Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tìm hiểu tư tưởng chính trị của Mặc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.76 KB, 11 trang )

TÌM HIỂU TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA MẶC GIA
SV: Nguyễn Vĩnh Phong
Lớp: ĐHGDCT13
GVHD: CN. Phùng Ngọc Tiến
Tóm tắt: Bài viết tìm hiểu khái quát về đặc điểm trong tư tưởng chính
trị của trường phái triết học Mặc gia thời kì Chiến Quốc ở Trung Quốc
cổ đại và những dấu ấn mà Mặc gia đã tác động đến các giai đoạn tiếp
theo trong lịch sử triết học Trung Hoa. Đồng thời, bài viết bước đầu chỉ
ra những mặt tích cực và hạn chế mà trường phái triết học này đã một
thời tỏa sáng cùng Nho gia với học thuyết “Kiêm ái” rất nổi tiếng và là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng của trường phái này.
Từ khóa: cơng lợi, kiêm ái, phi công, thượng hiền, tiết dụng.
1. Đặt vấn đề
Nhắc đến Mặc giáo là ta lại nghĩ đến ngƣời sáng lập ra trƣờng
phái này là Mặc Tử, một ngƣời suốt đời tận tụy buôn ba khắp các
nƣớc phục vụ lợi ích cho mọi ngƣời và mong muốn có một xã hội tốt
đẹp. Khơng vì tƣớc lộc, địa vị mà muốn giúp đời “dù mịn trán lỏng
gót mà có lợi cho thiên hạ thì cũng làm” [4, tr.49]. Ngồi những hành
động thực tế thì ơng cũng đƣa ra tƣ tƣởng của mình, nhất là về chính
trị để khun bảo mọi ngƣời yêu thƣơng lẫn nhau. Những tƣ tƣởng
của Mặc Tử (đầu thời Chiến Quốc) cùng với Nho giáo của Khổng Tử
(thời Xuân Thu) đã ảnh hƣởng rất lớn đến xã hội Trung Hoa đƣơng
thời, tuy về sau bị phê phán nhƣng tƣ tƣởng của Mặc Tử lại có những
dấu ấn để đời cho đời sau.
2. Khái quát về Mặc Tử và hoàn cảnh lịch sử xã hội Trung Hoa cổ đại
2.1. Khái quát về Mặc Tử
Mặc Tử (khoảng 479 - 381 TCN), họ Mặc tên Địch là ngƣời
nƣớc Lỗ, xuất thân là hạng bình dân ở đầu thời Chiến Quốc. Có tài
liệu ghi lúc đầu Mặc Tử theo Nho gia, về sau thì lập trƣờng phái riêng.
Ơng là ngƣời có tinh thần cứu đời đầy nhiệt huyết, có tài biện
luận thuyết phục, làm việc nhân nghĩa… nên đƣợc coi là “ngƣời tốt ở


gầm trời muốn tìm cũng khơng thể đƣợc vậy” [1, tr.263]. Ơng có rất
nhiều học trị, mơn đệ nhƣ Cầm Hoạt Ly, Cao Thạch Tử, Công
Thƣợng Quá, Canh Trụ Tử… và đời sau thì có Lý Tƣơng Cần, Ngũ
Hầu, Khổ Hoạch, Đặng Lăng Tử… Ơng thƣờng bảo các mơn đệ đi
qua các nƣớc làm quan, nếu thấy làm điều sai thì gọi về, ơng có thể
bảo các mơn đệ của mình vào tình cảnh nguy hiểm để hồn thành
26


nhiệm vụ mà họ khơng từ một lời, từ đó cho thấy tổ chức của phái này
rất nghiêm minh nhƣ đồn thể chính trị, các mơn đệ tuyệt đối phục
tùng ông, và ông nhƣ là một đảng trƣởng phái này.
Về “Bộ Mặc Tử” của ơng theo Nghệ Văn Chí trong bộ “Hán
thƣ” đời Hán gồm 71 thiên, đến Tống thì trong bộ “Trung Hƣng
Quán” có ghi là 61 thiên, đến nay cịn 53 thiên (chia làm 15 quyển).
2.2. Hồn cảnh lịch sử Trung Hoa thời cổ đại
Cả hai thời Xâu Thu- Chiến Quốc thì xã hội Trung Hoa chuyển
biến liên tục, do Mặc Tử sống ở đầu thời Chiến Quốc, xã hội loạn lạc
và chuyển biến liên tục có nhiều biến cố, chiến tranh xảy ra liên miên
hơn so với Xuân Thu, ở đời Mặc Tử, trên 80 năm có tới chín vụ nhƣ:
Sở diệt Trần, diệt Ngơ, Thái, Kỉ; Việt diệt Cử, Đàm; Triệu, Hàn, Ngụy
diệt Trí Bá;… Do lúc bấy giờ là thời đại đồ sắt trƣớc là ở Ngơ, Việt
tìm ra đƣợc sắt và nói cách khác là phát sinh ra thuật luyện sắt , ngƣời
ta dùng sắt để làm lƣỡi cày, lƣỡi liềm, chiếc đục, rìu và sau này là binh
khí… nhờ đó mà sức lao động giảm, năng suất tăng (vì lƣỡi cày sắt
bén và tốt hơn gỗ, đồng) đào kênh khai thông nƣớc nên cây cối phát
triển tƣơi tốt nhờ đó nơng nghiệp và công nghiệp phát triển, kinh tế
phát triển mạnh hơn so với thời trƣớc (thời Ân dùng lƣỡi cày bằng gỗ,
thời Tây Chu dùng lƣỡi cày bằng đồng đỏ, và cả hai vật liệu này thì
khơng thể cày sâu vào đất đƣợc, chỉ là cào đƣợc lớp mặt phía trên và

