lợi của
nhân dân, ông nhận định rằng nhân dân cần nắm trong tay quyền lực nhà nước, quyền
làm chủ xã hội và bộ máy chính quyền hoạt động phải vì nhân dân, vì sự phát triển của
xã hội .Từ quan điểm của C. Mác, có thể thấy dân chủ chính là việc người dân được sở

1

C. Mác, Ph.Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


hữu quyền lực nhà nước, được hưởng quyền lợi chính đáng, đảm bảo lợi ích cơ bản
của người dân.
Theo từ điển Oxford Dictionary định nghĩa về dân chủ là: “Một hệ thống Chính
phủ trong đó người dân của một quốc gia có thể bỏ phiếu để bầu ra đại diện của họ” 2.
Theo định nghĩa trên, có thể hiểu dân chủ chính là người dân có quyền được bầu cử,
được phép lựa chọn bầu ra những đại biểu, những đại diện ưu tú do chính họ lựa chọn.
Những đại biểu này đại diện cho quyền lợi, lợi ích của người dân. Định nghĩa trên
cũng nhấn mạnh tới vai trò của “hệ thống Chính phủ” trong việc đảm bảo tính dân chủ,
hệ thống Chính phủ này đảm bảo quyền bầu của người dân được thực hiện, được diễn
ra một cách tốt nhất.
Theo định nghĩa trên từ điển Cambrigde, dân chủ được hiểu là: “niềm tin vào sự
tự do và bình đẳng giữa mọi người, hoặc một hệ thống chính quyền dựa trên niềm tin
này, trong đó quyền lực được nắm giữ bởi các đại diện dân cử hoặc trực tiếp bởi chính
người dân”3. Đối với các thể chế dân chủ nhất định, người dân trong đó với tư cách là
cử tri có quyền tham gia vào các tiến trình chính trị của quốc gia, chủ yếu là thơng qua
hình thức dân chủ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người đại diện mà đa phần họ ủng
hộ.
Theo nhà khoa học chính trị người Mỹ Larry Diamond đưa ra định nghĩa “Dân

chủ bao gồm bốn yếu tố chính: một hệ thống chính trị để lựa chọn và thay thế Chính
phủ thơng qua các cuộc bầu cử tự do và công bằng ; sự tham gia tích cực của người
dân, với tư cách là cơng dân, vào chính trị và đời sống cơng dân; bảo vệ các quyền con
người của mọi công dân; và một nhà nước pháp quyền , trong đó các luật và thủ tục áp
dụng bình đẳng cho mọi cơng dân”4.
Dân chủ theo từ điển Hán Việt được định nghĩa như sau: “đó là thể chế chính trị
mà trong đó chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân cả nước, nhân dân có quyền bầu
lên những người đại biểu trong chính quyền, chính quyền lấy ý dân làm chuẩn tắc.
Hợp với ngun tắc dân chủ, khơng chủ quan độc đốn”5. Đây được xem là mơ hình
2

Oxford Dictionary, “Democracy”.
Cambrigde Dictionary, “Democracy”.
4
Diamond, L., Bài giảng tại Đại học Hilla về Nghiên cứu Nhân văn ngày 21 tháng 1 năm 2004: “Dân chủ là gì”.
Diamond, L. và Morlino, L., Phẩm chất của nền dân chủ (2016).
5
Từ điển Hán Việt, Xem thêm tại: />3


phổ biến của các quốc gia trên thế giới hiện nay. Các quốc gia đẩy mạnh xây dựng và
phát triển dân chủ trong mọi mặt của đời sống, đặc biệt là trong đời sống chính trị. Có
hai hình thức chủ yếu để thực hành dân chủ và người dân sẽ sử dụng nó để thực hiện
quyền làm chủ của mình.
Một nhà nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa: “Dân chủ là một hình thức tổ chức
nhà nước mà trong đó, quyền lực thuộc về nhân dân, phục vụ nhân dân và vì quyền lợi
của nhân dân”6. Tiếp cận dựa trên góc độ văn hóa chính trị Việt Nam, Nhà nước với
các quyền lực cơ bản của mình hướng các lợi ích đến phục vụ đời sống của nhân dân,
cụ thể là Nhà của dân, do dân và vì dân là biểu hiện cho sự tiếp thu các giá trị dân chủ
vào tình hình Việt Nam.

Nhìn chung, các khái niệm nghiên cứu “dân chủ” với tư cách là phương thức
chính trị mà thơng qua đó, người dân với tư cách là cử tri có thể tham gia vào các cơng
việc chung của cộng đồng, của xã hội, quyết định vận mệnh và tương lai chính trị của
quốc gia. Tuy nhiên, cũng nghiên cứu dân chủ với tư cách là căn cứ quan trọng để
người dân đảm bảo các lợi ích cơ bản và những quyền lợi chính đáng của mình. Vậy
hiểu như thế nào về dân chủ? Chế độ dân chủ là chế độ chính trị, trong đó, tồn bộ
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua
đại diện do nhân dân bầu ra.
1.2.

