Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tài liệu Cao huyết áp (Phần 2) pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199 KB, 9 trang )

Cao huyết áp
(Phần 2)

Bệnh nhân cảm thấy như thế nào khi bị huyết áp cao ?
Huyết áp cao đơn giản thường không triệu chứng. Vì vậy cao huyết áp được
mệnh danh là "kẻ giết người thầm lặng ". Nói cách khác, bệnh này có thể diễn tiến
thầm lặng, không triệu chứng cho đến khi xuất hiện biến chứng chết người. Thật vậy,
huyết áp cao không phức tạp có thể tồn tại lặng lẽ nhiều năm thậm chí hàng chục năm.
Ðiều này xảy ra khi không có triệu chứng và chỉ được phát hiện qua tầm soát huyết áp
định kỳ.
Tuy nhiên, vài người bi cao huyết áp không phức tạp có những triệu chứng kinh
nghiệm như: nhức đầu, chóng mặt, thở ngắn và nhìn mờ đi, ruồi bay trước mắt. Sự
hiện diện các triệu chứng này có thể chỉ điểm để người ta đi khám bác sĩ nhằm điều trị
và dễ dàng trong việc sử dụng thuốc.
Tuy nhiên, không phải là không thường xuyên, có người đến bác sĩ đầu tiên vì
đã có tổn thương ở cơ quan. Trong nhiều trường hợp, người ta đến khám, được đưa
đến bác sĩ hay phòng cấp cứu với suy tim, đột quỵ, suy thận hay giảm thị lực (do tổn
thương phần sau của võng mạc). Nhận thức cộng đồng cao hay tầm soát huyết áp
thường xuyên có thể phát hiện những bệnh nhân huyết áp cao không được chẩn đoán
trước khi có biến chứng.
Khoảng 1% dân số huyết áp cao được chẩn đoán là cao huyết áp nặng ngay lần
đầu đến khám (cao huyết áp ác tính). Những bệnh nhân này, huyết áp tâm trương vượt
quá 140mmHg. Người bệnh thường bị đau đầu nhiều, ói mửa, triệu chứng về thị giác,
chóng mặt, đôi khi suy thận. Cao huyết áp ác tính là 1 cấp cứu y khoa và đòi hỏi điều
trị khẩn cấp nhằm ngăn chặn đột quỵ (tổn thương não).
Như đã lưu ý, cao huyết áp mãn tính có thể dẫn đến lớn tim, suy thận, tổn
thương não hay thần kinh và thay đổi võng mạc. Kiểm tra mắt ở bệnh nhân cao huyết
áp nặng có thể phát hiện ra hẹp hay xuất huyết ở động mạch nhỏ tại võng mạc, phù gai
thị. Từ kiểm tra này, bác sĩ có thể phân độ nặng cao huyết áp dựa trên mức độ tổn
thương võng mạc.
Như đã ghi nhận từ trước , những người cao huyết áp tăng độ cứng, hay kháng


lực mạch ngoại biên khắp các mô cơ thể. Kháng lực này tăng làm cho cơ tim làm việc
nặng hơn để bơm máu qua mạch máu đó. Tình trạng tăng hoạt động này làm cho tim
quá tải dẫn đến rối loạn, thường đầu tiên là lớn tim. Tim to có thể đánh giá bằng X-
quang, điện tâm đồ hay chính xác nhất là siêu âm tim. Siêu âm tim đặc biệt có lợi trong
việc xác định độ dày tim trái. Tim lớn có lẽ là dấu hiệu báo trước của suy tim, bệnh
mạch vành hay rối loạn nhịp. Ðiều trị đúng đắn cao huyết áp và biến chứng của nó có
thể khắc phục được những bất thường trên.
Xét nghiệm máu và nước tiểu có lẽ hữu dụng trong việc dò tìm bất thường tại
thận ở người cao huyết áp (Nên nhớ là tổn thương ở thận có thể là nguyên nhân và cả
hậu quả của cao huyết áp). Ðịnh lượng Creatinine huyết thanh có thể khảo sát được
chức năng thận. Nồng độ Creatinine cao bất thường cho thấy có tổn thương chức năng
thận.
Ngoài ra, sự xuất hiện proteine trong nước tiểu (tiểu đạm) có thể phản ánh tổn
thương thận mãn tính do cao huyết áp, ngay khi chức năng thận (qua creatinine máu )
vẫn bình thường. Thật vậy, proteine trong nước tiểu báo hiệu nguy cơ suy giảm chức
năng thận nếu huyết áp không được điều chỉnh. Ngay cả lượng nhỏ proteine
(microalbuminuria) cũng là dấu hiệu đe doạ suy thận do huyết áp cao không kiểm soát.
Những bệnh nhân da đen có huyết áp cao kiểm soát kém có nguy cơ tổn thương cơ
quan đích và thận cao hơn người da trắng.
Huyết áp cao không kiểm soát có thể dẫn đến tổn thương não hay thần kinh bởi
cơn đột quỵ. Ðột quỵ thường do xuất huyết hay huyết khối ở mạch máu nuôi não. Dấu
hiệu và triệu chứng của bệnh nhân (tìm thấy qua khám lâm sàng ) đánh giá tổn thương
thần kinh. Một cơn đột quỵ có thể gây ra suy yếu, ù tai, liệt tay hay chân hoặc khó phát
ngôn hay thị giác. Nhiều cơn đột quỵ nhỏ có thể gây mất trí nhớ. Phòng ngừa tốt nhất
cho biến chứng này hay bất kỳ biến chứng nào là kiểm soát tốt huyết áp.
Cách sống như thế nào có lợi cho điều trị cao huyết áp?
Thay đổi cách sống, ý nhắc đến thay đổi chế độ ăn và luyện tập. Thay đổi này
làm hạ huyết áp cũng như cải thiện được đáp ứng của bệnh nhân đối với thuốc. Chế độ
ăn kiêng bao gồm hạn chế muối và rượu và giảm cân nếu người bệnh bị béo phì. Hiệp
hội tim mạch Mỹ khuyến cáo rằng tiêu thụ muối <6gram/ngày đối với dân số chung và

