Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

(Bài thảo luận môn đường lối) Tìm hiểu chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của đảng trong thời kỳ đổi mới. Anh chị cho biết kết quả bước đầu thực hiện chủ trương đó của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.08 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
---o0o---

BÀI THẢO LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài: “Tìm hiểu chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế của đảng trong thời kỳ đổi mới. Anh chị cho biết kết quả
bước đầu thực hiện chủ trương đó của Việt Nam”

Nhóm thực hiện

:2

Mã lớp học phần

: 2064RLCP0111

Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Thị Lan Phương

HÀ NỘI – 2020
1


MỤC LỤC
Lời mở đầu............................................................................................................2
I. Một số vấn đề lí thuyết..................................................................................3
1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế............................................................3
1.1.Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế.............................................................3
1.2.Khái niệm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế............................................3
1.3.Khái niệm tích cực hội nhập kinh tế quốc tế...............................................3


2. Vì sao Việt Nam phải hội nhập kinh tế quốc tế thời kì đổi mới................4
II. Chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thời kì đổi mới 7
1. Chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tại đại hội VIII
(6/1996) ..............................................................................................................7
2. Chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tại đại hội IX
(4/2011) ..............................................................................................................8
3. Chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tại đại hội X
(4/2006) ............................................................................................................10
4. Chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tại đại hội XI
(1/2011) ............................................................................................................13
5. Chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tại đại hội XII
(1/2016) ............................................................................................................15
III. Kết quả bước đầu thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế thời kì
đổi mới .............................................................................................................16
2


1. Thành tựu đạt được....................................................................................17
2. Ý nghĩa của các thành tựu đạt được bước đầu........................................20
3. Hạn chế, nguyên nhân và giải pháp..........................................................22
IV. Kết luận........................................................................................................26

LỜI MỞ ĐẦU
Trong suốt công cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, cứu nước, Đảng luôn
là ngọn đèn sáng dẫn lối đưa dân tộc ta từng bước đến chiến thắng. Sau khi giành được
độc lập, Đảng ta lại một lần nữa chứng tỏ vai trị của mình, tiếp tục đưa đất nước từng
bước phát triển.
Những hậu quả sau chiến tranh vô cùng nặng nề, để vực dậy tình hình kinh tế lúc
bấy giờ thì những chính sách thay đổi nền kinh tế trong nước là không đủ. Việt Nam
cần phải mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và quốc tế vừa để duy

trì quan hệ hịa bình vừa tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế.
Nhờ thực hiện chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, những năm qua, tiến trình
hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đạt một tầm cao mới. Tiến trình hội nhập quốc tế đã
góp phần quan trọng nâng tầm thế và lực cho Việt Nam trong phát triển kinh tế - xã hội
và nâng cao thu nhập cho người dân; tạo sức ép và điều kiện để tích cực hồn thiện thể
chế kinh tế; nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản
phẩm… Tuy nhiên, tiến trình hội nhập cũng mang lại nhiều thách thức đối với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Để tìm hiểu thêm về vấn đề này, nhóm 2
chúng em xin trình bày bài nghiên cứu của mình về “chủ trương tích cực, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế của đảng trong thời kỳ đổi mới”. Từ đó đề xuất một số
nhiệm vụ của tồn Đảng, tồn dân trong cơng cuộc hội nhập này.
Trong q trình chuẩn bị, bài viết cịn nhiều thiếu sót, mong cơ giáo giúp đỡ để
chúng em hồn thiện bài của mình hơn nữa”.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

3


I. Một số vấn đề lí thuyết
1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
I.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
- Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ
chức hợp tác kinh tế khu vực và tồn cầu thơng qua các biện pháp tự do hóa và mở cửa
thị trường trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương, trong đó mối quan
hệ giữa các nước thành viên có sự ràng buộc theo những quy định chung của khối.
Theo cách hiểu chung nhất “Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình đi liền với
tồn cầu hóa kinh tế mà trọng tâm là mở cửa kinh tế, tham dự phân công, hợp tác quốc
tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả của nguồn lực trong nước và bên ngồi, mở rộng
khơng gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể được
trong quan hệ kinh tế quốc tế”.

- Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình liên kết các nền kinh tế
với nhau. Điều này được thể hiện ở tính thống nhất giữa yếu tố chủ quan (sự chủ động
tham gia, điều chỉnh đường lối, chính sách đối ngoại của các chính phủ, các quốc gia)
và các yếu tố khách quan (xu thế tồn cầu hóa kinh tế).
Lúc này các nước chủ động mở cửa, thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại,
dịch vụ và đầu tư, thực hiện luân chuyển vốn, kỹ thuật, công nghệ, lao động giữa các
nền kinh tế nhằm nâng cao sức cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế cuả từng nền kinh tế
trong mơi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng thống nhất.
1.2. Khái niệm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chủ động quyết định đường lối,
chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, không để rơi vào thế bị động; phân tích, lựa chọn

4


phương thức hội nhập đúng, dự báo được những tình huống thuận lợi và khó khăn khi
hội nhập kinh tế quốc tế.
1.3. Khái niệm tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
- Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới
bên trong, từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn; từ trung
ương đến địa phương doanh nghiệp; khẩn trương xây dựng mơ hình, kế hoạch, hồn
chỉnh hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh
tế; tích cực, nhưng phải thận trọng, vững chắc.
2. Vì sao Việt Nam phải hội nhập kinh tế quốc tế thời kì đổi mới
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát
triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc. Các
nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng khoảng sâu sắc. Đến đầu những năm 1990, chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc
tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thê giới thứ hai trên cơ sở hai
khối đối lập do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu (trật tự thế giới hai cực) tan rã, mở ra

thời kỳ hình thành một trật tự thế giới mới. Các quốc gia, các tổ chức và lực lượng
chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức
hành động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của thê giới. Tất
cả đều cùng hướng tới xu thế chạy đua phát triển kinh tế.
Nước ta cũng đặt vấn đề chống tụt hậu về kinh tế lên hàng đầu. Do hậu quả nặng
nề của chiến tranh và các khuyết điểm chủ quan, nền kinh tế nước ta lâm vào khủng
hoảng nghiêm trọng. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là một trong những thách thức
lớn đối với cách mạng Việt Nam. Để thu hẹp khoảng cách, ngoài việc phát huy tối đa
mọi nguồn lực trong nước, cần tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, trong đó, mở rộng
và tăng cường hợp tác kinh tế, tham gia vào cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng. Những đặc điểm, xu thế và yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan điểm và hoạch định chủ
trương, chính sách đối ngoại thời kì đổi mới.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải mở rộng các thị trường
quốc gia, hình thành thị trường khu vực và quốc tế thống nhất. Đây là động lực chủ

5


yếu thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói
chung.
Trong bối cảnh hiện nay, khả năng chiến tranh và xâm lược về quân sự, lãnh thổ
là ít xảy ra, cả thế giới đang trong xu thế tồn cầu hố và khơng một quốc gia nào có
thể đứng ngồi. Do đó, độc lập tự chủ trong bối cảnh hiện nay tập trung cao vào độc
lập tự chủ về kinh tế. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế
có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng
kinh tế độc lập tự chủ.
Thật vậy, hiện nay nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới có mối liên hệ phụ
thuộc ngày càng chặt chẽ thì sự liên kết, hội nhập giữa các quốc gia này là điều hồn
tồn tất yếu. Q trình đó diễn ra ngày càng mạnh mẽ dưới tác động của xu thế tồn