Đặc trưng của dân chủ

Dân chủ có nghĩa là một hệ thống Chính phủ được thành lập và mang tính
chính danh thơng qua bầu cử. Tuy nhiên, khơng phải ai cũng được ứng cử trong các
cuộc bầu cử; chỉ có những người tham gia mới được lựa chọn để ứng cử. Thêm vào đó,
khơng phải ai cũng được đi bầu. Hầu hết các nước dân chủ chỉ cho phép những người
dân đủ tuổi (thường là 18)7 bầu. Một số quốc gia không cho một số người khác bầu
(chẳng hạn như người phạm tội)8. Chính điều này minh chứng cho việc dân chủ cũng
có những đặc trưng riêng tùy thuộc vào các điều kiện chi phối nó. Song, hầu hết dân
chủ xuất hiện và phát triển với các đặc điểm cơ bản, cụ thể như sau:

6

Hồ Sỹ Qúy (2014), “Một số vấn đề về dân chủ, độc tài và phát triển”, Nxb. Lý luận chính trị, H. 2014.
Đây là độ tuổi được công nhận trưởng thành ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới hiện nay.
8
Cụ thể là những người khơng có tư cách pháp lý hay mất năng lực hành vi dân sự.
7



Một là, dân chủ trực tiếp, hay còn gọi là dân chủ thuần túy là một hình thức nhà
nước dân chủ trong đó các cơng dân của một quốc gia trực tiếp bỏ phiếu thông qua luật
pháp của quốc gia đó thay vì bầu ra các đại diện để chấp thuận các luật đó. Dân chủ
trực tiếp hiện đại đặc trưng bởi ba trụ cột chính là: (i) Quyền đề xướng luật lệ. (ii)
Trưng cầu dân ý bao gồm cả trưng cầu dân ý bắt buộc cho phép nhân dân bỏ phiếu phủ
quyết sự ban hành pháp luật. (iii) Bãi nhiệm bằng cách gửi kiến nghị hoặc trưng cầu
dân ý cho phép nhân dân có quyền bãi nhiệm những người đã được bầu ra.
Hai là, dân chủ đại diện (cũng được gọi là dân chủ gián tiếp, hay dân chủ đại
nghị) là một hình thức nhà nước dân chủ được các “đại diện” của người dân vận hành
trên nguyên tắc thi hành chủ quyền nhân dân (Popular sovereignty), “đại diện” ở đây
có thể hiểu là những đại biểu được bầu lên và đại diện cho ý chí của một nhóm người
nào đó. Gần như tất cả các nền dân chủ phương Tây hiện đại là mang hình thức dân
chủ đại diện.
Ba là, dân chủ bán trực tiếp. Những nền dân chủ kết hợp những yếu tố của cả
hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, được gọi là nền dân chủ hỗn hợp
hoặc nền dân chủ bán trực tiếp. Ví dụ bao gồm Thụy Sĩ hiện nay và một số tiểu bang
của Hoa Kỳ.
Dân chủ hiện nay đang ngày càng mở rộng phạm vi ảnh hưởng và sự hiện diện
của nó trong tất cả các lĩnh vực của chính trị quốc tế. Chính vì vậy mà sự biến đổi cho
phù hợp với các giá trị khác để duy trì sự tồn tại và phát triển là yêu cầu cần chú ý.
Dân chủ với các đặc điểm không đồng nhất cũng được lý giải thông qua các chiều kích
khác nhau, để làm rõ hơn vấn đề cịn nhiều tranh cãi này. Có thể kể đến các biến thể
của dân chủ hiện nay, tiêu biểu như sau:
Thứ nhất, quân chủ lập hiến, hay quân chủ đại nghị là một hình thức tổ chức
nhà nước giữ ngun vai trị của vua hay quốc vương từ thời phong kiến nhưng mọi
quyền lực, mọi chi phối trong các hoạt động trong xã hội khơng cịn tập trung trong tay
vua hay nữ hoàng. Vua hay nữ hoàng chỉ là người lãnh đạo tinh thần. Còn mọi quyền
lực, mọi chi phối trong các hoạt động trong xã hội đều do nghị viện, thủ tướng do
người dân bầu ra lãnh đạo. Trong chính thể quân chủ lập hiến, nhà vua hay nữ hoàng
là nguyên thủ quốc gia, nhưng về quyền lực thì chỉ mang tính chất tượng trưng, đại

diện cho truyền thống dịng tộc và sự thống nhất của quốc gia. Chính thể quân chủ lập


hiến ở nhiều nước phát triển như Nhật, Anh, Thụy Điển, Đan Mạch, Canada... ngày
nay thực chất mang hình thức của một nền dân chủ đại diện.
Thứ hai, cộng hòa lập hiến, bản thân cụm từ “cộng hịa” có nhiều ý nghĩa khác
nhau, nhưng ngày nay thường dùng để đề cập đến một nền dân chủ đại diện với một
người đứng đầu nhà nước, chẳng hạn như một tổng thống hoặc một chủ tịch nước,
được nhân dân bầu lên và chỉ có thể nắm quyền trong một khoảng thời gian hạn chế.
Điều này trái ngược với các quốc gia quân chủ lập hiến nơi người đứng đầu nhà nước
thường là một vị vua hoặc nữ hồng có thể cai trị trọn đời, mặc dù về bản chất thì cả
hai cũng đều là hình thức dân chủ đại diện.
Thứ ba, dân chủ tự do, dân chủ tự do là một thể chế nhà nước. Đây là một hình
thức dân chủ đại nghị nơi mà thẩm quyền của các đại diện dân chủ được bầu ra thực
thi quyền ra quyết định phụ thuộc vào nền pháp trị và thường được hiến pháp tiết chế.
Hiến pháp nhấn mạnh sự bảo vệ quyền và tự do của các cá nhân và ràng buộc các nhà
lãnh đạo.
Thứ tư, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Các nước xã hội chủ nghĩa có mơ hình chính
trị mơ phỏng Liên Xô không phải là nền dân chủ theo cách hiểu của phương Tây. Dân
chủ là một lý tưởng được nhắc đến trong Tuyên ngôn của đảng cộng sản được soạn
thảo bởi Karl Marx và Friedrich Engels nhưng khi áp dụng vào thực tế thì mơ hình nhà
nước Soviet khơng có dân chủ theo chuẩn mực dân chủ phương Tây về các quyền tự
do như bầu cử tự do, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo chí,... Dù hiện nay các
nước xã hội chủ nghĩa như Lào, Việt Nam và Trung Quốc vẫn tương đối tự do nhưng
ở mức rất thấp so với các tiêu chuẩn trên.
1.3.