làm cho cây cối trồng trọt không thể bén sâu rễ mà tốt đƣợc) thì nhu
cầu mở cõi tăng, địa chủ có quyền, q tộc tăng lên, nơng dân thì bị
bóc lột hơn. Vào thời này, phuông tiện giao thông đƣợc cải thiện, nhu
cầu trao đổi buôn bán ngày càng mạnh hình thành nên những trung
tâm thành thị, đƣờng xá đƣợc xây đắp thêm càng nhiều. Sự cản trở của
biên giới, hàng rào thuế quan làm cho lƣu thơng hàng hóa chậm lại, từ
đó nhu cầu thống nhất Trung Hoa cổ đại ngày càng tăng dẫn đến chiến
tranh xâm lƣợc, xảy ra liên miên và để lại nhiều hậu quả nặng nề do
sử dụng đồ sắt vào chiến tranh bất kể quy luật nào, nào là chém giết tù
nhân bắt đƣợc, chơn sống lính của kẻ thù, thây chất đầy đồng, hiện
tƣợng ngƣời già, trai tráng đi lính và đàn bà trẻ em làm việc nông để
sản xuất giao cho nhà nƣớc hoa lợi phục vụ chiến tranh là điều diễn ra
không quá mới mẻ và bất ngời ở thời này… mà nhờ vậy Trung Hoa cổ
đại sớm đƣợc thống nhất bởi nhà Tần sau này.
3. Nội dung
Chính trị theo tƣ tƣởng của Trung Hoa cổ đại nói chung đó là
sự sắp đặt, lo liệu, quản lý để xã hội có trật tự và kỷ cƣơng. Trong đó,
27


theo Mặc gia thì chính trị là u thƣơng mọi ngƣời và cùng làm lợi
cho nhau, tất cả điều theo sự quản lý của thiên tử từ đó đất nƣớc thống
nhất và trở nên trị. Nhà nƣớc đƣợc xem nhƣ là một đại gia đình, trên
thuận dƣới hịa, thống nhất tƣ tƣởng và yêu thƣơng làm lợi cho nhau.
Đồng thời với những hình thức “chế tài” mà Mặc Tử sử dụng đó là
chế tài về tơn giáo, chế tài chính trị, ngồi ra cịn hình thức chế tài về
mặt xã hội buộc mọi ngƣời phải tuân theo.
Trong suốt tƣ tƣởng chính trị của mình thì Mặc Tử ln đề cặp
đến quan điểm “Kiêm ái” và “Cơng lợi”, đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
và tạo nên dấu ấn riêng trong tƣ tƣởng của ông trong xã hội đƣơng