cầu hố, khu vực hố, quốc tế hố nền kinh tế và sự phân công lao động quốc tế diễn
ra ngày càng sâu. Trong thời đại mới này khơng thể có một quốc gia nào lại tồn tại
được nếu khơng có bất cứ một sự liên hệ nào với thế giới bên ngồi và cũng khơng có
quốc gia nào có nền kinh tế phát triển mà lại khơng có nhiều sự liên kết hợp tác với
các quốc gia khác. Hội nhập là quy luật tất yếu khi lực lượng sản xuất ngày càng phát
triển. Chính vì thế, trong thời đại mới này hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu
khách quan.
Có thể thấy, hội nhập kinh tế quốc tế mang lại rất nhiều lợi ích, những lợi ích chủ
yếu mà các nước có thể tận dụng được như:
- Quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và các
quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội.
- Hội nhập cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện mơi
trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp; đồng thời, làm tăng khả năng thu hút đầu
tư vào nền kinh tế.
- Giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học công nghệ quốc
gia, nhờ hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước và tiếp thu
công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ từ các
nước tiên tiến.
- Làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế,
nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.
6


- Hội nhập tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận
và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngồi, từ đó có cơ hội phát triển và tìm k iếm
việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
- Tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và
xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất

nước.
- Giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế giới, làm
giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một xã
hội mở, dân chủ hơn, và một nhà nước pháp quyền.
- Tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc
tế, giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng như khả năng duy trì an ninh, hịa
bình và ổn định để phát triển.
- Hội nhập giúp duy trì hịa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các nước tập
trung cho phát triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của
các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung của khu vực và thế giới.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế gắn liền với xu thế tồn cầu hố đang
diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế và không bị gạt
ra ngồi quỹ đạo phát triển chung đó, các nước đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế
chung, ra sức cạnh tranh kinh tế với sự tồn tại và phát triển của mình.
Phát triển kinh tế đối ngoại là một yêu cầu tất yếu trong giai đoạn hiện nay. Bản
chất của nền kinh tế mở chính là có yếu tố nước ngoài trong hoạt động sản xuất và
kinh doanh và điều này đòi hỏi chúng ta phải chủ động hội nhập kinh tế với thế giới.
Bên cạnh đó, chúng ta có rất nhiều lí do để đưa tới quyết định từ bỏ nền kinh tế
khép kín chuyển sang nền kinh tế mở đồng nghĩa với việc chúng ta phải chủ động và
tăng cường hội nhập kinh tế:
- Nước ta vẫn là nước đang phát triển, nền kinh tế vẫn chưa thốt khỏi nhiều
yếu kém, lạc hậu. Chính vì thế, xây dựng hệ thống kinh tế mở ngày càng trở nên cấp
bách cả trước mắt và lâu dài.

7


- Mở cửa, xây dựng nền kinh tế có sự gắn kết với bên ngoài là chủ trương lớn
và lâu dài của ta, không những phải tăng cường giao lưu trong nước mà phải hết sức

chú ý đến việc mở rộng, kết hợp hài hòa giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài
- Hội nhập kinh tế là tất yếu khách quan trong thời đại hiện nay. Đặc biệt quan
trọng hơn khi với nước ta sức mua của người dân còn thấp, rất nhiều tiềm năng chưa
được khai thác triệt để. Ví dụ như:
+ Nguồn nhân lực và con người: người VN có mặt mạnh là thơng minh, sáng tạo,
có khả năng nắm bắt nhanh khoa học kỹ thuật, có khả năng thích ứng được với tình
huống phức tạp. Hơn nữa, giá công nhân thấp cũng là tiềm năng quan trọng. Mặc dù
vậy, nhưng tỉ lệ thất nghiệp của chúng ta không thấp so với các nước khác.
+ Vấn đề về tài nguyên biển: những thế mạnh phát triển du lịch, thủy hải sản
chưa được phát huy hết, vẫn còn nhiều bờ biển bỏ hoang,...
+ Tài nguyên thiên nhiên phong phú nhung chưa khai thác hợp lý, khoa học cơng
nghệ cịn kém phát triển dẫn đến hiệu quả khai thác cịn thấp...
Hội nhập kinh tế chính là cơ hội cho chúng ta để tăng tốc độ và hiệu quả kinh tế
góp phần đưa nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp. Trong bối cảnh hiện nay,
việc tiếp tục nghiên cứu, vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong cơng tác
đối ngoại của Đảng càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
II.Chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thời kì đổi mới
1. Chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tại đại hội VIII
(6/1996)
Đại hội lần thứ VIII của Ðảng họp từ ngày 28/6 đến 1/7/1996 tại Thủ đơ Hà Nội.
Ðại hội có sự tham dự của 1.198 đại biểu, thay mặt cho 2,13 triệu đảng viên trong cả
nước.
Ðại hội có nhiệm vụ tổng kết 10 năm tiến hành cơng cuộc đổi mới tồn diện đất
nước, 5 năm thực hiện Nghị quyết Ðại hội VII của Ðảng, đề ra mục tiêu, phương
hướng, giải pháp thực hiện đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bổ sung,
sửa đổi Ðiều lệ Ðảng. Chủ đề của Đại hội VIII là: “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”