Lịch sử phát triển của dân chủ

Dân chủ – phạm trù lịch sử và phạm trù nhân văn

Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa
nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng, tự do và
quyền con người. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ
chức và thiết chế chính trị nhất định. Là hình thức tổ chức chính trị của Nhà nước, dân
chủ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, như vậy dân chủ là một phạm trù
lịch sử, cũng như các biểu hiện khác của hình thái ý thức xã hội, dân chủ do tồn tại xã


hội quyết định, do phương thức sản xuất vật chất của xã hội quyết định; và do đó, trình
độ của phương thức sản xuất khác nhau tất yếu dẫn đến sự khác nhau về trình độ dân
chủ (mức độ thực hiện dân chủ và dân chủ hoá trong xã hội). Dân chủ biến đổi và phát
triển không ngừng cả về chất và lượng trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử xã
hội loài người. Tuy nhiên, dân chủ với tính cách là giá trị xã hội, là thành quả giá trị
nhân văn trước hết được sinh ra từ phương thức tổ chức hợp tác sản xuất vật chất và
cấu kết cộng đồng giữa người với người thì đã tồn tại ngay từ xã hội cộng sản nguyên
thuỷ. Và do đó, với ý nghĩa này, dân chủ sẽ tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và
phát triển của con người, là một trong những phương thức tồn tại của con người ngay
cả khi Nhà nước đã biến mất.
Pháp luật – sự bảo đảm cho dân chủ
Khác với hình thức khác của thiết chế nhà nước, trong thiết chế dân chủ, quyền
của đa số, quyền bình đẳng của mọi cơng dân, tính tối cao của pháp luật được chính
thức thừa nhận; đồng thời, các cơ quan quyền lực phải do bầu cử mà ra. ở đây, pháp
luật được xem là nguyên tắc tối thượng của việc xây dựng thiết chế, quản lý và điều
hành xã hội, là nền tảng của trật tự xã hội và là chuẩn mực có tính chất cưỡng chế
nhằm điểu chỉnh hành vi của các cá nhân và các quan hệ trong xã hội. Nếu khơng có
sự đề cao ngun tắc tối thượng của pháp luật thì sẽ khơng có dân chủ, hay đúng hơn
là dân chủ không thể được nảy sinh và tồn tại trên nền tảng của một xã hội mà ở đó
các quan hệ xã hội và hành vi của con người hầu như chỉ được điều chỉnh bởi các
chuẩn mực đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán thuần tuý. Các chuẩn mực như vậy
chưa thể tạo ra cơ sở pháp lý cho sự nảy sinh dân chủ, bởi lẽ những cam kết và chuẩn

mực có tính chất chính trị, đạo đức, tôn giáo, phong tục không đủ vững chắc và bảo
đảm cho việc thực hiện quyền tự do lựa chọn người đứng đầu quốc gia, chức sắc tôn
giáo hay quyền tự do phế truất,... cũng như không thể giúp cho các cơng dân có quyền
tự do ứng cử vào các cơ quan của Nhà nước và chính quyền địa phương để tham gia
vào việc giám sát, thực thi, điều hành và quản lý tất cả mọi hoạt động của xã hội và
của Nhà nước. Những điều này chỉ có thể được hiện thực hố từng bước tuỳ theo trình
độ phát triển của xã hội đó, ở trong một xã hội mà những cam kết về sự tự do của công
dân hay cá nhân ấy phải được ghi nhận và quy định thành luật, nghĩa là trong một xã
hội được tổ chức chặt chẽ bởi thiết chế luật pháp.


