Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Mở rộng hoạt động tín dụng đối với khu vực kinh tế tư nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.73 KB, 60 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong hầu hết sự phát triển về kinh tế của các quốc gia trên thế giới hiện nay
và trong tương lai đều có sự tham gia của các khu vực kinh tế thuộc Nhà nước, Tư
nhân, và nước ngoài. và mỗi khu vực này này đều có những đóng góp nhất định đối
với mỗi nền kinh tế cụ thể, tuy nhiên theo kinh nghiệm của các quốc gia phát triển
trên thế giới thì khu vực kinh tế tư nhân là khu vực có đóng góp quan trong trong
thúc đẩy qua trình phát triển của họ, mà khu vực kinh tế tư nhân thường là những
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngay cả Mỹ một nước có nền kinh tế hàng đầu thế giới,
có các công ty xuyên quốc gia khổng lồ, thì việc đóng góp cho nền kinh tế chủ yếu
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của khu vực tư nhân. Đối với việt nam thì khu vực
kinh tế tư nhân đã có những đóng góp to lớn những cho kinh tế nước nhà. Nhưng
khu vực kinh tế này vẫn có những khó khăn trong đó khó khăn về vốn là vấn đề nan
giải hiện nay. Hiện nay tôi đang thực tập tại VIETCOMBANK _Ba Đình, nên tôi
chọn đề tài: "Mở rộng hoạt động tín dụng đối với khu vực kinh tế tư nhân của
ngân hàng ngoại thương nội chi nhánh _ Ba Đình", với dung gồm:
Chương I : Tổng quan về tín dụng và khu vực kinh tế tư nhân.
Chương II : Thực trạng hoạt động tín dụng của NHNT- CN Ba Đình đối với
khu vực kinh tế tư nhân.
Chương III : Một số ý kiến để mở rộng hoạt động tín dụng đối với khu vực kinh tế
tư nhân.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG
VÀ KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN
Trang 1Trang 1SVTH: Lê Sĩ Tuấn - Lớp: Ngân hàng 44C 1
I.1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm về tín dụng
Tín dụng là danh từ để chỉ một số hành vi như bán chịu hàng hoá, cho vay,
chiết khấu thương phiếu, kí thác, phát hành giấy bạ.
Ngày nay khi nói tới tín dụng người ta nghĩ ngay tới ngân hàng, tín dụng là
quan hệ vay mượn, gồm cả đi vay và cho vay.Tuy nhiên khi nói tới ngân hàng người
ta chỉ nghĩ là ngân hàng cho vay.


Theo luật các tổ choc tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam
điều 49 thì : tín dụng được thể hiện dưới các hình thức cho vay, bảo lãnh, cho thuê
tài chính và các hình thức khác theo quy định của ngân hàng nhà nước.
1.1.2.Tính chất pháp lý của các nghiệp vụ tín dụng.
xét về tính chất phát lý thì tín dụng được chia làm 3 loại như: cho vay tiền, cho
vay, cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền và tín dụng qua chữa kí.
Là nghiệp vụ tín dụng trong đó người cho vay cam kết hoàn trả một khoản tiền
và người đi vay cam kết trả một khoản tiền lớn hơn khoản ban đầu. Khoản chênh
lệch này gọi là lãi. lãi phụ thuộc vào thời gian và số lượng khoản vay.
Cho vay dựa trên phương án sản xuất kinh doanh của người đi vay và khoản vay
còn được bảo dảm bằng tài sản của người đi vay. Đây là loại hình tín dụng gặp rủi
ro cao. Do khách hàng có thể sử dụng tiền đúng mục đích như khế ước vay. Ngân
hàng có thể chuyển một lần hay nhiều lần.
Loại cho vay này dựa trên ba nguyên tắc cơ bản sau:
+ Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi: đây là nguyên tắc quan
trọng nhất vì vốn của ngân hàng phần lớn là vốn huy động. Ngân hàng phải tri trả
khi khách hàng đến rút tiền. Nếu khoản tín dụng không được hoàn trả đúng hạn điều
này có thể làm cho ngân hàng rơi vào tình trạng rủi ro thanh khoản.
để tránh điều nay ngân hàng phải quy định kỳ hạn nợ, khi đến hạn thì khác hàng
phải trả nếu không thì ngân hàng có thể tự động trích số dư tài khoản tiền gửi của
người đi vay hay phát mại tài sản đảm bảo.
+ Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích: vì khi cho khách hàng vay thì ngân
hàng còn phải thẩm định phương án sản xuất từ đó mới có phương án giải ngân.
Nếu trong quá trình nếu phát hiện có vấn đề trong việc sử dụng tiền thì ngân hàng có
quyền thu hồi nợ trước thời hạn trong hợp đồng tín dụng, nếu thu không đủ khoản
tiền đã cấp thì khoản tiền còn lại chưa thu được sẽ được chuyển thành nợ quá hạn.
nguyên tắc này rất quan trọng, khi ngân hàng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế
phải hướng đến mục tiêu và yêu cầu của nền kinh tế trong những giai đoạn cụ thể.
Còn khi cung ứng cho các đơn vị sản xuất kinh doanh thì phải đáp ứng các mụch
đích trong sản xuất kinh doanh để thúc đẩy các đơn vị hoàn thành các mục tiêu của

mình.
+ Vốn vay phải có tài sản đảm bảo: trong nền kinh tế thị trường các hoạt động nói
chung và các hoạt động kinh tế nói riêng diễn ra vô cùng đa dạng và phức tạp,
không có nhà quản trị ngân hàng nào có thể đự đoán chính xác những diễn biến có
thễ xảy ra trên thị trường, do đó rủi ro là không thể tránh khỏi, để giảm thiểu rủi ro
thì các ngân hàng càng tao ra được nhiều khoản thu càng tốt cho các khoản cho vay
của mình và đảm bảo chình là nguồn thu thứ hai sau nguồn thu thứ nhất như: vốn
lưu động, khấu hao, lợi nhuận, thu nhập …
Đảm bảo tín dụng như là một phương tiện cho người chủ ngân hàng có thêm một
nguồn thu khác để thu hồi nợ nếu mục đích cho vay bị phá sản, tài sản đảm bảo có
thể tồn tại dưới hình thức sau:
- Tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay của ngân hàng
- Tài sản đảm bảo là tài sản của người đi vay
- Tài sản đảm bảo là tín chấp hay bảo lãnh của người thứ ba
Các loại đảm bảo tín dụng:
*Đảm bảo đối vật:
- Thế chấp tài sản: là việc bên vay vốn dùng tài sản là bất động sản thuộc sở
hữu của mình của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên cho vay,
bên đi vay vẫn được quyền sử dụng tài sản thế chấp và chỉ phải giao giấy chủ quyển
tài sản đó cho bên cho vay.
- Cầm cố tài sản: là việc bên đi vay có nghĩa vụ phải giao tài sản là động sản
thuộc quyền sở hữu của mình cho bên cho vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ
của mình.
* Đảm bảo đối nhân:
-Là sự cam kết của một người hay nhiều người về việc phải trả nợ cho ngân
hàng nếu một khách hàng vay không trả được nợ cho ngân hàng, trong trường hợp
này thì những người bảo lảnh phải có được uy tín hay phải có khả năng về tài
chính đủ mạnh đảm bảo được sự tin tưởng của ngân hàng.
1.1.2.2. Cho vay dựa trên chuyển nhượng trái quyền.
Cho vay dựa trên chuyển nhượng trái quyền là hình thức cho vay dựa trên cơ