8



Đại hội VIII đã xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác nhóm
đối tác như: ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ
chức ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi
trọng quan hệ với các nước bạn vè truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát
triển và các trung tâm kinh tế - chính trị thế giới; đồn kết với các nước đang phát
triển, với Phong trào không liên kết; tham gia tích cực và đóng góp cho hoạt động của
các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế.
Sau đại hội VIII, các hoạt động kinh tế đối ngoại được đẩy mạnh, nước ta đã tăng
cường quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước
láng giềng, các nước bạn bè truyền thống; tham gia tích cực các hoạt động thúc đẩy sự
hợp tác cùng có lợi trong Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và Diễn đàn hợp
tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); tăng cường quan hệ với các nước phát
triển và nhiều nước, nhiều tổ chức khu vực và quốc tế khác; có quan hệ thương mại
với hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ, thu hút được
nhiều nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.
Đảng ta tiếp tục củng cố tình đồn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản và công
nhân, các phong trào độc lập dân tộc và tiến bộ trên thế giới; thiết lập quan hệ với các
đảng cầm quyền ở một số nước. Các đồn thể nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội,
uỷ ban hồ bình và các hội hữu nghị đẩy mạnh ngoại giao nhân dân cả về quy mơ và
địa bàn, góp phần tích cực vào thắng lợi của Đảng và Nhà nước ta trên mặt trận đối
ngoại.
So với đại hội VII, chủ trương đối ngoại của đại hội VIII có các điểm mới:
- Chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác
- Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ
chức phi chính phủ
- Lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương thử
nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài
2. Chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tại đại hội IX

(4/2011)
Ðại hội lần thứ IX của Ðảng họp từ ngày 19/4 đến 22/4/2001, tại Thủ đô Hà Nội,
với sự tham gia của 1.168 đại biểu, đại diện cho hơn 2,47 triệu đảng viên trong cả
nước.
9


Tại Đại hội IX (2001), Đảng đã nhận định: Thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện, từ năm 1986 – 2001, đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực, trong đó
đặc biệt là đất nước đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội…
Từ đó, Đảng nhấn mạnh việc “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập
tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đặc biệt, trên cơ sở đánh giá đầy đủ “lực” và
“thế” của đất nước sau 15 năm đổi mới, Đại hội IX đã phát triển phương châm “Việt
Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hịa bình, độc lập
và phát triển” của Đại hội VII thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”.
Với phương châm này, lần đầu tiên Đảng ta đề ra chủ trương “xây dựng quan hệ
đối tác” trong đường lối đối ngoại đánh dấu bước phát triển về chất tiến trình quan hệ
quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Nhận thức được tầm quan trọng của hợp tác kinh tế quốc tế nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành
Nghị quyết số 07-NQ/TW “về hội nhập kinh tế quốc tế” nhằm nhanh chóng đưa Việt
Nam vào các thể chế kinh tế, trước hết là Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA)
sau đó là Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trên tinh thần “phát huy tối đa nội
lực”, kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của các lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thông qua Nghị quyết số 7, Đảng đã nêu ra 2 nội dung
lớn là tình hình thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và nội dung hội nhập
kinh tế quốc tế.
Về tình hình thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng đã khẳng định