Các hình thức dân chủ
Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức biểu hiện của cùng thực
thể dân chủ, cả hai hình thức này đều đóng một vai trị quan trọng bảo đảm cho việc
thực hiện dân chủ, là hai hình thức khơng thể thiếu được của việc quản lý, điều hành,
kiểm soát và thực thi quyền lực của nhân dân. Việc vận dụng chúng hồn tồn phụ
thuộc vào tình hình cụ thể. Giữa hai hình thức này có mối quan hệ biện chứng tác động
qua lại và chuyển hoá cho nhau. Để thực hiện được dân chủ đại diện thì phải cần đến
dân chủ trực tiếp, chẳng hạn việc bầu cử lựa chọn ra các đại biểu Quốc hội hay đại
biểu Hội đồng nhân dân, nghĩa là trước khi mỗi công dân chuyển giao quyền lực của
mình cho người đại diện ư những đại biểu dân cử và cho Nhà nước thì họ đã phải thực
hiện dân chủ trực tiếp bằng cách: thứ nhất, tham gia vào hội nghị hiệp thương nhân
dân để lựa chọn các ứng cử viên hoặc thông qua tiếp xúc trực tiếp với một hay một số
ứng cử viên mà mình sẽ lựa chọn; thứ hai, thơng qua việc bỏ phiếu kín, trên ngun
tắc phổ thơng đầu phiếu, cơng bằng, cơng khai và minh bạch, để lựa chọn cho mình
một đại biểu ưu tú dựa trên ý chí quyết định của chính mình. Ngược lại, đến lượt mình,
các đại biểu Quốc hội (nghị sĩ) khi thực hiện quyền lực của cơng dân (cử tri) giao cho
thì lại cần phải dựa trên phương thức dân chủ trực tiếp, nghĩa là tham gia một cách
trực tiếp và thể hiện ý chí của mình trong việc lập pháp cũng như các cơng việc quan
trọng khác của Nhà nước.

Chế độ xã hội của Việt Nam dựa trên nền dân chủ đại diện, nhưng không có
nghĩa đó là hình thức dân chủ duy nhất, bởi vì bản thân dân chủ đã ln ln bao chứa
trong nó cả hai hình thái tồn tại và chỉ có như vậy thì dân chủ mới thực hiện theo đúng
nghĩa đầy đủ của nó, mà cần phải thấy rằng chính hình thức dân chủ trực tiếp là nội
dung, là cái quyết định đối với nền dân chủ đại diện này. Chỉ khi nào mức độ dân chủ
trực tiếp được hiện thực hoá một cách đầy đủ, hiệu quả và sâu rộng thì đó chính là tiền
đề quan trọng cho việc thực hiện tốt hình thức dân chủ đại diện và nền dân chủ đại
diện. Chẳng hạn, khi quyền làm chủ của nhân dân đã được uỷ thác cho những đại diện
của mình ưđại biểu Quốc hội thì địi hỏi những đại biểu này cần thường xuyên lắng
nghe và phản ánh về những vấn đề thiết yếu hàng ngày của người dân. Những cuộc
tiếp xúc trực tiếp với các cử tri và xử lý kiến nghị của cử tri cũng chính là một hình
thức của dân chủ trực tiếp giúp cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở cấp


đại diện (Quốc hội) được bảo đảm hiệu quả hơn, phản ánh đúng và sâu sát với những
bức xúc, trăn trở của nhân dân. Hơn nữa, quyền lực của nhân dân do được thực hiện
thông qua người đại diện của mình (đại biểu Quốc hội) cho nên đơi khi nó “bị khúc
xạ” qua lăng kính trình độ và trách nhiệm của những người đại biểu. Do vậy, việc thực
hiện dân chủ đại diện không thể tách rời dân chủ trực tiếp cịn ở chỗ dân chủ trực tiếp
chính là thước đo và là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm, giám sát và đánh giá dân chủ gián
tiếp. Chẳng hạn, trước khi một dự luật được Quốc hội thông qua hay một chính sách,
nghị định nào của Chính phủ được ban hành thì điều hết sức quan trọng là nó cần phải
được gửi cho tất cả mọi công dân để lấy ý kiến của nhân dân, hoặc phải tiến hành
trưng cầu dân ý ư đây chính là một hình thức của dân chủ trực tiếp. Hình thức này cần
phải được coi là nền tảng để thực hiện dân chủ trực tiếp cũng như là cơ chế hết sức
quan trọng để thực hiện quyền dân chủ của mọi công dân. Nghĩa là, trưng cầu dân ý
cần phải trở thành nguyên tắc Hiến định đối với hoạt động thực thi và giám sát quyền
lực của nhân dân. Quy chế dân chủ ở cơ sở là hết sức quan trọng và cần thiết bảo đảm
cho việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân thông qua hình thức dân chủ trực tiếp
nhưng như thế vẫn chưa đủ, cần phải xây dựng một dự luật về trưng cầu dân ý. Chỉ có

như vậy mới giúp cho việc lập pháp và việc hoạch định chính sách tránh được những
bất cập, thiếu tính khả thi và chưa thực sự hiệu quả.
Nguyên tắc nền tảng của việc thực thi và bảo đảm dân chủ đó là “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Từ mục đích như vậy, cần xây dựng và hoàn thiện hệ
thống các cơ chế cần thiết cho việc thực hiện mục tiêu này. Tổng thể các biện pháp
này tạo ra một cơ chế hữu hiệu và duy nhất cho việc bảo đảm và thực thi quyền dân
chủ rộng rãi trong xã hội. Chẳng hạn, nếu dân không được biết, không được tham gia
vào quá trình hoạch định chính sách, pháp luật, vào cơng việc của Nhà nước nghĩa là
dân đã không được bảo đảm các quyền chính trị của mình. Dân khơng “biết”, dân sẽ
khơng thể “bàn” được, và do đó sẽ khơng “làm” được và khơng thể “kiểm tra” được
q trình hay cơng việc đó.
Quyền dân chủ
Quyền dân chủ chính là những u sách, nhu cầu nội tại của mỗi cá nhân, với tư
cách là công dân đối với các nguyên tắc, các chuẩn mực pháp lý dân chủ trong một
thiết chế xã hội dân chủ nhằm bảo đảm sự tham gia một cách tự do, bình đẳng và đầy


