Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tài liệu Đề tài " Vấn đề chi phí xã hội " - Phần 1 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.96 KB, 12 trang )

Vấn đề chi phí xã hội
The Problem of Social Cost
RONALD COASE
Ronald Coase là giáo sư về hưu danh dự (Professor Emeritus) tại Đại học Luật
Chicago (University of Chicago Law School) và là người đoạt giải Nobel về kinh
tế. Đây là bài báo rút từ Journal of Laws and Economics (Tập san Luật và Kinh tế
) (tháng 10 năm 1960). Một vài đoạn trong bài báo đề cập đến các thảo luận mở
rộng liên quan đến các quyết định pháp luật đã được lược bỏ.
I. VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC NGHIÊN CỨU
Bài báo này đề cập đến hành động của các hãng kinh doanh mà các hành động này
có tác động tiêu cực đến người khác. Một ví dụ tiêu biểu về vấn đề này là khói từ
một nhà máy đã gây ảnh hưởng có hại đến tài sản của những người sống ở xung
quanh nó. Phân tích kinh tế về tình huống đó thường được tiến hành dựa trên
phương diện của sự khác nhau giữa sản phẩm cá nhân và sản phẩm xã hội của nhà
máy, ở đó các nhà kinh tế chủ yếu đi theo cách giải quyết của Pigou trong cuốn
Các nền kinh tế Phúc lợi. Kết luận của loại phân tích này có vẻ thường dẫn hầu hết
các nhà kinh tế đến chỗ muốn chủ của nhà máy phải chịu trách nhiệm cho những
tổn hại do khói mà họ gây ra hay đánh thuế người chủ của nhà máy với mức tùy
thuộc vào mức độ khói thải ra và tương đương với những thiệt hại do khói gây
nên, hay biện pháp cuối cùng là di dời nhà máy ra khỏi khu dân cư (hay ra khỏi
vùng mà khói nhà máy có thể gây ảnh hưởng). Luận điểm của tôi là các biện pháp
được đưa ra đều không thích hợp do chúng có thể dẫn tới những hậu quả không
cần thiết hay thậm chí những hậu quả không mong muốn.
II. BẢN CHẤT QUA LẠI CỦA VẤN ĐỀ
Cách tiếp cận truyền thống có xu hướng che đậy bản chất của việc đưa ra quyết
định lựa chọn. Câu hỏi thường được đặt ra trong trường hợp A có tác động xấu lên
B và quyết định cần được đưa ra là: Chúng ta làm thế nào để hạn chế A? Nhưng
đó là quyết định sai. Chúng ta cần phải giải quyết được bản chất qua lại của vấn
đề. Để tránh ảnh hưởng xấu, B sẽ gây ảnh hưởng xấu tới A. Câu hỏi thật sự cần
đặt ra là: Liệu A có được phép gây hại đến B hay liệu B có được phép gây hại đến
A? Vấn đề là ở chỗ làm sao để tránh được những tác hại nghiêm trọng hơn. Tôi đã