chủ trương ''Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả bền vững''. Thực hiện
đường lối, chủ trương trên đây của Đảng trong đại hội VIII (1996), những năm qua
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại:
- Đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
- Thu hút được một số lượng đáng kể vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) và
viện trợ phát triển chính thức (ODA)

10


- Tiếp thu được nhiều thành tựu mới về khoa học, công nghệ và kỹ năng quản lý
từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và nền kinh tế vào mơi trường cạnh
tranh, góp phần tạo lập tư duy kinh tế mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, q trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa qua cũng bộc lộ nhiều mặt
yếu kém:
- Công tác hội nhập kinh tế quốc tế mới được triển khai chủ yếu ở các cơ quan
trung ương và một số thành phố lớn, sự tham gia của các ngành, các cấp, của các
doanh nghiệp còn yếu và chưa đồng bộ
- Chưa hình thành được một số kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế
quốc tế, một lộ trình hợp lý thực hiện các cam kết quốc tế
- Doanh nghiệp nước ta nói chung cịn ít hiểu biết về thị trường thế giới và luật
pháp quốc tế.
- Năng lực quản lý cịn yếu, trình độ cơng nghệ cịn lạc hậu
- Mơi trường kinh doanh ở nước ta còn yếu kém về nhiều mặt. Đội ngũ cán bộ
làm cơng tác kinh tế đối ngoại cịn thiếu và yếu,…
Về nội dung hội nhập kinh tế, trong Nghị quyết số 07, Đảng đưa ra mục tiêu mở
rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trước mắt là thực hiện thắng lợi những
nhiệm vụ nêu ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2005 và Kế hoạch 5
năm 2001-2005. Quán triệt chủ trương được xác định tại Đại hội IX là: ''Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu
qủa hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa bảo vệ
lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ mơi
trường''.
Đảng khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, là quá trình
vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội và khơng ít thách thức
do đó cần khơn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập. Ngồi ra
cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh,
quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm
củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội
nhập để thực hiện ý đồ ''diễn biến hoà bình'' đối với nước ta. Bên cạnh đó, Nghị quyết
11


đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Đây là Nghị quyết có tầm quan trọng đặc biệt, là “kim chỉ nam hướng dẫn chúng
ta trên con đường hội nhập, một con đường khơng ít chơng gai mà chúng ta phải vượt
qua và nhất định vượt qua để giành lấy cơ hội cho phát triển”.
3. Chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tại đại hội X
(4/2006)
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X, được gọi chính thức là Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ X, là đại hội lần thứ mười của Đảng cộng sản Việt Nam được tổ
chức từ ngày 11/8 đến ngày 25 tháng 4 năm 2006 tại Hà Nội với sự tham gia của
1176 đại biểu, đại diện cho 3,1 triệu đảng viên, đã tham dự lễ khai mạc.
Chủ đề của Đại hội là: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện cơng cuộc đổi mới, sớm đưa

nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển". Với nội dung chính là: Mở rộng quan hệ đối
ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế:
- Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hồ bình, hợp tác và
phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
- Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững mơi trường hịa bình, tạo các
điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã
hội, cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức
quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực;
giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hịa bình; tơn trọng lẫn
nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