đủ vào các cơng việc của Nhà nước và tồn bộ đời sống xã hội của con người. Quyền
dân chủ thực chất chính là u sách về bình đẳng chính trị và xã hội của mỗi cá nhân
trong mối quan hệ với Nhà nước, bảo đảm cho cá nhân khả năng hành động theo ý
mình, cho sự tự quyết định và làm chủ ý chí của mình mà khơng có hại cho người khác,
và do đó cho khả năng giải phóng tồn diện những năng lực bản chất người của mỗi cá
nhân. Ph.Ăngghen khẳng định: “từ sự bình đẳng của mọi người với tư cách là những
con người, rút ra cái quyền có một giá trị ngang nhau về chính trị và xã hội cho tất cả
mọi người, hay ít ra là cho công dân trong một nước, hay cho mọi thành viên trong xã
hội”9.
Như vậy, quyền dân chủ trước hết là quyền con người; hơn nữa, nó nhấn mạnh
đặc biệt đến các quyền về chính trị như là khả năng và điều kiện tiên quyết để thực
hiện đầy đủ các quyền con người cơ bản khác. Bởi vì, sự giải phóng về chính trị là
điều kiện tiên quyết đối với mọi sự giải phóng khác của con người, bình đẳng về chính

trị là tiền đề của mọi sự bình đẳng. Hay nói cách khác, các quyền về chính trị (tự do
bầu cử, ứng cử, tự do ngôn luận, tự do lập hội, hội họp, tự do báo chí...), một mặt, là
tiền đề cho việc hiện thực hoá các quyền khác, mặt khác, là sự phản ánh về mức độ
giải phóng “năng lực bản chất người” của mỗi cá nhân. Nó chính là nội dung cốt lõi
của quyền con người, nó khẳng định con người là “một nhân tính tự do”, “một nhân
cách ư văn hoá” và “chủ thể sáng tạo của lịch sử và của giới tự nhiên”. Chính vì vậy,
các nhà kinh điển mácưxít đã đặc biệt nhấn mạnh đến các quyền về chính trị như là
bản chất của quyền dân chủ: “Vì thế, yêu sách khẩn cấp của công nhân và nhiệm vụ
trước tiên để giai cấp cơng nhân có ảnh hưởng đến cơng việc của nhà nước là phải
giành được tự do chính trị, nghĩa là tất cả mọi công dân đềuđược pháp luật đảm bảo
cho họ trực tiếp tham gia việc quản lý nhà nước, tất cả mọi công dân đều được quyền
tự do hội họp, bàn bạc cơng việc của mình, kinh qua các hội của mình và báo chí mà
ảnh hưởng đến cơng việc của nhà nước. Giành lấy tự do chính trị trở thành “một việc
làm khẩn cấp đối với công nhân” bởi vì khơng có tự do chính trị, khơng có và khơng
thể có ảnh hưởng gì đến cơng việc của nhà nước và như vậy thì tất nhiên họ vẫn là một
giai cấp khơng có quyền, bị lăng nhục và khơng được bày tỏ ý kiến của mình”10.

9

Xem thêm tại: />Xem thêm tại: />
10


Quyền dân chủ còn là một giá trị xã hội của con người đã được thể chế hoá
thành hệ thống pháp luật của một nhà nước nhất định, gắn với một hệ thống chính trị
nhất định dựa trên một trình độ phát triển nhất định về kinh tế và văn hố. Vì vậy,
quyền dân chủ một mặt là sự phản ánh bước tiến của con người về tự do, bình đẳng và
sự giải phóng tồn diện năng lực bản chất người của mỗi cá nhân, mặt khác phản ánh
sự phát triển của luật pháp, trình độ kinh tế, văn hố và tiến bộ xã hội của quốc gia đó.
Do đó, có thể nói: quyền dân chủ chính là quyền và tự do cơ bản của con người trong