thời, ông rất chú ý đến hiệu quả của cơng việc trong đó ông đề cặp đến
việc lựa chọn ngƣời hiền tài, nguyên nhân làm cho thiên hạ loạn- trị
và những cách thức sinh hoạt đời thƣờng cũng nhƣ là sinh hoạt chính
trị để đi đến xã hội tốt đẹp nhƣ ông luôn hƣớng tới.
3.1. Quan điểm của Mặc Tử về việc thành lập nhà nước thịnh trị
Việc thành lập nhà nƣớc đƣợc ông đề cặp không phải là nguồn
gốc của việc ra đời và hình thành nhà nƣớc đầu tiên mà là những điều
kiện cần có để thành lập một nhà nƣớc thống nhất thịnh trị cho tồn
thiên hạ.
Theo ơng, ngun nhân làm cho thiên hạ loạn đó là do con
ngƣời khơng tin vào trời- quỷ thần (trời theo Mặc Tử khác so với
Khổng Tử) nên làm điều hại ngƣời, “không làm điều trời muốn mà lại
làm điều trời không muốn, tức là mình dốc xuất trăm họ trong thiên hạ
làm điều gây ra tai họa” [4, tr.391], không yêu ngƣời và đặt lợi ích của
mình lên trên lợi ích của ngƣời và lợi ích chung. Từ đó ơng phê phán
thuyết thiên mệnh tuyệt đối của Khổng Tử, trời- quỷ thần theo ông là
nhằm nhấn mạnh tƣ tƣởng chủ đạo của ông để phân biệt những cái tốtxấu, phải- trái… để làm khuôn phép trong hành vi của con ngƣời, và
răn đe ngƣời trên kẻ dƣới tuân theo.
Do tính chất cai trị cha truyền con nối, vì lợi ích của giai cấp
mình mà cho ngƣời huyết thống kế tục tiếp nối sự nghiệp, nếu đó là
ngƣời hiền tài theo Mặc Tử thì tốt nhƣng vẫn phải theo cơ chế “tuyển
cử”, còn nếu là ngƣời có vẻ bề ngồi phú q, xa hoa, nhƣng lại nhu
nhƣợc khơng đƣợc lịng ngƣời, ngƣời sẽ khơng phục thì sẽ khơng cai
trị đƣợc ngƣời và mn dân trong thiên hạ từ đó thiên hạ sẽ loạn “bề
trên cai trị hễ đƣợc kẻ dƣới đồng tình thì trị, khơng đƣợc kẻ dƣới đồng
tình thì loạn” [4, tr.171]. Từ đó ơng đề cao tính chất thƣợng hiền, lựa
chọn và trọng dụng những ngƣời hiền tài, quân tử phải có nhân nghĩa,
28



hiểu đƣợc mệnh trời và có lịng kiêm ái (lợi ngƣời và yêu ngƣời), phải
hợp lòng dân để đƣợc đƣa lên làm thiên tử làm cho xã hội thái bình và
đó là việc căn bản của chính trị: “ngƣời sang và sáng suốt cai trị kẻ
ngu và hèn thì nƣớc trị; ngƣời ngu và hèn trị kẻ sang và sáng suốt thì
nƣớc loạn” [4, tr.426]. Quả là những điều kiện trên trong xã hội đó thì
giai cấp nơng dân, nơ lệ thì nhiều, ngƣời bề trên thì ít, mà bề trên hạng
dốt thì nhiều thì lấy đâu ra ngƣời hiền tài? nên việc lƣa chọn ngƣời
hiền tài khơng có cơ sở xã hội.
Khi con ngƣời ham lợi, hám danh không yêu ngƣời thì sẽ làm
mọi thủ đoạn để đạt đƣợc mong muốn của mình, nhất là bề trên lợi
dụng quyền để gây chiến tranh thơn tính lẫn nhau, cuộc sống xa hoa
phú quý không tiết dụng trong khi nhân dân vẫn cực khổ chịu đói rét,
lao động cực nhọc, khơng lo việc nƣớc đối với ngƣời trên, lƣời lao
động đối với kẻ dƣới sẽ làm cho cuộc sống sa sút do con ngƣời chỉ
chú ý đến lễ nhạc mà không tiết dụng, tiết táng.
Từ các nguyên nhân làm cho thiên hạ loạn thì Mặc Tử đề ra
quan điểm cho thiên hạ trị và quản lý xã hội thống nhất theo tiêu chí
của ơng, và đây là tƣ tƣởng chủ đạo mà đã đƣợc đề cặp ở phần trƣớc
đó là kiêm ái đi đôi với công lợi là cơ sở của thái bình thịnh trị.
Kiêm ái, theo Mặc Tử khác so với Khổng Tử ở chỗ đó là yêu
mọi ngƣời nhƣ u mình, khơng phân biệt thân sơ, giai cấp quốc gia
dân tộc, (Nho gia thì yêu mọi ngƣời trong gia đình trƣớc rồi mới yêu
ngƣời trong thiên hạ, họ quan trọng hơn ngƣời trong thiên hạ, “kỷ sở
bất dục, vật thi ƣ nhân”: điều mình khơng muốn thì đừng làm cho
ngƣời khác; Pháp gia thì chú trọng đến pháp luật phải nghiêm minh và
phải cho toàn dân hiểu rõ, mọi ngƣời đều bình đẳng trƣớc pháp luật,
quan điểm về nhà nƣớc của pháp gia chú trọng đến sự tập trung quyền
lực, mọi ngƣời điều bình đẳng trƣớc pháp luật, thời biến pháp biến;
Đạo gia với thuyết “vô vi” chủ trƣơng trở về thời kì xa xơi trong lịch
sử xa hơn thời của Mặc Tử, về với xã hội bộ lạc ngun thủy, là quốc

gia nhỏ nơi mà có ít ngƣời sinh sống, không tranh giành với nhau,
không ham muốn tƣ dục, mọi ngƣời sống hiền hành chất phác, thuận
với tự nhiên, có thuyền khơng dùng, có xe khơng đi, cá