12


- Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, các phong
trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ với
các đảng cầm quyền.
- Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động, linh
hoạt, sáng tạo và hiệu quả". Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân
thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức
phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội.
- Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối

thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền.
Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân
chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tơn giáo" hịng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt
Nam.
- Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với
các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước
làm mục tiêu cao nhất.
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến
lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt
các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương.
Thúc đẩy quan hệ hợp tác tồn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước
châu Á - Thái Bình Dương... Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin
cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những
thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
- Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ
sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định và minh
bạch. Cải thiện môi trường đầu tư; thu hút các nguồn vốn FDI, ODA, đầu tư gián tiếp,
tín dụng thương mại và các nguồn vốn khác. Xác định đúng mục tiêu sử dụng và đẩy
nhanh việc giải ngân nguồn vốn ODA, cải tiến phương thức quản lý, nâng cao hiệu
quả sử dụng và có kế hoạch trả nợ đúng hạn; duy trì tỉ lệ vay nợ nước ngồi hợp lý, an
tồn.
- Phát huy vai trị chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát
13


triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới. Khuyến khích các doanh
nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư
ra nước ngồi.

- Đẩy mạnh cơng tác văn hố - thơng tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp
tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước.
- Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại
vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức
và phẩm chất tốt.
- Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham
gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
- Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước
đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng,
ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại;
đối ngoại, quốc phịng và an ninh; thơng tin đối ngoại và thơng tin trong nước.
4. Chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tại đại hội XI
(1/2011)
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI, được gọi chính thức là Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI được khai mạc vào ngày 12/01/2011 tại Hà Nội và bế mạc
vào ngày 19/01/2011.
Chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế chính là chính sách ngoại
giao của nước ta. Tuy nhiên đường lối này được thay đổi từ: “Chủ động, tich cực hội
nhập kinh tế quốc tế” sang “ Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”. Đây chính là chủ
trương của Đại hội Đảng lần thứ XI ( tháng 1/2011), là đừng lối ngoại giao thứ tư sau
khi Việt Nam đổi mới - Chủ trương này được coi là khá thành cơng khi thực hiện vào
năm 2011 và 2012 trịn lĩnh vực đối ngoại.
Đại hội Đảng tồn quốc khóa XI là Đại hội được tiến hành trong thời kỳ đất nước
đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 10
năm 2011-2020 và kế hoạch phát triển 5 năm 2011-2015. Cũng trong thời kỳ này (năm
2010) kinh tế thế giới đang rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, chủ trương “Chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” khơng cịn phù hợp nữa. Đồng thời các nước Đông
Nam Á đang tiến bước tới một cộng đồng ASEAN năng động và phát triển, có quan hệ

14



ngày càng sâu rộng với các đối tác lơn và giữ vai trò nòng cốt trong việc phát triển khu
vực.
Với mục tiêu đặt ra rõ ràng ngay từ đầu là: hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố
mơi trường hịa bình, tranh thủ tối đa để phát triển đất nước một cách nhanh chóng
nhưng phải bền vững, nâng cao đời sống nhân dân. Ngồi ra cịn phải quảng bá hình
ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng
hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự
nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nhờ vào mục tiêu rõ ràng, nhờ vào việc chấp hành nghiêm chỉnh mà chúng ta đạt
được những thành tựu nhất định trong các lĩnh vực:
Đối với ngoại giao chính trị (2013) đã thiết lập thêm 5 quan hệ đối tác chiến lược
và 2 quan hệ đối tác toàn diện, ngồi ra cịn mở rộng mối quan hệ đối với các nước bạn
bè truyền thống ở khu vực châu Phi, Mỹ La tinh. Điều này giúp kinh tế nói riêng và
hầu hết các ngành của nước ta phát triển vượt bậc về mọi mặt.
Đối với ngoại giao kinh tế thì nhà nước ngày càng đẩy mạnh cơng tác vận động
chính trị, ngoại giao, tạo thuận lợi cho quá trình đàm phán các Hiệp định thương mại
tự do then chốt và công nhận quy chế kinh tế thị trường, tranh thủ ODA thu hút FDI.
Tiếp tục đàm phán 6 Hiệp định khu vực và vận động thêm được 14 nước công nhận
quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam. Cuối cùng là kịp thời đấu tranh với các hành
vi bảo hộ, phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại, góp phần bảo vệ nhiều mặt hàng
xuất khẩu….
Đối với ngoại giao đa phương thì tiếp tục đẩy mạnh xây dựng cộng đồng
ASEAN, củng cố đoàn kết và tăng cường vai trò của bản thân trên trường khu vực và
quốc tế, tham gia các hoạt động của Liên hợp quốc đồng thời là lần đầu tiên được bầu
vào Ủy ban liên Chính phủ.
Ngồi ra cịn trun truyền quảng bá nâng cao hình ảnh vị thế của Việt Nam trên
trường thế giới, Vận động UNESCO cơng nhận nhiều di sản văn hóa của đất nước
thành di sản văn hóa thế giới, bảo vệ vững chắc được chủ quyền của dân tộc, đặc biệt