sở mua bán các cộng cụ tài chính như mua bán các hối phiếu lệnh phiếu … từ đó tạo
ra nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu của ngân hàng, tức là mua nợ dựa trên
khoảng thời gian còn lại của cho đến lúc đáo hạn của thương phiếu.
Về mặt pháp lý ngân hàng không cho vay mà là mua một trái quyền, ngân
hàng bỏ tiền ra ứng trước giá trị của một thương phiếu chưa đến hạn thanh toán đổi
lại ngân hàng được nắm quyền sở hữu và có quyền truy đòi khi đến hạn thanh toán,
thủ tục chiết khấu cũng khác thủ tục vay va không có hợp đồng tín dụng.
+ Chiết khấu thương phiếu: Là một nghiệp vụ tín dụng, vì nó, vì nó đem lại
ngay cho khách hàng một số tiền bình thường mà chỉ được chi trả khi nó đến hạn
thanh toán trong thương phiếu.
Nhưng về mặt pháp lỳ thì không phải là một khoản cho vay, vì ngân hàng
không cho khách hàng vay số tiền mà khách hàng sẽ phải trả cho ngân hàng, mà ở
đây ngân hàng ứng trước giá trị của một thương phiếu chưa đến hạn đổi lại ngân
hàng nắm quyền sở hữu thương phiếu đó, vì vậy ngân hàng sẽ được đòi lại khoản
ứng trước đây bằng cách truy đòi trái phiếu khi đến hạn.
Như vậy chiết khấu là việc ngân hàng ứng trước cho giá trị một thương phiếu
đổi lấy việc chuyển giao quyền sở hữu thương phiếu.
+ Mua uỷ nhiệm thu hay bao thanh toán hay còn gọi là cho vay uỷ nhiêm
thu: Đây là trường hợp ngân hàng mua đứt các chứng quyền để đi đòi nợ, bao thanh
toán có thể được xác định là một hợp đồng, mà trong đó các ngân hàng mua đứt các
trái quyền của người bán đối với người mua là khách hàng của ngân hàng.
1.1.2.3. Tín dụng qua chữ ký.
Tín dụng qua chữ ký có thể là kết quả của chữ ký của ngân hàng, trong hình
thức này ngân hàng không phải bỏ tiền ra ngay mà ngân hàng cam kết sẽ trả một
khoản nợ của khách hàng của mình khi mà khách hàng của mình không thực hiện
đúng cam kết trả nợ như đã thoả thuận trước, do bảo lãnh bằng uy tín của mình nên
bảo lãnh của ngân hàng còn gọi là bảo lãnh qua chữa ký.
Về tính pháp lý thì loại tín dụng này dựa vào luật bảo lãnh cũng như các cam
kết bảo lãnh và tái bảo lãnh,
Bảo lãnh là đưa ra những cam kết dưới hình thức cấp chứng thư và hạch toán theo

tài khoản ngoại bảng, các ngân hàng chỉ đưa vào tài khoản nội bẳng khi mà ngân
hàng thực hiện chi trả cho khách hàng của mình ,bảo lãnh gồm:
+ Bảo lãnh ngân hàng : đây là hình thức rất quan trọng trong thực tế, nó giúp
cho người mua hàng không phải kí quỹ và được trả chậm tiền hàng, và người bán tin
tưởng giao hàng cho người mua.
+ Tín dụng chấp nhận : trong loại hình này ngân hàng chấp nhận một hối phiếu
đòi tiền chính mình, và khách hàng của ngân hàng phải nộp số tiền cần thiết ngay
trước khi hối phiếu đến hạn, lúc này chủ nợ có được sự đảm bảo thu được khoản nợ
của mình do ngân hàng đứng ra chấp nhận chi trả.
1.1.3. Phân loại tín dụng trong các ngân hàng thương mại.
1.1.3.1. Phân loại tín dụng chung.
+ Tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn: sự khác nhau giữa tín dụng ngắn hạn và
tín dụng trung và dài hạn chính là thời gian giao vốn cho khách hàng sử dụng, tuỳ
theo luật của từng quốc gia và trong từng thời kỳ mà thời gian ngắn hạn, trung và
dài hạn được quy định khác nhau, ở Việt Nam hiện nay ngắn hạn là nhỏ hơn hoặc
bằng 12 tháng, còn trung và dài hạn là lớn hơn 12 tháng.
+ Tín dụng cấp ra kèm theo hoặc không kèm theo cam kết của ngân hàng.
- Tín dụng không kèm theo cam kết của ngân hàng: trong hình thức cấp này
thường áp dụng cho ngắn hạn và ngăn hàng có thể chấm dứt hợp đồng cho
vay bất cứ lúc nào.
- Tín dụng phát sinh từ cam kết của ngân hàng: là hình thức mà ngân hàng
cam kết một khoản tín dụng cụ thể hay một hạn mức tín dụng mà ngân hàng
không thể tự do chấm dứt cam kết của mình khi phía khách hàng không có
những những vi phạm như đã thoả thuận.
+ Tín dụng có thể huy động và không thể huy động.
- Tín dụng có thể huy động là những khoản tín dụng mà ngân hàng có thể
chuyển nhượng để thu hồi tiền trước kì hạn đã định.
- Tín dụng không thể huy động: là tín dụng mà khi ngân hàng cấp ra là không
thể chuyển nhượng để thu hồi vốn trước thời hạn định.
1.1.3.2.Tín dụng ngân quỹ.

Tín dụng ngân quỹ là để thoả mãn nhu cầu vốn lưu động của các doanh
nghiệp.
+ Tín dụng huy động trái quyền: đây là việc huy động các trái quyền đối với
khách hàng trong nước và nước ngoài, khi đó khoản tín dụng này nhằm sử dụng
ngay giá trị của các trái quyền sau khi trừ đi khoản tiền chiết khấu mà lẽ ra đến hạn
mới được nhận.
+ Tín dụng ngân quỹ: nhằm đảm bảo sự cân đối ngân quỹ của doanh nghiệp
ngân quỹ của doanh nghiệp, doanh nghiệp thường xuyên có nhu cầu này vì có sự
chênh lệch về thời gian các khoản chi phí và thu nhập của doanh nghiệp.
- Tạm ứng hay vượt chi tài khoản: hình thức này giúp cho doanh nghiệp đối
phó với thiếu vốn lưu động rất ngắn, trong hạn mức và thời gian quy định
thì nó đảm bảo cho tài khoản của doanh nghiệp dư nợ hay vượt chi, hình
thức này không có sự đảm bảo nội tại nào mà chỉ căn cứ vào tình hình tài
chính, mức độ và điều kiện hoạt động của tài sản.
- Tín dụng ngân quỹ thuần tuý : khi khoản tín dụng có tính chất dài hơn thì
ngân hàng có thể cho vay theo hình thức có thể là vượt chi tài khoản với
thời gian dài hơn và kèm theo những điều kiện đảm bảo cho khoản vay đó
hoặc có thể chiết khấu chứng từ có kỳ hạn cố định, các chứng từ này có thể
gọi là các chứng từ tài chính. Về thời hạn thì có thể là tín dụng tuần hoàn để
đáp ứng nhu cầu thường xuyên, hay thời vụ để đáp ứng nhu cầu có tính chất
thời vụ của doanh nghiệp.
1.1.1.3. Tín dụng thuê mua.
Hoạt động thuê mua bắt nguồn từ việc các doanh nghiệp sản xuất hoặc cung
cấp các thiết bị, nhà cửa lớn, thời gian sử dụng lâu dài, mặt khác do người mua
không đủ tiền hay họ chỉ cần sử dụng trong thời gian chưa hết thời gian khấu hao
của thiết bị, do đó dã nảy sinh nhu cầu thu, để mở rộng tín dụng của mình các ngân
hàng thương mại đã mua hoặc thuê các tài sản theo yêu cầu của khách hàng rồi cho
họ thuê lại.
Quá trình của nghiệp vụ cho thuê.
(1) khách hàng làm đơn gửi ngân hàng nêu yêu cầu về tài sản cần thuê sau khi phân