đưa ra ví dụ trong bài báo trước về trường hợp tiếng ồn và rung từ máy móc của
một nhà máy sản xuất bánh kẹo gây phiền hà đến công việc của một bác sỹ. Để
tránh ảnh hưởng xấu đó bác sỹ có thể gây ảnh hưởng lại đối với nhà máy sản xuất
bánh kẹo. Vấn đề mà trường hợp này nêu ra về cơ bản là nó có đáng hay không
khi kết quả của việc hạn chế các phương thức sản xuất được nhà máy bánh kẹo sử
dụng có thể đảm bảo việc khám chữa bệnh tốt hơn tại chi phí của việc cung giảm
của sản phẩm bánh kẹo. Một ví dụ khác là vấn đề các gia súc đi lạc phá hại mùa
màng trên vùng đất của người lân cận. Nếu việc một vài con gia súc đi lạc là điều
không thể trách khỏi thì tất cả sự tăng lên trong việc cung cấp thịt có thể thu được
tại chi phí của việc giảm sút trong cung của mùa vụ. Bản chất của sự lựa chọn đã
rõ: thịt hay mùa vụ. Câu trả lời cần được đưa ra tất nhiên là sẽ không rõ ràng trừ
khi chúng ta biết được giá trị của cái mà chúng ta đạt được cũng như cái mà chúng
ta phải hi sinh để đạt được nó. Một ví dụ khác, giáo sư George J. Stigler đã lấy ví
dụ về sự nhiễm bẩn của một dòng suối. Nếu chúng ta giả định rằng tác hại xấu của
việc ô nhiễm đã giết chết cá ở đó thì vấn đề cần được quyết định là: liệu giá trị của
số cá mất đi là nhiều hơn hay ít hơn giá trị sản phẩm có thể được làm ra do sự
nhiễm bẩn đó. Mọi việc vẫn tiếp diễn mà hầu như không cần nói rằng vấn đề này
cần phải được nhìn nhận dưới góc độ tổng thể và cận biên.
III. HỆ THỐNG GIÁ CHỊU TRÁCH NHIỆM THIỆT HẠI
Tôi định bắt đầu bài phân tích của mình bằng việc xem xét một trường hợp mà hầu
hết các nhà kinh tế đều có thể đồng ý rằng vấn đề sẽ được giải quyết theo cách
hoàn toàn làm mọi người hài lòng: khi gây hại đến người khác các công ty kinh
doanh phải trả toàn bộ tổn thất do họ gây ra và hệ thống giá sẽ làm việc một cách
trôi chảy (nói đúng ra nó có nghĩa hệ thống giá được vận hành miễn phí).
Một ví dụ hay của vấn đề đang được thảo luận là trường hợp gia súc đi lạc phá
hoại mùa màng trồng trên đất của người hàng xóm. Giả sử rằng một người nông
dân và một người nuôi gia súc đang làm việc trên mảnh đất thuộc sở hữu của hàng
xóm. Giả sử thêm rằng, giữa hai mảnh đất đó không có rào chắn và quy mô đàn
gia súc của người nuôi ngày càng tăng thì tổng thiệt hại mà nó gây ra cho mùa
màng của người nông dân càng lớn. Cái gì xảy ra đối với thiệt hại cận biên khi quy

mô của đàn gia súc tăng là vấn đề khác. Nó phụ thuộc vào việc liệu đàn gia súc có
xu hướng đi thành hàng nối đuôi nhau hay là đi lung tung con nọ cạnh con kia, hay
phụ thuộc vào việc đàn gia súc có xu hướng tăng liên tục nhiều hay ít và phụ thuộc
vào nhiều yếu tố tương tự khác nữa. Vì mục đích trực tiếp của mình, chọn giả định
nào về thiệt hại cận biên khi quy mô của đàn gia súc tăng lên là không quan trọng.
Để đơn giản hóa luận chứng, tôi đề nghị sử dụng một ví dụ số học. Tôi sẽ giả định
rằng chi phí hàng năm của việc lập hàng rào cho mảnh đất của người nông dân là 9
đô là và giá trị mùa vụ là 1 đô la một tấn. Tôi cũng giả định rằng mối quan hệ giữa
số lượng gia súc trong một đàn và thiệt hại hàng năm về mùa vụ là như sau:
SỐ LƯỢNG GIA
SÚC TRONG ĐÀN
(BÒ ĐỰC)
THIỆT HẠI HÀNG
NĂM CỦA MÙA VỤ
(TẤN)
THIỆT HẠI MÙA VỤ TÍNH
TRÊN MỘT CON BÒ TĂNG
THÊM
(TẤN)
1 1 1
2 3 2
3 6 3
4 10 4
Giả sử rằng người nuôi gia súc chịu trách nhiệm cho tổn thất mà họ gây ra, chi phí
thêm hàng năm mà người nuôi gia súc phải chịu khi anh ta tăng thêm số lượng gia
súc từ 2 lên 3 con bò là 3 đô la và khi quyết định quy mô của đàn gia súc, anh ta sẽ
tính đến các chi phí này cùng với các chi phí khác của mình. Anh ấy sẽ không tăng
quy mô của đàn gia súc trừ khi giá trị tăng thêm của thịt được sản xuất ra (giả sử
người nuôi gia súc trực tiếp giết mổ gia súc) lớn hơn chi phí tăng thêm ma anh bắt
buộc phải trả, bao gồm cả giá trị tăng thêm của mùa màng bị phá huỷ. Tất nhiên,