là trên biển Đông. Quan tâm, hỗ trợ, bảo hộ cho các đồng bào Việt Kiều xa quê khi họ
gặp khó khăn hay rủi ro khơng mong muốn.
Thành tựu đối ngoại 5 năm khẳng định sự đúng đắn của đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa,
15


đa phương hóa, “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” mà Đại hội Đảng lần thứ XI
đã đề ra. Các thành tựu đối ngoại đó là kết quả nỗ lực chung của tồn bộ hệ thống
chính trị, với sự tham gia và phối hợp tích cực, chủ động của các bộ, ban, ngành, các
địa phương, các doanh nghiệp và nhân dân, dưới sự chỉ đạo tập trung, trực tiếp của Bộ
Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội Đảng tồn quốc khóa XI là Đại hội xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 và
Kế hoạch phát triển 5 năm 2011-2015. Hòa vào dòng chảy chung của thế giới hướng
đến thời kỳ tăng trưởng bền vững sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Việt Nam cũng
bước vào triển khai chiến lược tăng trưởng mới, hướng tới mục tiêu phát triển nhanh
và bền vững nhằm đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giữ vững mơi trường hồ
bình, ổn định và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ sự nghiệp phát triển bền vững
của đất nước, đối ngoại Việt Nam cần phát huy cao độ những thành tựu đã đạt được,
khắc phục những mặt tồn tại, triển khai các hoạt động đối ngoại chủ động, mạnh mẽ và
toàn diện cả song phương và đa phương.
5. Chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tại đại hội XII
(1/2016)
Định hướng hội nhập quốc tế được nêu trong Văn kiện Đại hội XI được Văn kiện
Đại hội XII cụ thể hóa bằng những quan điểm chỉ đạo cụ thể gồm:
- Thứ nhất, phải bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của tồn dân và cả hệ
thống chính trị.
- Thứ hai, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt

chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất
nước.
- Thứ ba, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải
tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế.
- Và thứ tư, hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo,
xử lý linh hoạt mọi tình huống, khơng để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi.
Cụ thể, trong 5 năm tới, hội nhập kinh tế quốc tế tập trung vào quá trình triển
khai các cam kết đã ký kết; hội nhập trong lĩnh vực chính trị tập trung vào việc đẩy
mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trị
16


quan trọng đối với an ninh và phát triển của đất nước, đưa khuôn khổ đã xác lập đi vào
thực chất; hội nhập trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh tham gia các hoạt động hợp tác
ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hịa bình của Liên hợp quốc, diễn tập chung và
các hoạt động khác; và hội nhập trong lĩnh vực văn hóa - xã hội tập trung vào việc áp
dụng và tham gia xây dựng các bộ tiêu chí phục vụ xây dựng nền kinh tế trí thức, con
người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc.
Đặc biệt, văn kiện Đại hội XII đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển công tác đối
ngoại đa phương, đặt ra yêu cầu mới: công tác đối ngoại đa phương không chỉ phải
chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia,” nhất là vào quá trình xây dựng
và định hình các quy tắc và luật lệ mới, mà còn phải phát huy vai trò của Việt Nam tại
các cơ chế đa phương. Định hướng này cũng chỉ rõ các cơ chế đa phương được ưu tiên
trong 5 năm tới là ASEAN và Liên hợp quốc.
Công tác đối ngoại đã ngày càng trở nên đa dạng và tồn diện, địi hỏi sự tham
gia của tồn bộ hệ thống chính trị, tất cả các bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp và cả
người dân. Điều này làm cho yêu cầu xây dựng và hoàn thiện cơ chế thống nhất quản
lý công tác đối ngoại, công tác xây dựng và nâng cao năng lực hội nhập ngày càng trở
nên quan trọng hơn, và nhu cầu giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong bối cảnh hội