tích dự án và tình hình tài chính của khách hàng, ngân hàng kí hợp đồng với khách
hàng.
(2) Ngân hàng tìm kiếm nhà cung cấp để ký hợp đồng hay người thuê chỉ định nhà
cung cấp.
(3) Khác hàng có thể gặp nhà cung cấp để nêu yêu cầu về quy các, chất lượng tài
sản thuê, nhận tài sản, nhà cung cấp có thể phải cam kết bảo hành cho người thuê.
(3)
(4)
(1)
Ngân hàng (người cho thuê)
(2)
Nhà cung cấp Khách hàng
(4) Ngân hàng kiểm soát tình hình sử dụng tài sản thuê, thu tiền thuê hoặc thu hồi tài
sản nếu thấy người thuê vi phạm.
+ Ngân hàng có thể mua tài sản để cho thuê hay mua tài sản của người đi thuê
sau đó cho chính họ thuê lại hoặc thuê tài sản để cho thuê, trường hợp này được áp
dụng khi mà thời gian trong hợp đồng thuê nhỏ hơn thời gian khấu hao của tài sản,
hay Ngân hàng có thể mua trả góp để cho thuê trong trường hợp Ngân hàng thiếu
vốn.
+ Đặc điểm của nghiệp vụ này là: Ngân hàng cho thuê thường là tài sản cố
định do đó nó là tín dụng trung và dài hạn, thời hạn thuê có 2 phần đó là thời hạn cơ
bản là thời hạn mà người đi thuê không được huỷ ngan hợp đồng do đó tiền mà
ngân hàng thu được phải đủ cả gốc và lãi và thời hạn gia hạn thêm là người đi thuê
có thể trả lại, mua lại, thuê tiếp…, trong nghiệp vụ thuê mua thì Ngân hang không
cam kết bảo dưỡng tài sản, không chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại với tài
sản.
1.1.3.4.Tín dụng tài trợ cho ngoại thương.
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay, hoạt động tài trợ ngoại
thương có vai trò rất quan trọng, nó thúc đẩy thương mại quốc tế, làm giảm rủi ro
cho những nhà xuất – nhập khẩu vì những khó khăn như:địa lý, tôn giáo, chính trị

…các hoạt động ngoại thương gồm:
+ Tài trợ xuất khẩu gồm có các hình thức:
- Tài trợ trong trường nhờ thu kèm chứng từ: là nhà xuất khẩu chuyển các
chứng từ cho Ngân hàng nhờ thu, ngân hàng sẽ chuyển các chứng từ này tới Ngân
hàng cần giao dịch, khi được chấp nhận thanh toán thì nhà xuất khẩu mới giao hàng.
- Nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu: là chiết khấu các hối phiếu kỳ hạn không
thể huỷ ngang khi nó chưa đến hạn và hối phiếu này được bên xuất nhập khẩu
không huỷ ngang.
-Tài trợ trong khuôn khổ chứng từ: là hình thức tín dụng Ngân hàng dựa trên
khuôn khổ chiết khấu bộ chứng từ khi chưa đến hạn thanh toán, tỷ lệ thanh toán dựa
phương thức chiết khấu. Thứ nhất là chiết khấu truy đòi nghĩa là Ngân hàng có
quyền đòi lại nhà xuất khẩu nếu đến hạn mà nhà xuất khẩu không thanh toán do đó
lãi suất thấp. Thứ hai là chiết khấu miễn truy đòi nghĩa là Ngân hàng chịu hoàn toàn
rủi ro nếu phía đối tác không thanh toán khi đao hạn do đó lãi suất cao.
- Tam ứng cho nhà xuất khẩu: Ngân hàng có thể tài trợ bằng cách tạm ứng
một khoản tín dụng cho nhà xuất khẩu trong khuôn khổ. Chủ yếu là trong ngắn hạn,
nó phụ thuộc chủ yếu vào khả năng thanh toán của nhà xuất khẩu và sự nhạy cảm và
đảm bảo về giá cả của hàng hoá.
- Bao thanh toán: về bản chất đây là chiết khấu các khoản phải thu của nhà
xuất khẩu. đối với nghiệp vụ này Ngân hàng mua lại các khoản nợ, thanh toán ngay
cho nhà xuất khẩu, cung cấp các dịch vụ như hạch toán sổ sách, uỷ nhiệm thu, các
khoản sao kê định kỳ. Đây là hình thức tài trợ trong ngắn hạn.
- Chiết khấu nợ dài hạn: đây là hình thức chiết khấu các khoản nợ dài hạn do
xuất khẩu máy móc thiết bị có giá trị lớn mà nhà xuất khẩu bán dưới hình thức trả
góp và Ngân hàng sẽ mua lại khoản nợ này.
+ Tài trợ nhập khẩu:
- Tín dụng dành cho người đạt hàng và hiệp định khung tài trợ nhập khẩu, đây
là hình thức mà Ngân hàng nước xuất khẩu ký hiệp định với Ngân hàng và Chính
phủ nước khác về việc tài trợ cho Ngân hàng và Chính phủ những khoản tín dụng tài
trợ cho việc nhập khẩu hàng hoá, thiết bị công nghệ từ nước tài trợ.

- Tín dụng thuê mua vượt qua biên giới: với hình thức này Ngân hàng cấp cho
doanh nghiệp một khoản tín dụng bằng cách mua hay thuê tài sản ở nước ngoài về
cho thuê lại tài sản tài tại nước mình, do đó người thuê không cần nhiều vốn ngay
mà vẫn được sử dụng những tài sản mình cần cho qua trình sản xuất.
- Cho vay mở L/C: đây là nghiệp vụ mà các nhà nhập khẩu yêu cầu Ngân
hàng mở thư tín dụng sẽ trả tiền cho nhà xuất khẩu theo yêu cầu
Của nhà nhập khẩu khi họ đã trình đủ các chứng từ quy định, như vậy khoản tín
dụng này được bảo đảm bằng bộ chứng từ hàng hoá, tuy nhiên ngân hàng có thể yêu
cầu nhà nhập khẩu phải ký quỹ hay không.
- Tạm ứng cho nhà nhập khẩu: Ngân hàng có thể tạm ứng cho nhà nhập khẩu
khi họ thiếu vốn để thanh toán. Tuy nhiên chỉ trong thời gian ngắn và được bảo đảm
bằng bộ chứng từ hàng hoá.
- Chấp nhận của Ngân hàng: với các hối phiếu có kì hạn sẽ được Ngân hàng
phía người nhập khẩu đóng dấu và chấp nhận thanh toán, khi người xuất khẩu có
nhu cầu về tiền, Ngân hàng nhập khẩu sẽ thanh toán ngay có triết khấu cho bên bán
và giữa lại hối phiếu, hối phiếu có thể được bán hay chiết khấu tại Ngân hàng nhập
khẩu khi đến hạn.
- Tín dụng chấp nhận hối phiếu dành cho nhà nhập khẩu: theo hình thức này
nhà nhập khẩu ký hợp đồng với ngân hàng phục vụ mình trên cơ sở hối phiếu tự
nhận nợ, hối phiếu này do Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu phát hành và chuyển
đến cho nhà nhập khẩu, và nhà nhập khẩu dùng hối phiếu này để chiết khấu nhận
tiền tại Ngân hàng phục vụ mình.
1.2. KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN:
Theo kinh nghiệm của các nước phát triển như Mỹ, Nhật thì khu vực kinh tế
tư nhân có đóng góp vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội cho những
quốc gia này, chẳng hạn như Mỹ là một nước mà nỗi tiếng có nhiều công ty đa quốc
gia nổi tiếng toàn cầu, nhưng đó chỉ là bề nỗi của nền kinh tế mỹ, còn khu vực kinh
tế tư nhân mới là đóng góp lớn cho nền kinh tế Mỹ, quay trở về Việt Nam thì khu
vực kinh tế tư nhân đã hình thành và phát triển khá sớm nhưng do nhiều hoàn cảnh
của đất nước mà khu vực kinh tế này có những lúc đã bị lãng quên trong một thời