Kiêm ái là nhân nghĩa, làm lợi cho ngƣời trong thiên hạ, yêu
ngƣời nhƣ yêu mình, yêu nƣớc ngƣời nhƣ nƣớc mình… từ đó khơng
29


gây ra chiến tranh xâm lƣợc lẫn nhau, xã hội trên thuận dƣới hòa
thuận đồng ý kiến. Nên theo Mặc Tử, “khơng kiêm ái thì thiên hạ
loạn, kiêm ái thì thiên hạ trị” [1, tr.269], vì theo ơng “việc của ngƣời
nhân tức là tạo cái lợi, trừ cái hại cho thiên hạ” [4, tr.374], mà cái hại
lớn nhất là nƣớc lớn chiếm nƣớc nhỏ, kế tiếp là mạnh hiếp yếu. mà
cơng dụng của kiêm ái thì ai cũng đem tai tinh mắt sáng mà trông cho
nhau, đem tay chân khỏe mạnh mà làm lụng, giúp đỡ lẫn nhau, dạy
bảo nhau, ni nấng ngƣời già khơng có con, trẻ em khơng có cha mẹ
để phụng dƣỡng hay dạy dỗ. Biệt Mặc khẳng định u hết thảy mọi
ngƣời, khơng biết ngƣời đó ở đâu thì vẫn yêu đƣợc, cũng nhƣ cha mẹ
thất lạc con, không biết nơi đâu mà vẫn cứ thƣơng yêu chúng.
Chủ trƣơng kiêm ái nhƣng giết kẻ bạo loạn, vậy có phải là kiêm
ái khơng?, theo Mặc tử thì “giết kẻ trộm không phải là giết ngƣời, nên
giết kẻ trộm thì khơng làm hại lịng kiêm ái” [3, tập 1, tr.383] và vẫn
có thể giết kẻ địch nếu họ tấn cơng ta. Ngồi ra, Biệt Mặc cịn sửa đổi
lại kiêm ái ở chỗ kiêm ái là không phân biệt đẳng cấp nhƣ Mặc Tử đã
đề cập nhƣng phải yêu thƣơng bất đầu từ ngƣời thân trong gia đình
trƣớc, sau đó mới là ngƣời trong thiên hạ, là vì lí do họ là ngƣời thân,
quen biết họ trƣớc nên yêu trƣớc là điều tất yếu và rất chú trọng về
tình cảm, xem tình cảm là động lực giúp con ngƣời gần nhau hơn và
trói buộc ngƣời ta.

Để có điều kiện cho thiên hạ thịnh trị, ông chủ trƣởng trừ bỏ cái
hại và chăm lo chú ý đến lợi ích thiết thực, những lợi ích căn bản của
con ngƣời nhƣ ăn, ở, nghỉ ngơi… từ đó hợp lịng dân và đủ tiện lợi để
không tranh giành nhau “cơ giả đắc thực, hàn giả đắc y, lão giả đắc
tức” [7, tập 1, tr.298] (đói có ăn, rét có mặc, mệt đƣợc nghỉ ngơi).
Nhƣng, cái lợi của ông đƣợc hiểu theo nghĩa là góp của cải của
dân vào việc đóng thuyền, làm xe… cho bề trên để họ đi lại, chở vật
thay cho dân việc gánh vác để họ và dân đỡ mỏi vai lƣng… nhƣ thế
mới có lợi cho cả đơi bên. Điều này mâu thuẫn với chủ trƣơng tiết
dụng của ông là chống sự xa xỉ vơ ích, và chằng khác gì cƣớp và bóc
lột của dân. Kiêm ái là gây lợi cho mọi ngƣời và hợp ý trời.
Ngoài kiêm ái cơng lợi thì theo ơng phải theo ngun tắc
“thƣợng đồng và thƣợng hiền”, hai nguyên tắc này đan xen với nhau,
không thể thiếu và rách rời nhau. Thƣợng đồng là dƣới thuận ý trên và
cao nhất là trời, nhƣng trời làm sao cai quản đời sống của bình dân,
của con ngƣời? Nên trời phải “chỉ định” ngƣời hiền tài để làm thiên tử
thay cho trời để quản lý mọi mặt trong xã hội. Trời hay quỷ thần nói
30