một chế độ xã hội dân chủ hay là yêu sách, nhu cầu chính đáng của con người về sự
bình đẳng chính trị và bình đẳng xã hội với tính cách là mơi trường và điều kiện cho sự
tồn tại, phát triển và hồn thiện nhân cách văn hố và nhân tính tự do của mỗi cá nhân.
Tiểu kết luận chương 1
Dân chủ xuất hiện từ sớm trên vũ đài chính trị với các hệ giá trị và tư tưởng
khác. Song dân chủ chỉ thực sự phát triển trong xã hội mà người dân có trình độ chính
trị và hiểu biết pháp luật cao. Ở đó dân chủ với tư cách là cơ sở để người dân thực hiện
quyền làm chủ của mình. Tuy nhiên, cho đến hiện tại, các vấn đề cơ bản thuộc nội hàm
dân chủ vẫn còn vấp phải nhiều tranh cãi trong giới khoa học chính trị.
Nhìn chung, các khái niệm nghiên cứu “dân chủ” với tư cách là phương thức
chính trị mà thơng qua đó, người dân với tư cách là cử tri có thể tham gia vào các công
việc chung của cộng đồng, của xã hội, quyết định vận mệnh và tương lai chính trị của
quốc gia. Tuy nhiên, cũng nghiên cứu dân chủ với tư cách là căn cứ để quan trọng để
người dân đảm bảo các lợi ích cơ bản và những quyền lợi chính đáng của mình. Vậy
hiểu như thế nào về dân chủ? Chế độ dân chủ là chế độ chính trị, trong đó, tồn bộ
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua
đại diện do nhân dân bầu ra. Dân chủ có nghĩa là một hệ thống Chính phủ được thành
lập và mang tính chính danh thơng qua bầu cử. Tuy nhiên, khơng phải ai cũng được
ứng cử trong các cuộc bầu cử; chỉ có những người tham gia mới được lựa chọn để ứng
cử. Thêm vào đó, khơng phải ai cũng được đi bầu. Hầu hết các nước dân chủ chỉ cho
phép những người dân đủ tuổi (thường là 18) bầu. Một số quốc gia không cho một số
người khác bầu (chẳng hạn như người phạm tội) . Chính điều này minh chứng cho việc
dân chủ cũng có những đặc trưng riêng tùy thuộc vào các điều kiện chi phối nó. Song,
hầu hết dân chủ xuất hiện và phát triển với các đặc điểm cơ bản, cụ thể như (dân chủ


trực tiếp, gián tiếp,…). Quyền dân chủ còn là một giá trị xã hội của con người đã được
thể chế hoá thành hệ thống pháp luật của một nhà nước nhất định, gắn với một hệ
thống chính trị nhất định dựa trên một trình độ phát triển nhất định về kinh tế và văn
hố. Vì vậy, quyền dân chủ một mặt là sự phản ánh bước tiến của con người về tự do,

bình đẳng và sự giải phóng tồn diện năng lực bản chất người của mỗi cá nhân, mặt
khác phản ánh sự phát triển của luật pháp, trình độ kinh tế, văn hoá và tiến bộ xã hội
của quốc gia đó.


CHƯƠNG 2: DÂN CHỦ MỸ TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN THỰC TIỄN

2.1. Quan niệm về dân chủ Mỹ
2.1.1. Học thuyết dân chủ của Jeferson
Jeferson11. Nền dân chủ Jeffersonian, được đặt theo tên của người ủng hộ nó là
Thomas Jefferson , là một trong hai phong trào và quan điểm chính trị thống trị ở Hoa
Kỳ từ những năm 1790 đến những năm 1820. Những người Jeffersonians đã cam kết
sâu sắc với chủ nghĩa cộng hịa của Hoa Kỳ , có nghĩa là phản đối những gì họ coi là
tầng lớp quý tộc giả tạo , phản đối tham nhũng và nhấn mạnh vào đức hạnh , ưu tiên
cho “nông dân Yeoman”, “chủ đồn điền” và “dân gian bình thường” 12. Họ đối lập với
chủ nghĩa tinh hoa quý tộccủa các thương gia, chủ ngân hàng và nhà sản xuất, công
nhân nhà máy không tin cậy và luôn theo dõi những người ủng hộ hệ thống
Westminster . Thuật ngữ này thường được sử dụng để chỉ Đảng Dân chủ - Cộng hịa
(chính thức được đặt tên là “Đảng Cộng hòa”), mà Jefferson thành lập để đối lập với
Đảng Liên bang của Alexander Hamilton . Vào đầu kỷ nguyên Jeffersonian, chỉ có hai
bang (Vermont và Kentucky) thiết lập quyền đầu phiếu cho nam giới da trắng phổ
thông bằng cách bãi bỏ các yêu cầu về tài sản. Vào cuối thời kỳ này, hơn một nửa số
bang đã làm theo, bao gồm hầu như tất cả các bang ở Old Northwest . Các bang sau đó
cũng chuyển sang việc cho phép các cuộc bầu cử phổ thông cho các cuộc bầu cử tổng
thống, thu hút cử tri theo một phong cách hiện đại hơn. Đảng của Jefferson, ngày nay
được gọi là Đảng Dân chủ - Cộng hịa, khi đó nắm tồn quyền kiểm sốt bộ máy
Chính phủ – từ cơ quan lập pháp tiểu bang và tịa thị chính đến Nhà Trắng .
Nền dân chủ Jeffersonian vẫn tồn tại như một yếu tố của Đảng Dân chủ vào đầu
thế kỷ 20, được minh chứng bằng sự trỗi dậy của nền dân chủ Jacksonian và ba ứng cử
tổng thống của William Jennings Bryan . Các chủ đề của nó tiếp tục vang vọng trong

thế kỷ 21, giờ đây cũng là giữa các đảng Tự do và Cộng hòa13,14. Jefferson đã xác định

11

Thomas Jefferson (1743 – 1826) là vị tổng thống thứ 3 của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, người sáng lập ra Đảng
Dân chủ - Cộng hòa Hoa Kỳ, và là một nhà triết học chính trị có ảnh hưởng lớn, một trong những người theo
chủ nghĩa tự do nhiệt thành lớn nhất thời cận đại.
12
Wood, The American Revolution , tr. 100.
13
William S. Dietrich (2008). In the Shadow of the Rising Sun: Nguồn gốc chính trị của sự suy giảm kinh tế Mỹ .
Penn State Press. p. 165. ISBN 978-0271028132.