gian dài, nhưng do cũng như những nứơc khác trên thế giới, khu vực này ngày càng
khẳng định được vai trò của mình trong nên kinh tế nước nhà, và trong những năm
gần đây đã được Đảng và Nhà nước quan tâm tạo nhiều điều kiện cho khu vực kinh
tế này phát triển.
1.2.1. Chủ trương của Đảng về kinh tế tư nhân.
Khu vực kinh tế tư nhân đã xuất hiện từ trước cách mạng tháng 8, nhưng
khu vực kinh tế này chỉ phát triển mạnh mẽ từ sau cách mạng tháng 8 và đã có
những đóng góp rất lớn cho miền bắc từ năm1955 – 1957 với chủ trương phát triển
kinh tế nhiều thành phần trong đó co kinh tế cá thể và tư bản tư nhân và thành phần
kinh tế này đã có những đóng góp rất lớn cụ thể như: năm 1955 có 51688 cơ sở
công nghiệp tư nhân và tiểu thủ công nghiệp, với số lượng công nhân làm việc trong
các cơ sở đó là 128622 công nhân, và đã tăng 54985 cơ sở và 161241 công nhân
trong năm 1957, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 81,9% giá trị của toàn xã hội.
Từ năm 1958 chuyển sang thời kỳ xây dung chủ nghĩa xã hội, khu vực kinh tế tư
nhân bị xoá bỏ hoàn toàn, tuy nhiên khu vực kinh tế này vẫn tồn tại dưới hình thức
ngầm, khi xây dựng xã hội chủ nghĩa thì tư bản tư nhân bị quan niệm là thành phần
bóc lột do đó bị liệt vào dạng bị cải tạo tuy nhiên về thực tế thì thì thành phần này
vẫn tồn tại ngầm dù họ vẫn tham gia vào hợp tác xã, nhưng khi về nhà thì họ vẫn
làm riêng tính về thu nhập của họ thì khi họ tham gia vào hợp tác chỉ thu được 30
%– 40% thu nhập của họ. Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ và mô hình kinh tế
hợp tác không hiệu quả thì đến đại hội VI của đảng thì khu vực này chính thức
được công nhận trở lại và nó đã có những đóng góp vô cùng to lớn cho đất nước và
hiện nay khu vực nay đang được sự quan tâm đặc biệt của đảng và nhà nước. Và
điều này được thể hiện qua đại hội đảng IX của Đảng, đại hội khẳng định:’’ Kinh tế
cá thể , tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị tri quan trọng lâu dài. Nhà nước
tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển … Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư
nhân rộng rãi trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm, tạo môi trương kinh
doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư nhân phát triển trên những định
hướng ưu tiên của nhà nước … xây dựng tốt quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và
người lao động” .

1.2.2. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam.
Trải qua nhiều thăng trầm cùng với những khó khăn của đất nước, khu vực
kinh tế tư nhân có những lúc được thừa nhận rồi không rồi lại được thưa nhận,
nhưng với định hướng của đảng được khẳng đinh trong đại hội IX của Đảng thì
trong những năm ngần đây khu vực kinh tế này đã có những bước phát triển về mọi
mặt, khu vực kinh tế này đã, đang và sẽ có những đóng góp không nhỏ vào các mặt
kinh tế xã hội của Việt Nam. Và ngày càng khẳng định được chỗ đứng vững chắc
trong nền kinh tế của Việt Nam, và điều này được thể hiện qua những mặt sau:
1.2.2.1. Phát triển về số lượng.
Với sự khuyến khích mạnh mẽ và tạo nhiều điều kiện thuân lợi của Nhà nước
thì khu vực kinh tế tư nhân đã có nhưng đáng kể về số lượng.
Về hộ kinh doanh cá thể: số hoạt động từ 1498611 hộ năm 1992 và tăng lên
2016259 hộ vào năm 1996, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 7, 68%/ năm, mỗi
năm tăng 129412 hộ, từ năm 1996 đến 2000 số lượng hộ kinh doanh các thể hoạt
động tăng châm, từ 1996 là 2016259 lên 213731 hộ năm 2000, tăng bình quân
1,47% /năm, mỗi năm tăng30364 hộ và đến cuối năm 2003 cả nước có khoảng 2,7
triệu hộ kinh doanh, 130000 trang trại và 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá, sở
dĩ có sự giảm về số lượng hộ cá thể là vì nhiều hộ đã chuyển lên thành lập công ty
sau khi đã tích luỹ được trong một thời gian dài và những năm gần đây lại gặp nhiều
điều kiện thuận lợi trong thành lập doanh nghiệp.
Về doanh nghiệp: số lượng các doanh nghiệp tăng được thể hiện qua các năm
như sau: năm 1991 cả nước có khoảng 414 doanh nghiệp, đến năm 1992 là 5189
doanh nghiệp và đến 1995 là 15276 doanh nghiệp, năm 1999 là 28700 doanh
nghiệp, từ khi luật doanh nghiệp đi vào hoạt động 1/1/2000 thì đã tao ra một bước
đột phá trong tăng số lượng các doanh nghiệp, tính từ năm 2000 đến tháng 5- 2004
cả nước có khoảng 93208 doang nghiệp đang ký thành lập mới,gấp hơn hai lần số
doanh nghiếp được thành lập trong thời gian trước đó từ 1991- 1999 chỉ có 45000
doanh nghiệp được thành lập, tính đến cuối 2004 cả nước có khoảng 138208 doanh
nghiệp đang ký thành lập theo luật doanh nghiệp, trung bình hàng năm tăng 3,75 lần
so với trung bình của những năm trước 2000, vể cơ cấu thì tỷ trọng doanh nghiệp tư