chung thì yêu những điều mình yêu và ghét những điều mình ghét…
trong đó có dân, trời thƣơng u dân nhƣ con, nên phải lựa chọn
ngƣời hiền tài, đức độ phải hiểu mệnh trời làm kiêm ái lên làm thiên
tử và thiên tử này phải tránh những điều mà trời- quỷ thần ghét, làm
những điều trời- quỷ thần yêu, trong đó có dân và sẽ tạo đƣợc sự
thống nhất trên thuận dƣới đồng với nhau, thấu tình đạt lý. Trời chỉ
định Thiên tử, nhƣng việc chọn lựa là do ý chí của dân mà ra, cái gì có
lợi cho dân thì làm, khơng lợi khơng làm.
Khi chọn đƣợc ngƣời hiền tài làm Thiên tử thì chính sách cai
trị, quản lý xã hội ra sao? Theo Mặc Tử đó là, khi làm bất cứ việc gì

thì cũng phải hiểu rõ nguyên nhân, công dụng của sự việc để phân biệt
phải trái, thiện ác từ đó mới quản lý đƣợc thiên hạ. Ông đặc biệt chú
trọng đến hiệu quả của công việc và dựa vào “tam biểu”: bản,
nguyên, dụng (trong thiên phi mạng thƣợng) hay “tam pháp”: khảo,
nguyên, dụng (trong thiên phi mạng hạ), ở đây “bản” và “khảo” là
một. Cụ thể nhƣ sau: Bản (khảo) là phải noi gƣơng theo các bậc thánh
nhân xƣa nhƣ vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang… phải “ôn cố tri tân”
[7, tập 1, tr.232] lấy việc trƣớc xét việc sau, noi gƣơng mà làm theo.
Nguyên phải xem xét và quan sát thực hành nhƣ thế nào cho phù hợp
với kinh nghiệm của đa số dân chúng. Dụng là căn cứ vào kết quả ứng
dụng, nếu có lợi cho dân thì làm, và biểu này rất quan trọng.
Phải biết xử phạt – khen thƣởng phân minh, thiên tử không
đƣợc hùa với kẻ dƣới mà phải tán đồng, khi nghe tin thấy điều bất
nghĩa- sai trái hay điều có lợi cho dân thì phải hết sức quan sát và tìm
hiểu cho rõ mới xử phạt khen thƣởng cho hợp lý. Hay bề trên có lỗi,
sai sót thì kẻ dƣới sửa sai, kẻ dƣới có điều oan thì bề trên trừ khử cho
“ngƣời trên nếu có việc ẩn, bỏ sót các lợi, kẻ dƣới có thể biết mà làm
lợi cho; kẻ dƣới mà có oan chứa, hại tích, ngƣời trên có thể biết mà trừ
khử họ” [1, tr.272]. Dƣới phải phục tùng tuyệt đối bề trên, vì đây là
thiên tử đƣợc trời chọn lựa và hợp lòng dân nhằm tán đồng và tình ý
thơng đạt nhau, làm lợi cho nhau, thế nhƣng những điều thiện ác, phải
trái bất nghĩa… điều do thực tế của đại chúng cần lao quyết định.
Khi sử dụng ngƣời hiền tài - chính sách thu hút tài năng làm
việc thì phải theo ba nguyên tắc: tƣớc cao, lộc hậu, quyết đoán ra lệnh.
Cũng theo ý trên, tùy theo khả năng của họ mà tuyển chọn tam cơng,
chƣ hầu, chính trƣởng, thể chế quản lý xã hội trên chế độ tuyển cử nên
lúc đó “trăm họ trong thiên hạ sẽ đồng lòng với thiên tử” [5, tr.535],
phép tắc quản lý trong thiên hạ là của công.
31