thấp hơn (<4 gram) đối với những người cao huyết áp. Thực hiện chế độ ăn ít muối <4
gram tức là ta không nên thêm muối vào thức ăn hay lúc nấu nướng. Cũng vậy, lượng
muối trong thức ăn cần được ước lượng theo nhãn mác của các thực phẩm mua sẵn.
Béo phì thường gặp ở bệnh nhân cao huyết áp và tính phổ biến của nó tăng dần
theo tuổi. Thật vậy, béo phì là yếu tố quyết định tăng tỉ lệ mới mắc cao huyết áp theo
tuổi. Béo phì có thể góp phần làm tăng huyết áp theo nhiều cách. Một cách là béo phì
làm tăng cung lượng tim vì tim phải bơm lượng máu nhiều hơn để cung cấp cho mô
thừa. Cung lượng tim tăng này làm tăng huyết áp. Cách khác, những người cao huyết
áp béo phì có kháng lực ngoại biên cao hơn ở khắp cơ thể.
Cuối cùng, béo phì có thể kết hợp với việc thận giữ muối. Giảm cân có thể giúp
phục hồi lại những vấn đề liên quan béo phì đồng thời cũng giảm áp. Người ta đánh
giá là huyết áp có thể giảm 0.32mmHg cho mỗi kilogram (2.2pounds) cân nặng giảm
đi.
Vài người béo phì, đặc biệt là những người rất mập, có hội chứng ngưng thở lúc
ngủ. Hội chứng này có đặc điểm ngưng tạm thời nhịp thở bình thường trong lúc ngủ.
Ngưng thở lúc ngủ có thể góp phần phát triển huyết áp cao trong phân nhóm những
người béo phì này. Ðiều này xảy ra vì các giai đoạn của ngưng thở lặp lại làm thiếu
Oxy. Rồi tình trạng thiếu Oxy này kích thích thận phóng thích adrenalin và các thành
phần liên quan. Cuối cùng, Adrenalin và các thành phần này làm tăng huyết áp.
Một chương trình luyện tập thể lực đều đặn có thể làm hạ huyết áp trong tương
lai xa. Ví dụ hoạt động như chạy bộ, chạy xe đạp hay bơi lội trong 30-45 phút có thể
làm giảm huyết áp xuống 5-15mmHg. Ngoài ra có một mối liên hệ giữa lập luyện với
mức độ huyết áp hạ thấp. Do đó, bạn càng tập luyện, bạn càng hạ thấp huyết áp. Ðáp
ứng có lợi của huyết áp đối với tập luyện chỉ xảy ra với chương trình aerobic (sôi nổi
và duy trì liên tục ). Vì thế bất cứ chương trình tập luyện nào phải được đề nghị và
đồng ý bởi bác sĩ điều trị.
Mục tiêu điều trị cao huyết áp là gì?
Nên nhớ là cao huyết áp thường tồn tại nhiều năm trước khi xuất hiện biến
chứng. Vì vậy có ý kiến là điều trị cao huyết áp sớm trước khi nó gây tổn thương các
cơ quan chính của cơ thể. Do đó, chương trình tầm soát và nâng cao ý thức cộng đồng

để phát hiện sớm cao huyết áp đơn giản là chìa khoá của điều trị thành công. Ðiểm
chính là ngoài điều trị cao huyết áp thành công, bạn có thể giảm được nguy cơ đột quỵ,
suy tim, và suy thận.

×