nhân trong tổng số doanh nghiệp đang ký giảm từ 64% trong giai đoạn 1991 – 1999
xuống còn 34% giai đoạn 2000 – 2004. Trong khi đó cùng thời gian trên thì tỷ trong
của công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần tăng từ 36% đến 66%, trong 4
năm qua có khoảng 7165 công ty cổ phần thành lập gấp 10 lần so với giai đoạn 1991
-1999. tỷ trong doanh nghiệp tư nhân giảm vì số lượng vố của đa số các doanh
nghiệp thuộc khu vự này là nhỏ, do đó loại hình này thường không được tin tưởng
bằng các loại hình khác hơn nữa các loại hình doanh nghiệp khác có thể hợp vốn
của nhiều người có vốn nhỏ lại thành vốn lớn hơn và sẽ có nhiều vốn hơn để hoạt
động.
1.2.2.2. Phát triển về quy mô vốn, lao động, lĩnh vực và địa bàn.
Với sự ra đời của luật doanh nghiệp đã tạo điều kiện rất nhiều trong việc đăng
ký thành lập mới doanh nghiệp, do đã giảm rất nhiều về giấy tờ cũng như thời gian.
Do đó số lượng doanh nghiệp không những đã tăng lên về số lượng mà số lượng
vốn đang ký kinh doanh cũng tăng lên. như thời kỳ 1991 – 1999 vốn đang ký bình
quân/1 doanh nghiệp là gần 0.57 tỷ đồng, năm 2000 là 0.96 tỷ đồng, năm 2001 là
1.3 tỷ đồng, năm 2002 là 1.8 tỷ đồng và đến tháng 7 năm 2003 là 2.12 tỷ đồng,
doanh nghiệp có vốn thấp nhất cũng là 5 triệu đồng và nhiều nhất là 200 tỷ đồng,
như vậy là số lượng vốn đang ký kinh doanh không ngừng tăng lên qua các năm, số
lượng vốn đang ký mới và mở rộng quy mô tăng mạnh mẽ, cụ thể như sau: năm
2000 số vốn đăng ký mới và bổ sung là 1,3 tỷ đồng ,năm 2001 là 2,3 tỷ đồng, năm
2003 là 3,6 tỷ đồng, và đến hết tháng 5 – 2004 là khoảng 1.8 tỷ đồng.
Về lao động thì số lượng lao động trong khu vực kinh tế tư nhân liên tục tăng lên từ
năm 1996 chỉ giảm vào năm 1997 còn lại đều tăng , so sánh với tổng lao động toàn
xã hội thì khu vực này chiếm tỷ lệ khoảng 11% qua các năm. năm 2000 số lượng
lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân là 4.643.844 người tăng so với năm
1996 được 778.681 người, từ năm 1996 đến năm 2000 tố độ tăng trung bình là
24,5%/năm trong khi đó ở hộ kinh doanh cá thể chỉ tăng bình quân là 2,01%/năm, số
lao động làm việc trong các doanh nghiệp tăng 487459 tăng 137,57%, trong khi đó
các hộ kinh doanh cá thể tăng thêm được 291.222 người tăng 8,29%. Trong khu vực
kinh tế tư nhân thì lao động trong công nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất 2.121.228

người chiếm 45,6%, lao động trong ngành thương mại và dịch vụ là 1753824 người,
chiếm tỷ trọng 37,37%, lao động trong các ngành khác là 786.792 người chiếm
16,94%. Trong những năm gần đây tốc độ tăng vế số lượng doanh nghiệp tăng
nhanh do đó số lượng trong các doanh nghiệp đã tăng, còn tốc độ tăng lao động
trong các hộ kinh doanh cá thể thấp hơn của các doanh nghiệp đó là do số lượng các
hộ kinh doanh cá thể tăng chậm so với các doanh nghiệp.
Về lĩnh vực và địa bàn: khu vực kinh tế tư nhân phần đông là các doanh
nghiệp, đã và đang hoạt động trong hầu hết các ngành nghề mà pháp luật không
cấm, không chỉ hoạt động trong nông nghiệp mà còn trong cả các ngành công
nghiệp, dịch vụ cao cấp như công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, chế biến, công
nghệ thông tin, ngân hàng tài chính, bảo hiểm , tư vấn. Sở dĩ khu vực này có khả
năng hoạt động rộng vì một mặt là có số lương đông và tiềm lực về tài chính ngày
càng được cải thiện do đã tích luỹ quay nhiều năm, một mặt là khu vực này có mặt ở
hầu hết trên lãnh thổ cả nước do đó có thể phát hiện rất nhanh các nhu cầu ở các địa
bàn trên cả nước.
1.2.3. Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân.
1.2.3.1. tạo công ăn việc làm.
Sự đóng góp lớn nhất của khu vực kinh tế tư nhân cho xã hội đó là giải quyết
việc làm cho người lao động, khu vực kinh tế này hàng năm thu hút lao động mới và
từ các doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể chuyển sang, năm 2000 số lượng
lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân là 9,616733 triệu lao động, chiếm
79,89% tổng lao động, trong năm 2003 khu vực nhà nước có 3,858 triệu lao dộng
chỉ chiếm gần 10% lực lượng lao động xã hội và với xu hướng ngày càng giảm số
lao động trong khu cực kinh tế này. Do đó có tới hơn 90% lao động đang làm việc
trong khu vực kinh tế tư nhân, mặt khác hàng năm nước ta có khoảng 1,4 -1,5 triệu
người gia nhập thị trường lao động đó là một sức ép rất lớn đến thị trường lao động
của nước ta, hơn nữa để đầu tư cho một suất lao động ở khu vực tư nhân tốn 35 triệu
đồng, còn ở doanh nghiệp nhà nước là 87,5 triệu đồng như vậy khu vực kinh tế tư
nhân có lợi thế tương đối so với khu vực nhà nước trong việc tao việc làm. Sự phát
triển của kinh tế tư nhân làm tăng sự lựa chọn cho người lao động và người sử dụng

lao động do đó làm tăng sự canh tranh cho thị trường lao động, vì có sự cạnh tranh
nên mỗi một lao động muốn tham gia vào thì trường mà được nhiều người thuê và
có thể thực hiện được mục đích của mình qua việc làm thì họ phải năng cao trình
độ, còn đối với người sử dụng lao động muốn chọn được những lao động như mong
muốn của họ thì họ cũng phải đáp ứng được những yêu cầu của ngươì lao động đặc
biệt là những người lao động có tay nghề cao. Từ đây cũng đặt ra vấn đề đối với
quản lý Nhà nước đối với lao động cũng như đối với các doanh nghiệp trong việc
quản lý lao động ở doanh nghiệp mình, để năng cao năng xuất lao động và tránh
hiện tượng chảy máu chất xám đang xảy ra cả ở phương diện đất nước lẫn các
doanh nghiệp, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân tạo nên sự thay đổi cơ cấu
xã hội đó là việc hình thành giới chủ doanh nghiệp, những người này nếu làm ăn có
hiệu quả, thuê nhiều lao động va không vi phạm pháp luật thì sẽ được nhà nước tôn
trọng. Chính phủ cũng đã chọn ngày 13 tháng 10 hàng năm là “Ngày doanh nhân
Việt nam”, mặt khác khu vực kinh tế tư nhân phát triển cũng làm thay đổi quan hệ
lao động, trước kia quan hệ lao động chỉ chủ yếu là quan hệ giữa nhà nước và người
lao động mà đại diện cho nhà nước là những nhà lãnh đạo do Nhà nước bỏ nhiệm
các vấn đề về lương bổng do nhà nước quy định, khi kinh tế tư nhân phát triển thì
quan hệ lao động được xác lập là giữa người lao động và người sử dụng lao động,
xét về quanh hệ lao động thì trong khu vực kinh tế tư nhân mang tính chất thực tế
hơn, vì các quan hệ lao động đều phải tuân thủ theo luật lao động mà luật lao động
lại do Nhà nước quy định.
1.2.3.2. Đóng góp vào GDP và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Sự phát triển ngày càng lớn mạnh của khu vực kinh tế tư nhân từ khi thực
hiện luật doanh nghiệp, kinh tế tư nhân đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, vốn
đầu tư, quy mô hoạt động, các ngành nghề, góp phần vào việc phục hồi và phát
triển đất nước, tốc độ tăng trưởng công nghiệp qua các năm từ 2000 – 2004 là 20%,
như năm 2001 là 20,3%, năm 2002 là 19%, doanh nghiệp tư nhân đang chiếm một
phần lớn trong các ngành công nghiệp, trong nông nghiệp đã có những đóng góp
nhất định trong trồng trọt và chăn nuôi, đặc biệt là chế biến thuỷ sản, cơ cấu nông
nghiệp đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá góp phần đẩy nhanh quá

trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, tỷ trọng đóng góp
trong GDP năm 2001 là 47,85%, năm 2002 là 42% và năm 2004 là 38,5% tỷ trọng
có xu hướng giảm do năng suất lao động trong khu vực này giảm trong khi các khu
vực khác tăng lên.
1.2.3.3. Về xuất khẩu.
Khu vực kinh tế tư nhân đã có những đóng góp đáng kể vào xuất khẩu của
việt nam, số lượng đang ký tham gia xuất khẩu tăng mạnh năm 1995 có 156 doanh
nghiệp đến 2002 la 13774 doanh nghiệp, khu vực tư nhân tham gia xuất khẩu nhiều
mặt hàng như may mặc, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu … tuy nhiên hoạt động
xuất khẩu của khu vực tư nhân phân bố không đồng đều, chỉ tập trung ở những
thành phố lớn, thành phố trực thuộc Trung ương, điều này đựơc cụ thể là thành phố
hà nội xuất khẩu chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của hà nội và chiếm 7% kim
ngạch xuất khẩu của cả nước, thành phố HồChí Minh là 12%, một số tỉnh có tỷ
trọng khá cao như Hà Giang là 60%, Bình Thuận là 45%, khu vực kinh tế tư nhân đã
làm tăng thêm sư đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu và đã tìm kiếm được nhiều
thị trường để phát triển, năm 2002 khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 48% tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam, hiện nay thì khu vực kinh tế tư nhân đã vượt khu
vực kinh tế nhà nước về xuất khẩu.
1.2.3.4. Đóng góp vào ngân sách.
Đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân vào ngân sách
đang có xu hướng tăng lên, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên 7,4% năm 2002. tỷ lệ này
tương đương với đầu tư trực tiếp nước ngoài là 5,2% và 6% , khoản thu từ thuế
công thương nghiệp và dịch vụ dân doanh là năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng
13% so với năm 2001, doanh số thu từ doanh nghiệp dân doanh chiếm 15% tổng số
thu, tăng 29,5% so với các năm trước.
Đóng góp vào ngân sách của địa phương của các doanh nghiệp danh doanh
lớn hơn nhiều so vớ trung ương, như thành phố Hồ Chí Minh chiếm 15% tổng ngân
sách, Bnh Định là 33%, Thái Nguyên là 17%...
Ngoài ra hiệp hội các doanh nghiệp còn tham gia xây dựng các công trình
phúc lợi xã hội như trường học, đường nông thôn ở các địa phương.

1.2.3.5.Thu hút nguồn vốn đầu tư xã hội.
Với sự ra đời và đi vào hoạt động cảu luật doanh nghiệp thì số lượng các
doang nghiệp đăng ký mới và đang ký mở rộng quy mô sản xuất, từ đó đã huy động
được lượng lớn tiềm lực của nhân dân vào phát triển kinh tế, trong đó năm 2000 đạt
1,3 tỷ USD, năm 2001 là 2,3 tỷ USD, năm 2002 là 3 tỷ USD, năm 2003 là 3,6 tỷ
USD, riêng giai đoạn từ 2000 – 2004 đã cao gấp 4 lần so với thời kỳ 1991- 1999,
trong đó có những tỉnh tăng gấp 10 lần, thậm chí có những tỉnh tăng cao đến 20 lần
như tỉnh Hưng Yên, Quản Ninh…
Từ tốc độ tăng số vốn hoạt động thì tỷ trọng đầu tư của khu vực này cũng tăng
dần qua các năm, cụ thể như tỷ trọng đầu tư của khu vực tư nhân trong tổng đầu tư
của xa hội tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 25,3% năm 2002 và tỷ
trọng này là 27% năm2003 và năm 2004 là 32%, như vậy tỷ trọng đầu tư của khu
vực kinh tế tư nhân đã ngày càng tăng và đã vượt qua tỷ trọng của nhà nước.
Theo dự đoán của bộ trưởng bộ kế hoạch và đầu tư thì đến giai đoạn 2006 –
2010 tổng nhu cầu đầu tư là 130-140 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế tư nhân gồm
cả doanh nghiệp có vốn nước ngoài là khoảng 53%, hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn
của khư vực kinh tế tư nhân cao hơn của khu vực Nhà nước, trong khi một đồng vốn
của khu vực tư nhân tạo ra được 1,66 đồng doanh thu, thì một đồng vốn của các
doanh nghiệp nhà nước chỉ tao ra được 0,71 đồng doanh thu. Mặt khác vốn của khu
vực kinh tế tư nhân còn là vốn đầu tư chủ yếu của địa phương chẳng hạn ở thành
phố Hồ Chí Minh năm 2002 chiếm 38% tổng số vốn toàn xã hội trong khi đó vốn
đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 36,5%.
1.2.3.6. Tạo môi trường kinh doanh.
Sự phát triển ngày càng lớn và mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân, tham
gia vào hầu như tất cả các ngành nghề và moi lực vực, thì khu vực này đã và đang
đóng góp rất lớn trong việc tao ra môi trường kinh kinh doanh, thúc đẩy phát triển
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh quá trình hội nhập.
Sự tham gia ngày càng nhiều vào tất cả các ngang nghề đã tao ra sự cạnh tranh
giữa các thành phần kinh tế, phá bỏ dần tính độc quyền của một số doanh nghiệp
Nhà nước, làm cho các doanh nghiệp phải cải thiện môi trường làm việc, công

nghệ… để nâng cao năng suất lao động, cải tiến sản phẩm …, sự phát triển của kinh
tế tư nhân thì các thị trường bắt đầu hình thành và phát triển mạnh, như là thị trường
hoá dịch vụ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sả, thị trường
hàng khoa học và công nghệ, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế của nước ta.
1.2.4. Hạn chế của khu vực kinh tế tư nhân.
Tuy đã phát triển rất nhanh và phát triển ở mọi nơi và mọi ngành nghề nhưng do
xuất phát điểm thấp, từ các những khó khăn do lịch sử để lại, do điều kiện hoàn
cảnh chung của cả nền kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân cũng còn có nhiều hạn chế.
1.2.4.1. Quy mô vốn.
Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và các hộ kinh doanh cá thể
có nhiều khó khăn về vốn hoạt động, các loại hình doanh nghiệp cá thể có vốn rất
nhỏ, 80,26% các loại hình doanh nghiệp có mức vốn nhỏ hơn 5 tỷ đồng, trông khi
đó đối với doanh nghiệp Nhà nước là 23,03%. Do vốn nhỏ bé nên điều này đã gây
rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân có thể mở rộng
sản xuất kinh doanh và có thể thực hiện được kế hoạch sản xuất của mình, có rất
nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực này có nhiều ý tưởng sản xuất tốt nhưng một
phần do thiếu vốn do đó họ không thể thực hiện được kế hoạch của mình, do hạn
chế về vốn nên họ chỉ tham gia vào các ngành không cần nhiều vốn như là các hoạt
động thương mại ít đầu tư vào sản xuất, vì kinh doanh các hoạt động thương mại
cần ít vốn hơn rất nhiều so với các ngành sản xuất, điều này cũng làm giảm sự phát
triển của các ngành sản xuất, cơ cấu vốn của các doanh nghiệp thuộc khu vực này là
25 – 30 % trong tổng vốn là đàu tư vào tài sản cố định còn 70 – 75% là vốn lưu
động. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của mình các chủ doanh nghiệp hay
chủ hộ phải đi thuê tài sản từ các tổ chức, cơ quan … do đo cơ sở vật chất của họ
không ổn định, do thiếu vốn nên họ thường không có được sự tin tưởng của các đối
tác của mình, và làm ăn theo kiểu manh muốn chộp giật, không có những chiến
lược dài hơi vì thiêu vốn Chỉ có 1/3 doanh nghiệp là được vay vốn ngân hàng, trong
số những doanh nghiệp được vay vốn thì họ chỉ vay được 20 % trong tổng số vốn
của họ còn lại 80% là huy động từ bạn bè, gia đình, vốn bản thân và sử dụng tín
dụng thương mại đối với đối tác kinh doanh, thậm chí là nguồn vốn có mức lãi suất