3.2. Quan điểm của Mặc Tử về chính sách sinh hoạt chính trị đời thường
Để thực hiện thuyết kiêm ái thì cũng cần phải thực hiện chính
sách xã hội khác nhƣ phi nhạc, tiết dụng, tiết táng, phi công… Đối với
Mặc Tử thì nhạc (bao gồm tất cả các mỹ thuật tạo khoái lạc cho con
ngƣời) chẳng đem lại đƣợc lợi ích gì, bởi lẽ “vơ ích; tốn của tốn sức;
mất thì giờ làm ăn” [4, tr.226]. Nhạc tự nó chẳng tạo ra đƣợc cái ăn,
cái mặc; không làm cho chiến tranh ngƣng lại và chẳng làm khỏi bệnh
lại tốn của tốn sức (bắt dân tạo ra nhạc khí, đặt điệu múa, ngƣời múa,
mà ngƣời múa muốn múa hay múa đẹp thì phải ăn ngon mới có sức
khỏe, mặc đẹp để múa hay…). Chính vì thế mà ơng chủ trƣơng “phi
nhạc”, phê phán nhạc rất mạnh mẽ, cả cuộc đời của ông không dạy và
không nhắc đến khi dạy cho đệ tử của mình về Lễ, Nhạc nhƣ thời
Khổng đã làm.
Về “tiết dụng”, Mặc Tử chủ trƣơng chống sự xa xỉ, vơ ích đối
với các thành viên trong xã hội. Chính sách tiết dụng là một kế hoạch
kinh tế xã hội mà trƣớc đó kể cả Khổng Tử vẫn chƣa nói đến, mục
đích của kế hoạch này là làm cho dân đông và nƣớc giàu “ở trong
nƣớc phải chỉ huy sự sản xuất và phân công cho đúng với mức tiêu
thụ” [7, tập 1, tr.342]. Vì nhƣ vậy sẽ khơng lãng phí sức ngƣời, sức
của và tài sản của dân và mọi ngƣời “dùng tài sản khơng phí phạm,
sức của dân không mệt mỏi” [7, tập 1, tr.342]. Trong xã hội thì cái gì
thêm tổn phí mà khơng thêm lợi cho dân thì thánh vƣơng khơng làm
nhƣ: đóng xe, đồ da, đồ gốm, đồ rèn… hễ cung cấp đủ thì thơi; trong
ăn uống thì no bụng, mạnh khỏe là đƣợc chứ khơng cần ngon và thơm,
đi tìm món ngon vật lạ; trong cách ăn mặc thì đủ ấm vào đơng, mát
vào mùa hè…
Việc tiết táng, đoản táng cũng thế, ông phê phán Nho gia để
tang lâu tới ba năm, suốt ngày chẳng làm đƣợc gì mà cịn tổn hại sức
khỏe, mặt mày xanh xao mờ nhạt, chân tay bủn rủn, khơng thể tự sản

xuất lao động đƣợc mà cịn phải ăn nhờ ngƣời khác… Nên chỉ cần “áo
ba bộ đủ để thịt nát, quan tài dày ba tấc đủ để xƣơng nát, huyệt đào
sâu không tới mạch nƣớc để hơi thối khỏi xông lên, thế thôi. Ngƣời
chết đã chôn rồi thì ngƣời sống khơng rầu rĩ để tang lâu” [4, tr.440441], và cũng chẳng nên để tang hậu hĩ chôn đồ vật, của cải, trâu bò,
và cả ngƣời theo ngƣời chết. Nếu trong thƣợng hiền thì Mặc Tử đƣa
dân lên ngang quý tộc, thì trong “tiết dụng”, “phi nhạc” Mặc Tử đƣa
quý tộc xuống ngang dân, quý tộc có thể tự sản xuất chứ khơng thể
bóc lột nhân dân.
32


Tuy chủ trƣơng tiết dụng, nhƣng Mặc Tử cũng bộc lộ những
hạn chế trong tƣ tƣởng của mình: ơng khuyến khích mọi ngƣời lao
động siêng năng nhƣng ít cho nó hƣởng thụ, cứ khuyến khích sản xuất
ra của cải mà ông chẳng hề nói đến hay cho phép ngƣời tiêu dùng.
Trong chích sách sử dụng thƣợng hiền cũng thế, rằng phải tƣớc cao,
hậu lộc, nhƣng câu hỏi đặt ra ở đây là hậu lộc đó đƣợc khen thƣởng để
dùng vào việc gì khi ơng ln khuyến khích phi nhạc, tiết dụng?
Trong thiên “Phi công”, Mặc Tử kịch liệt phản đối chiến tranh,
và “chủ trƣơng trừ hại cho thiên hạ, giết kẻ bạo loạn” [7, tập 1, tr.301].
Với ông, chiến tranh chẳng có lợi cho cả đơi bên, “quốc gia khởi việc
binh đao, đoạt cái dùng của dân, làm hỏng cái lợi của dân, việc nhƣ
thế xảy ra rất nhiều”, “sinh hoạt ở thời chiến, chỗ ở không đƣợc yên,
ăn uống thất thƣờng khi no khi đói, trăm họ bị tật bệnh mà chết chẳng
thể đếm xuể, cịn qn lính bị chết trên trận cũng chẳng đếm xuể
đƣợc” [4, tr.565]. Việc xuất binh cũng không phù hợp với thời tiết
mùa vụ: mùa đơng thì lạnh, mùa hè thì nóng, mùa xn thì dân cày
cấy, mùa thu thì thu hoạch, nếu vậy thì chẳng khác nào đƣa dân vào
chỗ chết? Với lại, phải huy động mọi lực lƣợng có thể để tham gia vào
cuộc chiến nhƣ: ngƣời, của cải, gia súc… mà khi về nƣớc thì tiêu điều