chính xác một vấn đề nan giải sâu sắc. Làm thế nào để tự do cộng hịa và bình đẳng
dân chủ có thể được dung hịa với những thay đổi xã hội có nguy cơ làm gia tăng bất
bình đẳng? Điều kiện làm việc tồi tệ ở nước Anh thời kỳ đầu cơng nghiệp là một ví dụ
đáng sợ. Đối với Jefferson, sự mở rộng về phía tây đã tạo ra một lối thốt khỏi mơ
hình của Anh. Miễn là những người nơng dân làm việc chăm chỉ có thể có được đất
đai với giá cả hợp lý, thì nước Mỹ có thể thịnh vượng với tư cách là một nước cộng
hịa của các cơng dân bình đẳng và độc lập. Những ý tưởng của Jefferson đã giúp
truyền cảm hứng cho một phong trào chính trị quần chúng đạt được nhiều khía cạnh
quan trọng trong kế hoạch của ơng. Các nhà sử học mô tả nền dân chủ Jeffersonian
bao gồm những lý tưởng cốt lõi sau:
Một là, giá trị chính trị cốt lõi của Mỹ là chủ nghĩa Cộng hòa – cơng dân có
nghĩa vụ cơng dân là hỗ trợ nhà nước và chống tham nhũng, đặc biệt là chủ nghĩa quân
chủ và tầng lớp quý tộc15.
Hai là, các giá trị của Jeffersonian được thể hiện tốt nhất thông qua một đảng
chính trị có tổ chức. Đảng Jeffersonian chính thức là “Đảng Cộng hịa” (các nhà khoa
học chính trị sau này gọi nó là Đảng Dân chủ – Cộng hịa để phân biệt với Đảng Cộng

hòa của Lincoln sau này)16.
Ba là, Chính phủ quốc gia là một cần thiết nguy hiểm được thành lập vì lợi ích
chung, sự bảo vệ và an ninh của người dân, quốc gia hoặc cộng đồng - nó cần được
theo dõi chặt chẽ và giới hạn trong quyền hạn của mình. Hầu hết những người chống
Liên bang từ 1787 – 1788 đều gia nhập Jeffersonians17.
Bốn là, Chính phủ liên bang khơng được vi phạm quyền của các cá nhân . Các
Tuyên ngôn Nhân quyền là một chủ đề trung tâm18.

14

Jeff Taylor (2006), “Where Did the Party Go ?: William Jennings Bryan, Hubert Humphrey và Jeffersonian
Legacy”, Publisher : University of Missouri; First edition (June 19, 2006).
15
Lance Banning, Jeffersonian Persuasion (1980), “Evolution of a Party Ideology”, Publisher : Cornell University
Press (August 31, 1980), pp. 79 – 90.
16
Noble E. Cunningham, “Đảng Jeffersonian đến năm 1801: nghiên cứu về sự hình thành tổ chức đảng (1952)”,
Published by the Omohundro Institute of Early American History and Culture and the University of North
Carolina Press.
17
Lance Banning, Jeffersonian Persuasion (1980), “Evolution of a Party Ideology”, Publisher : Cornell University
Press (August 31, 1980), pp. 105 – 115.
18
Robert Allen Rutland; Sự ra đời của Tuyên ngôn Nhân quyền, 1776 – 1791 (1955).


Năm là, các Hiến pháp Hoa Kỳ được viết theo thứ tự để đảm bảo sự tự do của
nhân dân. Tuy nhiên, như Jefferson đã viết cho James Madison vào năm 1789, “khơng
xã hội nào có thể tạo ra một hiến pháp vĩnh viễn hoặc thậm chí là một luật vĩnh viễn.
Trái đất luôn thuộc về đời sống của các thế hệ người”19.

Cuối cùng tất cả nam giới đều có quyền được cung cấp thơng tin và do đó có
tiếng nói trong Chính phủ. Bảo vệ và mở rộng quyền tự do của con người là một trong
những mục tiêu chính của Jeffersonians. Họ cũng cải cách hệ thống giáo dục của bang
tương ứng. Họ tin rằng công dân của họ có quyền được học hành cho dù họ đang ở
trong hoàn cảnh hay địa vị nào trong cuộc sống20.
2.1.2.Tư tưởng dân chủ của Lincoln
Dân chủ theo học thuyết của Lincoln21 gắn liền với cuộc đấu tranh về thay đổi
tư duy, quan niệm về chế độ nơ lệ. Ơng tin rằng nền dân chủ Mỹ có nghĩa là quyền
bình đẳng và bình đẳng về cơ hội. Nhưng ơng đã vạch ra ranh giới giữa các quyền tự
nhiên cơ bản như tự do khỏi chế độ nô lệ và các quyền chính trị và dân sự như bầu cử.
Ơng tin rằng việc quyết định xem ai nên thực hiện các quyền này là tùy thuộc vào các
bang. Trước Nội chiến, cả hai bang miền Bắc và miền Nam thường cấm phụ nữ và
người da đen tự do bầu cử, phục vụ trong bồi thẩm đoàn và được hưởng các quyền
khác như vậy. Lincoln tin tưởng mạnh mẽ chế độ nô lệ là “một tệ nạn lớn”. Tuy nhiên,
ông không tham gia với thiểu số những người theo chủ nghĩa bãi nô miền Bắc, những
người muốn bỏ chế độ nô lệ ngay lập tức. Lincoln muốn giải phóng dần dần nơ lệ bằng
cách bồi thường cho chủ sở hữu của họ bằng các quỹ liên bang. Lincoln cũng ủng hộ ý
tưởng cung cấp viện trợ của Chính phủ cho những nơ lệ được trả tự do, tạo điều kiện
cho họ thành lập các thuộc địa ở nước ngoài. Lincoln nghĩ rằng tại các quốc gia da đen
của họ, cuối cùng họ sẽ được hưởng các quyền dân sự và chính trị bình đẳng. Năm
1832, khi Lincoln bắt đầu sự nghiệp chính trị ở Illinois, ông tham gia Đảng Whig của
Henry Clay. Mặc dù các cử tri Illinois đã bầu Lincoln vào cơ quan lập pháp tiểu bang
và một nhiệm kỳ trong Hạ viện Hoa Kỳ, ơng đã tạo ra rất ít ấn tượng. Lincoln quyết
19