rất cao, đối với nguồn vốn huy động do sử dụng thì thường các họ phải chi phí
“ngầm” cao hơn chi phí thực tế khi họ thoả thuận, làm tăng chi phí sản xuất.
1.2.4.2. Về chất lượng lao động.
Khu vực kinh tế tư nhân với chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, số lao
động làm việc trong các doanh nghiệp này là rất nhỏ, bình quân mỗi một doanh
nghiệp 1 doanh nghiệp có khoảng 19 lao động, một trong những nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ không phát triển nhanh là do trình độ lao
động của các doanh nghiệp này là thấp, các doanh nghiệp này thiếu nhân lực giỏi,
thường thì lao động không được đào tạo bài bản, có chăng chỉ là các khoa ngắn hạn,
do đó họ kho tiếp thu được những tiến bộ khoa học, cũng như kỹ năng của họ không
cao do đó năng xuất lao động không cao, còn đối với những nhân lực giỏi thì học lại
không mặn mà với những doanh nghiệp này do doanh nghiệp không đáp ứng được
những tham vọng của họ, có những doanh nghiệp mà lao động không qua đào tạo
chiếm tới 100%.
Đối với các hộ kinh doanh cá thể và tiểu chủ thì họ sử dụng lao động trong gia
đình và chỉ thuê rất ít công nhân, phần lớn là không qua đào tạo .
1.2.4.3. Trình độ khoa học công nghệ.
Trong thời đại hiện nay khoa học công nghệ vô cùng quan trọng đối vối mọi
mặt đời sống xã hội, các nước phát triển trên thế giới đã áp dụng thành công những
công nghệ hiện đại vào các hoạt động của mình và đã đạt được những thành quả rất
lớn, xét về mặt băng chung thì trình độ công nghệ của nước ta so với trên thế giới
thì trình độ công nghệ của nước ta có trình độ trung bình thấp, và khu vực kinh tế tư
nhân cũng không là ngoại lệ. Hầu hết các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực
kinh tế tư nhân đang sử dụng các trang thiết bị có trình độ công nghệ trung bình và
lạc hậu so với thế giới, chẳng hạn như ở tỉnh Đồng Nai tỷ lệ là 93%, thành phố Hồ
Chí Minh là 37,7% đang sản xuất bằng thủ công , 43,2% đang sản xuất bằng bán cơ
khi, bán tự động. Trình độ khoa học lạc hậu một phần do mặt bằng chung một phần
do sự thiếu vốn của các doanh nghiệp thuộc khu vực này, họ không có đủ vốn để
mua những công nghệ tiến tiến, mà công nghệ không cao dẫn đến năng suất lao
động không cao dẫn đế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường là

không lớn, kể cả thị trường trong và ngoài nước, mà cạnh tranh là yếu tố cơ bản để
đảm bảo tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, và là yếu tố sống còn của các
doanh nghiệp, sản phẩm họ sản xuất ra có bán được thì họ mới có doanh thu để mà
trang trải phí và có lợi nhuận, hơn nữa các doanh nghiệp đang tồn tại trong một môi
trường cạnh tranh rất khốc liệt như hiện nay.
1.2.4.4. Trình độ quản lý.
Trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp còn thấp. Đa số các chủ doanh nghiệp,
trưởng thành từ thực tiễn và học hỏi qua bạn hàng, ước tính khoảng trên 80% trưởng
thành từ kinh nghiệm thực tiễn chỉ có một số được đào tạo qua trường lớp chính quy
về quản trị doanh nghiệp hay quản lý về kinh tế chung. Khoảng 85% các doanh
nghiệp tư nhân được phát triển trên cơ sở hộ cá thể, 285 chủ doanh nghiệp là cán bộ
nhà nước đã nghỉ theo chế độ.Chính vì quản lý và điều hành dựa vào kinh nghiệm
được tích luỹ, chưa qua đào tạo và không có bằng cấp chuyên môn nên khó khăn
trong việc cạnh tranh, hơn nữa trong điều kiện hội nhập như hiện nay.kiểu kinh
doanh trên sẽ không còn phù hợp do hiện nay nó là rào cản sự phát triển của doanh
nghiệp, chẳng hạn là làm ăn theo lối chộp giật, khó có khẳ năng tiếp thu những cái
mới.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHNT_CN BA ĐÌNH ĐỐI
VỚI KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH BA ĐÌNH.
2.1.1. Quá trình hình thành.
Ngân hàng ngoại thương việt nam được thành lập ngày 1/4/1963 được thành
lập theo quyết định 115/CP ngày 30/10/1962 trên cơ sở tách từ cục ngoại hối ngân
hàng TW nay là ngân hàng nhà nước, hoạt động dưới dự bảo lãnh của ngân hàng
nhà nước là ngân hàng duy nhất được phục vụ kinh tế đối ngoại và hoạt động xuất
nhập khẩu của cả nước. Theo thời gian cùng với sự phát triển về mọi mặt của đất
nước nói chung và của kinh tế nói riêng, ngân hàng ngoại thương việt nam đã có
những chiến lược nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước hiện tại và trong
tương lai, và một trong những chiến lược ấy là mở rộng địa bàn hoạt động của ngân

hàng trên khắp cả nước để đáp ứng các dịch vụ ngân hàng cho nhân dân. Với
phương châm đó ngân hàng ngoại thương chi nhánh cấp I hà nội được thành lập
năm 1985 hoạt động trên một địa bàn là trung tâm tài chính của cả nước, và để đáp
nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng ngày càng tăng, do sự phát triển mạnh mẽ
về kinh tế của cả nước nói chung và của thủ đô nói riêng, cùng với xu hướng ngày
càng nhiều các tổ chức tín dụng quốc tế đã, đang và sẽ vào việt nam, nhất là trong
bối cảnh chúng ta đang chuẩn bị vào WTO, thì việc mở rộng và phát triển mạng lưới
là bước đi quan trọng cho sự phát triển của ngân hàng, chính vì lẽ đó mà ngân hàng
ngoại thương chi nhánh Ba Đình được thành lập ngày 15/9/2004 theo quyết định số
480/QĐ NHNT – TCCB – DT ngày 23/8/2004 là chi nhánh cấp II hạch toán phụ
thuộc vào chi nhánh cấp I Hà Nội.
Địa bàn hoạt động của chi nhánh là trên địa bàn quận Ba Đình và các vùng lân
cận, đây là khu vực tập trung dân cư đông đúc, là một trong các quận trung tâm của
Thủ Đô với các hoạt động kinh tế sôi động là điều kiện thuận lới cho chi nhánh hoạt
động và phát triển.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức.
Theo quyết định số 525/QĐ/ TCCB – DDT ngày 31/10/2001 của chủ tịch hội
đồng quản trị Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, ban phân cấp, uỷ quyền của chi
nhánh cấp I đối với chi nhánh cấp II ngày 19/12/2001 của giám đốc chi nhánh Ngân
hàng ngoại thương Hà Nội, gồm có các phòng sau.
Mỗi phòng đều do một trưởng phòng và một phó phòng điều hành và giúp
việc. đối với mỗi trưởng phòng có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
-Tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm trước giám đốc chi nhánh Ba Đình về
mọi mặt hoạt động của phòng mình
- Xây dựng chương trình kế hoạch và biện pháp thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của phòng mình.
- Có nhiệm vụ tham mưu giúp cho giám đốc trong việc thực hiện các chức
năng nhiệm vụ của chi nhánh. Đề xuất những kiến nghị với chi nhánh ngân hàng
ngoại thương Hà Nội, Ngân hàng ngoại thương trung ương, Ngân hàng Nhà Nước
thành phố,chính quyền địa phương trong quá trình thực hiện các chế độ, chính sách