hết thảy.
Tuy lên án chiến tranh, nhƣng Mặc Tử lại đề cao chiến tranh
chính nghĩa hay chiến tranh tự vệ, xây dựng thành quách để để bảo vệ
đất nƣớc, mở rộng phạm vi vũ trang hịa bình, kêu gọi các nƣớc chƣ
hầu đồn kết với nhau cùng lo và cùng giúp đỡ lẫn nhau khi bị đe dọa
xâm lƣợc hay xâm lƣợc về sức ngƣời, sức của… Nếu các nƣớc mạnh
hiếp yếu, cậy cƣờng quyền mà xâm lƣợc nƣớc nhỏ yếu thì đó là tàn ác
và bất nghĩa, nhƣ thế sẽ trái với ý trời và sẽ bị trừng phạt.
4. Đánh giá sơ bộ về tƣ tƣởng chính trị của Mặc gia
Những tƣ tƣởng chính trị của Mặc Tử về kiêm ái, phi nhạc, tiết
táng, phi cơng… ít đƣợc các học trị của ơng bàn tới sau khi ông mất
mà tập trung nhiều vào các vấn đề về tri thức luận, về khoa học
thƣờng thức thông qua sách Mặc Kinh. Tuy không phát triển rực rỡ
nhƣ giai đoạn trƣớc và vấp phải những hạn chế nhất định, song nhìn
chung Mặc gia, trong suốt quá trình tồn tại của nó đã có những đóng
góp nhất định với quá trình vận động của hệ tƣ tƣởng phong kiến
Trung Hoa.
Vì xuất thân trong giai cấp bình dân nên Mặc Tử đã bảo vệ
quyền lợi cho giai cấp mình và đề cao nhân dân, lao động. Khuyến
33


khích mọi ngƣời giúp đỡ lẫn nhau khơng phân biệt thân sơ, giai cấp,
chăm lo lợi ích cho con ngƣời, phê phán tính chất cha truyền con nối
(của Khổng Tử) đang diễn ra rất mạnh ngay thời ông đang sống và
mạnh dạn chủ trƣơng tuyển chọn ngƣời hiền tài thông qua cơ chế
tuyển cử để làm Thiên tử một cách triệt để. Đây là tƣ tƣởng tiến bộ
của ông về hình thức dân chủ thời bấy giờ. Tuy vẫn cịn mang tính
chất duy tâm, nhƣng những tƣ tƣởng của ơng đã phê phán thuyết định
mệnh gay gắt, khẳng định vận mệnh của con ngƣời tự quyết định ở

chữ “tự cƣờng”, họa phúc do con ngƣời tạo ra và quyết định lấy, bên
cạnh đó thì vẫn có yếu tố duy vật.
Với học thuyết của mình ơng lên án chiến tranh, ca ngợi hịa
bình, muốn xây dựng lại xã hội Đại Vũ nhà Hạ mặc dù đó là xã hội
thời trƣớc ơng. Với tƣ tƣởng của thời đại chất phác sơ khai nhƣng tƣ
tƣởng của ông vẫn để lại dấu ấn cho đến ngày nay nhƣ vấn đề dân chủ
là một điều hiếm gặp lúc bấy giờ, tƣ tƣởng đó đã tạo nền tảng cho
nhiều triết gia về sau định hƣớng tƣ tƣởng và chính sách đặc biệt là
phƣơng Đơng, trong đó có Việt Nam.
Mặc Tử cũng thấy đƣợc vai trị của việc tập trung sản xuất kinh
tế tạo điều kiện tiền đề cho sự ổn định tình hình trong nƣớc, từ đó
nƣớc sẽ trị, khi nƣớc trị và thực hiện kiêm ái, liên kết các nƣớc lại với
nhau nhằm chống lại sự bành trƣớng đe dọa của các nƣớc khác, đặc
biệt là nƣớc lớn.
Bên cạnh những đóng góp nhất định trong tiến trình vận động
của hệ tƣởng Trung Hoa nói riêng và phƣơng Đơng nói chung, nhƣng
học thuyết của Mặc Tử cũng không tránh khỏi những hạn chế của lịch
sử lúc bấy giờ.
Mặc tử dù không tin vào mệnh trời, nhƣng Mặc Tử lại rơi vào
lập trƣờng duy tâm khi tin ở trời, tin vào quỷ thần mà khơng có căn cứ
xác đáng, chỉ dựa vào thời xƣa thuật lại. Hơn nữa, trong học thuyết
của mình, ơng u cầu ngƣời dân phải phục tùng vào Thiên tử một
cách tuyệt đối. Ông cũng chủ trƣơng sống khắc khổ và muốn khôi
phục lại xã hội nguyên thủy nhà Hạ là điều không thể vì ơng chƣa thấy
đƣợc nhu cầu tất yếu về tiến bộ, về văn minh xã hội, chƣa thấy đƣợc
sự vận động tự thân của sự việc… nếu không sẽ đi trái ngƣợc lại.
Thuyết kiêm ái của ông phần giống với tƣ tƣởng của Khổng
Tử, nhƣng Mặc Tử thì khơng chú trọng tình cảm gia đình, kể cả tình
cảm thầy trị mơn đệ vì lẽ đó mà ơng bị Mạnh Tử bảo là khơng có tình
cha con là vậy, về sau đƣợc phái Biệt Mặc sửa lại gọi là thuyết “luân