Jefferson thư gửi James Madison, ngày 6 tháng 9 năm 1789 |
, Đã lưu trữ 2010 – 03 – 28 tại Wayback Machine.
20
Roy J. Honeywell, "Một ghi chú về công việc giáo dục của Thomas Jefferson," Lịch sử giáo dục hàng quý, mùa
đông năm 1969, Vol. 9 Ấn bản 1, trang 64 – 72.

21
Abraham Lincoln, còn được biết đến với tên Abe Lincoln, tên hiệu Honest Abe, Rail Splitter, Người giải phóng
vĩ đại, là Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ từ tháng 3 năm 1861 cho đến khi bị ám sát vào tháng 4 năm 1865.


định không tái tranh cử vào Quốc hội sau khi nhiệm kỳ của ơng kết thúc vào năm 1848.
Sau đó ông thành lập một công ty luật thịnh vượng ở Springfield, Illinois. Tuy nhiên,
vào năm 1854, vấn đề bùng nổ của việc mở rộng chế độ nô lệ sang các vùng lãnh thổ
phương Tây đã kéo ông trở lại.
Tư tưởng về dân chủ của Lincoln được thể hiện rất rõ quan niệm: “Vì tơi khơng
phải là nơ lệ, nên tơi sẽ không phải là chủ nhân. Điều này thể hiện ý tưởng của tơi về
dân chủ. Bất cứ điều gì khác với điều này, ở mức độ khác biệt, đều không phải là dân
chủ”22. Nhận xét về quan niệm dân chủ của Lincoln, GS Borit chỉ ra rằng “Và định
nghĩa của Lincoln về dân chủ trong điều kiện chế độ nơ lệ, dù là khoa học chính trị vẫn
cịn nhiều nghi vấn, nhưng lại nằm sâu trong suy nghĩ của ông ấy. Nó chắc chắn không
chỉ là một thiết bị chính trị đơn thuần; thực sự là anh ta chưa bao giờ sử dụng nó ở nơi
cơng cộng. Nó chỉ trở nên đầy đủ ý nghĩa nếu người ta nhận ra rằng sau năm 1854, chế
độ nô lệ đã trở thành phản đề trực tiếp nhất của Giấc mơ Mỹ mà tơi nghĩ của ơng ấy,
đối lập hồn tồn với ý tưởng trung tâm của nền Cộng hòa. Nếu định nghĩa của ơng về
nền dân chủ được trình bày lại như sau, nó vẫn cịn là lý thuyết chính trị đáng nghi ngờ,
nhưng nó sẽ diễn đạt ý nghĩa của ơng theo những thuật ngữ chính xác hơn: “Vì tơi
khơng muốn cơ hội của mình vươn lên trong cuộc sống bị cản trở, vì vậy tơi sẽ khơng
muốn cản trở cơ hội vươn lên của người khác. Điều này thể hiện ý tưởng của tôi về
dân chủ. Bất cứ điều gì khác với điều này, ở mức độ khác biệt, đều không phải là dân
chủ”23.
Ý tưởng dân chủ tự do cơ bản là quyền tự do cá nhân được bảo đảm tốt nhất
bởi một trật tự chính trị dân chủ, đối xử với mọi cơng dân như bình đẳng trước pháp
luật và chịu sự điều chỉnh của pháp luật, với các giới hạn về cách nhà nước có thể đối
xử với cơng dân và cách cơng dân có thể đối xử nhau. Mặc dù lý thuyết mạch lạc một
cách tuyệt vời, những ý tưởng này chứng tỏ có vấn đề trong chính trị thế giới thực.

Một số học giả tiếp cận tư tưởng dân chủ của Lincoln và cho rằng đây là hiện thân của
nghịch lý “tự nhiên chống chế độ nô lệ” nhưng vẫn cam kết bảo vệ luật chống chế độ
nơ lệ; người bảo vệ bình thường nhưng gặp rắc rối bởi sự thái quá của dân chủ; dành
22

Abraham Lincoln, Định nghĩa về Dân chủ, ngày 1.1858, trong Roy P. Basler, biên tập, Các tác phẩm được sưu
tầm của Abraham Lincoln (8 quyển, New Brunswick, NJ: Rutgers University Press, 1953).
23

GS. Borit (1978), “ Lincoln và Kinh tế học của Giấc mơ Mỹ ”. Publisher: University of Illinois Press, 1978, p.276.


×