bằng việc sử dụng chó, người chăn gia súc, máy bay, đài phát di động và các
phương tiện khác thì số lượng thiệt hại có thể được giảm nhẹ, nhưng các phương
tiện này chỉ được sử dụng khi chi phí dành cho chúng ít hơn giá trị của mùa màng
mà chúng phải bảo vệ để khỏi bị mất. Giả sử chi phí hàng năm để làm hàng rào là
9 đô la, người chăn nuôi gia súc muốn đàn gia súc của mình có 4 con bò hoặc hơn
sẽ phải trả cho việc lắp dựng hàng rào vào bảo quản nó, giả sử rằng các phương
tiện khác đạt được là không rẻ. Khi hàng rào được dựng nên, chi phí cận biên cho
trách nhiệm thiệt hại là 0, trừ khi quy mô đàn gia súc đòi hỏi cần phải có hàng rào
tốt hơn và do vậy tiền chi cho hàng rào sẽ đắt tiền hơn vì nhiều gia súc có khả
năng dựa vào đó cùng một lúc. Nhưng tất nhiên người nuôi gia súc cũng có thể tốn
ít tiền hơn vì không cần phải dựng hàng rào và trả phí tổn do mùa vụ bị phá huỷ vì
theo như ví dụ số học mà tôi đưa ra, với trường hợp 3 hay ít bò hơn.
Có thể nghĩ rằng sự thật khi người nuôi gia súc trả tất cả chi phí cho mùa màng bị
thiệt hại sẽ khiến cho người nông dân tăng diện tích trồng trọt nếu như người nuôi
gia súc đến chiếm diện tích đất lân cận. Nhưng sự việc không phải như vậy. Nếu
như trước đây mùa màng được bán trong các điều kiện cạnh tranh hoàn hảo thì chi
phí cận biên sẽ bằng với giá đối với số lượng đã được trồng, còn bất kỳ sự mở
rộng nào sẽ dẫn tới việc lợi nhuận của người nông dân bị giảm. Trong hoàn cảnh
mới này, sự hiển diện của việc mùa màng bị thiệt hại có nghĩa là người nông dân
sẽ bán ít đi ở thị trường mở nhưng số tiền mà anh ta nhận được cho số lượng sản
phẩm nhất định vẫn không đổi, vì người nuôi gia súc đã trả cho số mùa vụ bị thiệt
hại theo giá thị trường. Tất nhiên nếu ngành chăn nuôi gia súc nói chung có liên
quan đến việc phá huỷ mùa màng thì sự hiển diện của ngành công nghiệp chăn
nuôi gia súc sẽ làm tăng giá của mùa màng có liên quan và nông dân do đó sẽ mở
rộng diện tích trồng trọt. Nhưng ở đây tôi chỉ giới hạn sự tập trung của mình đến
từng nông dân cá thể.
Tôi đã từng nói rằng sự xâm lấn vùng đất lân cận của người nuôi gia súc sẽ không
là nguyên nhân liên quan tới số lượng sản phẩm, hay nói một cách chính xác hơn
là nguyên nhân của số lượng gieo trồng vì người nông dân đã tăng lượng gieo
trồng. Trên thực tế, nếu như người nuôi gia súc có gây ra ảnh hưởng gì thì nó sẽ

làm giảm số lượng gieo trồng. Nguyên nhân của việc này là đối với bất kỳ một
vùng đất canh tác cụ thể nào nếu giá trị mùa vụ bị thiệt hại lớn đến mức tiền thu
được từ việc bán sản phẩm mùa vụ không bị thiệt hại ít hơn tổng số chi phí cho
việc canh tác mảnh đất đó thì người nông dân sẽ có lợi và người nuôi gia súc sẽ
thoả thuận với người nông dân về việc mảnh đất còn lại không cần canh tác. Một
ví dụ số học sẽ minh hoạ rõ ràng cho điều này. Giả sử lúc đầu giá trị mùa vụ thu
được từ việc canh tác một mảnh đất cụ thể là 12 đô la và chi phí phải chịu khi canh

×