34


liệt” yêu thƣơng mọi ngƣời nhƣ nhau không phân biệt nhƣng yêu
ngƣời trong gia đình trƣớc.
Những tƣ tƣởng chuẩn mực cả về đạo đức và chính trị bị pha
trộn của một bên là lực lƣợng siêu nhiên (trời, quỷ thần) và một bên là
con ngƣời. Đồng thời ông cũng không thấy đƣợc nhu cầu của con
ngƣời mà theo ông là do giới cầm quyền quyết định (nhƣ Văn Công
nƣớc Tấn u thích những ngƣời mặc áo xấu, nên tồn dân mặc áo
vải, giày thô…), rõ ràng ông đã thủ tiêu mọi tự do của con ngƣời trong
việc lựa chọn sở thích của họ, những ngun tắc khơng phụ thuộc vào
ý muốn của ngƣời cầm quyền mà phụ thuộc vào đời sống hiện thực
của các hành động và của ngƣời dân. Thấy sản xuất của cải vật chất là
nền tảng quyết định đời sống xã hội nhƣng thuyết kiêm ái, tiết dụng
của ông dƣờng nhƣ đã bác bỏ, rằng con ngƣời cũng có nhu cầu, thích
hƣởng lợi và khi có điều kiện thì hƣởng thụ.
Ơng q đề cao thánh nhân, phải noi gƣơng theo thánh nhân,
nhƣng thánh nhân nào bắt con ngƣời, thần dân của mình chịu cực khổ
nhƣ thế đƣợc?, vì hồn cảnh lịch sử va điều kiện kinh tế xã hội của các
thánh nhân lúc đó là lạc hậu, sơ khai hơn rất nhiều so với thời của Mặc
tử (thời kỳ đồ sắt) năng suất cao hơn, phát triển hơn thì con ngƣời cũng
phải thay đổi về sự tiêu dùng hơn. Có lẽ thánh nhân buộc dân chúng
thời đó tiết dụng giống Mặc bây giờ là do điều kiện còn eo hẹp, buộc
con ngƣời phải sản xuất lao động nhiều hơn, có mà khơng đƣợc ăn, để
lo cho đất nƣớc?, nếu kinh tế thời của thánh nhân nhƣ thời của Mặc thì
chắc họ cũng khơng tiết dụng q mức giống nhƣ Mặc đã nêu.
5. Kết luận
Nhìn chung, học thuyết của Mặc Tử có đơi nét trùng với Khổng
Tử, tuy vẫn cịn hạn chế nhất định nhƣng vân có những điểm tích cực

và đƣợc thời đại ngày nay cơng nhận. Với học thuyết của mình thì
Mặc Tử là một trong những đóa hoa đẹp rực sáng trong rừng hoa của
thời đại “bách gia tranh minh” bởi vì những dấu ấn cả về hành động
và tƣ tƣởng của ông đƣợc mọi ngƣời đánh giá cao kể cả kẻ thù của
mình, một ngƣời luôn lao tâm lao lực yêu thƣơng mọi ngƣời và ƣớc
muốn xây dựng xã hội lý tƣởng tốt đẹp.

35


Tài liệu tham khảo
[1]. Dỗn Chính (2003), “Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ
đại”, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội.
[2]. Vũ Đình (1998),”Đạo đức học phương Đơng cổ đại”, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[3]. Phùng Hữu Lan (2006), “Lịch sử triết học Trung Quốc, Tập
1&2”, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[4]. Nguyễn Hiến Lê (1995), “Mặc học (Mặc Tử và Biệt Mặc)”, Nxb.
Văn hóa, Hà Nội.
[5]. Phạm Quýnh (2000), “Bách gia chư tử - Giản thuật”, Nxb. Văn
hóa thơng tin, Hà Nội.
[6]. Hồ Thích (2004), “Trung Quốc triết học sử đại cương, Tập 1 &
2”, Minh Đức dịch, Nxb. Văn hóa thơng tin, Hà Nội.
[7]. Nguyễn Đăng Thục (1997),”Lịch sử triết học phương Đông - Tập
1”, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.

36




×