có liên quan đến phòng mình chiệu trách nhiệm.
- Có trách nhiệm phối hợp với các phòng ban khác của chi nhánh khi sử lý các
vấn đề nghiệp vụ có liên quan.
- Ký trên các giấy tờ, chứng từ , văn bản giao dịch.
Phòng kế toán dịch
vụ ngân hàng
CN cấp II
Ba Đình
Ban
Giám Đốc
Phòng quan hệ
khách hàng
Phòng hành
chính ngân quỹ
- Phối hợp với các tổ chức Đảng, đoàn thể của cơ quan trong việc thự hiện các
chế độ, chính sách quản lý đối với công chức, viên chức. Động viên công chức viên
chức tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua của cơ quan, hoàn thành tốt nhiệm
vụ chính trị, chuyên môn.
- Bố trí và sắp xếp cán bộ của phòng mình cho phù hợp, xây dựng nội quy làm
việc và phương thứ điều hành, có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
- Phân công trách nhiệm cho các phó trưởng phòng và các thành viên trong
phòng.
-Bảo quản các tài liệu và tài liệu mật theo quy định hiện hành.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác khi ban giám đốc chi nhánh giao.
* Nhiệm vụ và quyền hạn của phó trưởng phòng .
- Giúp trưởng phòng điều hành, chỉ đạo một số công việc do Trưởng phòng giao
và chịu trách nhiệm trước trưởng phòng và ban giám đốc chi nhánh về công việc
được phân công.
- Ký thay trưởng phòng trên các giấy tờ, chứng từ, văn bản giao dịch thuộc trách
nhiệm phụ trách, trình ban giám đốc theo sự uỷ quyền của trưởng phòng và theo

đúng sự phân cấp uỷ quyền của giám đốc chi nhánh.
- Khi trưởng phòng đi vắng được thay mặt trưởng phòng giải quyết các cộng
việc chung của phòng và chịu trách nhiệm về các công việc mà mình đã giải quyết.
- Tham gia ý kiến với trưởng phòng trong việc thực hiện các mặt công tác của
phòng theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
* Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban
+ Phòng quan hệ khách hàng.
- Tham gia giúp ban giám đốc để thực hiện các chính sách, chủ trương của Ngân
hàng ngoại thương Việt Nam về tiền tệ, tín dụng, thanh toán xuất nhập khẩu, ngân
hàng…
- Nghiêm cứu, phân tích kinh tế địa phương, giúp ban giám đốc xây dựng
chương trình KH- KT-XH của thành phố, chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Hà
Nội và Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
- Dự thảo các báo cáo sơ kết tổng kết quý, sáu tháng và năm của chi nhánh Ba
Đình để báo cáo chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Hà Nội, giúp ban giám đốc xây
dựng chương trình công tác quý, sáu tháng và năm của chi nhánh.
- Giúp giám đốc về công tác pháp chế cảu chi nhánh Ba Đình và thực hiện
thông tin tín dụng và thanh toán quốc tế.
-Thực hiện nghiệp vụ cho vay và nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu hàng hoá
và dịch vụ với các thành phần kinh tế theo luật của Ngân hàng và luật các tổ chức
tín dụng, mở tài khoản cho vay, theo dõi hợp đồng tín dụng, hồ sơ thanh toán xuất
nhập khẩu và tính lãi theo định kỳ, thanh toán với nước ngoài theo đúng quy định
của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
- Thẩm định và xem xét bảo lãnh đối với những dự án có mức ký quỹ dưới
100%, phát hành thư bảo lãnh đối với nước ngoài kể cả việc mở L/C và thanh toán
L/C trả chậm với mức ký quỷ 100%.
- Quản lý và kiểm tra mẫu dấu đối với các ngân hàng nước ngoài.
- Phối hợp với các phòng xây dựng kế hoạch vốn theo quý, năm.
- Thông báo và lưu giữ tỷ giá mua bán hàng ngày, tỷ giá thống kê tháng, lãi suất
huy động, cho vay bằng VND và bằng ngoại tệ.

- Mua bán ngoại tệ cho các tổ chức kinh tế và cá nhân được phép mua bán ngoại
tệ.
- Thực hiện các báo cáo của phòng do chi nhánh cấp I quy định.
- Thực hiện một số nghiệp vụ khác do ban giám đốc giao.
+ Phòng kế toán nghiệp vụ ngân hàng.
++ Bộ phận thông tin khách hàng.
- Tiếp nhận và mở các hồ sơ khách hàng mới
- Tiếp nhận quản lý và giải quyết các yêu cầu thay đổi về: chủ tài khoản, địa chỉ,
kế toán trưởng, mẫu dấu, chữ ký…
- Tiếp nhận và trả lời các thông tin tài khoản khách hàng: số dư tài khoản, hoạt
động và ra chi tiết liên quan đến tài khoản thông qua nhiều hình thức bao gồm giao
dịch trực tiếp và thông qua các phương tiện thông tin liên lạc.
- In, chấm và trả sao kê, sổ phụ bảng phiếu tính lãi, cấp ấn chỉ cho khách hàng .
- Giải đáp thắc mắc hướng dẫn quy trình nghiệp vụ cho khách hàng, phản ánh
tình hình giao dịch và đề xuất chính sách thu hút khách hàng.
++ Bộ phận dịch vụ khác hàng.
- Xử lý toàn bộ các giao dịch liên quan đến tài khoản tiền gửi cả bằng ngoại tệ
và nội tệ của mọi đối tượng khách hàng với các loại tiền và băng mọi hình thức: tiền
mặt, chuyển khoản, séc.
- Xử lý các nghiệp vụ liên quan đến các tài khoản tiền gửi, tiết kiệm,hỳ phiếu,
trái phiếu cả bằng nội tệ và bằng ngoại tệ.
-Xử lý các nghiệp vụ thanh toán thẻ và phát hành séc Vietcombank.
- Xử lý nghiệp vụ mua, chuyển đổi ngoại tệ, séc du lịch bằng mọi hình thức và
bán ngoại tệ theo hộ chiếu.
- Chi trả kiều hối chuyển tiền nhanh
- Quản lý các đại lý uỷ nhiệm thu hồi.
- Tiếp nhận và kiểm tra tính pháp lý các chứng từ nhờ thu trong nước, nước
ngoài, séc đích danh.
- Trực tiếp thu chi tiền mặt, séc du lịch liên quan đến các nghiệp vụ trên theo
hạn mức giám đốc giao cho.

- Phát hành thư bảo lãnh ( dự thầu hay đấu thầu ) cho khách hàng trong nước ký
quỹ 100% và các hồ sơ bảo lãnh của phòng tín dụng – tổng hợp thẩm định chuyển
tiền đến.
++ Nghiệp vụ chuyển tiền và quản lý tài sản .

×