nhập cũng đã trở nên bức thiết hơn.
Nhiệm vụ mới đang đặt ra yêu cầu là các cán bộ đối ngoại càng phải có lập
trường tư tưởng vững chắc, yêu nước và trung thành với Đảng và dân tộc. Đặc biệt,
cán bộ đối ngoại cũng phải hiểu biết rất rõ tình hình đất nước, các yêu cầu và nhiệm vụ
cách mạng trong giai đoạn mới để định hướng cơng việc của mình. Đồng thời, cán bộ
đối ngoại phải có bản lĩnh và năng lực ngang tầm nhiệm vụ, và nhất là phải có kiến
thức và kỹ năng thực sự chuyên nghiệp trên các mặt, nhất là chính trị quốc tế, kinh tế
và luật pháp quốc tế, ngoại ngữ và nghiên cứu để có thể hoạt động có hiệu quả trong
cả mơi trường đối ngoại song phương và đa phương. Trong thời gian tới, các nhà ngoại
giao Việt Nam phải đạt trình độ chuyên nghiệp chí ít bằng mức các đồng nghiệp
ASEAN. Đây là những yêu cầu và thử thách mới không hề nhỏ đối với cán bộ đối
ngoại trong thời gian tới.
Các cán bộ ngoại giao trẻ càng phải cố gắng nhiều hơn nữa. Đó là vì việc trau dồi
tư tưởng lập trường chính trị, nâng cao kiến thức, tinh thần và tác phong chuyên
17


nghiệp là một quá trình phấn đấu lâu dài và bền bỉ thường xuyên theo nguyên lý
“lượng biến thành chất”. Theo đó, kiến thức và kỹ năng phải được tích lũy, bản lĩnh
phải được thử thách từ trong công việc hàng ngày. Đặc biệt, các cán bộ ngoại giao trẻ
còn phải đề cao nhiệt huyết, tinh thần năng động, đổi mới, dám nghĩ dám làm của tuổi
trẻ để nhanh chóng trưởng thành trong cơng việc, đóng góp sức trẻ vào sự phát triển
của ngành đối ngoại trong tình hình mới.
III. Kết quả bước đầu thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế thời
kì đổi mới
1. Thành tựu đạt được
Qua gần 35 năm thực hiện triển khai đường lối, chính sách của Đảng về hội nhập
kinh tế quốc tế trong thời kỳ đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan
trọng. Việc mở cửa nền kinh tế đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, góp phần khơng nhỏ để duy trì tốc độ tăng trưởng cao hàng năm của nền kinh

tế Việt Nam.
Nhìn tổng quát, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã xúc tiến với
bước đi khá vững chắc và đạt được kết quả bước đầu rất đáng khích lệ. Trước hết, Việt
Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia và khu vực, trở thành thành
viên của các tổ chức kinh tế, thương mại chủ chốt, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả hơn.
- Việt Nam đã thiết lập quan hệ kinh tế, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị
trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song
phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh
thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các
tổ chức quốc tế.
- Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào tiếp tục có nhiều bước phát triển mới theo
hướng thực chất hơn, phát huy thế mạnh và tiềm năng của mỗi nước, bình đẳng, cùng
có lợi. Hiện nay, Việt Nam là một trong những đối tác kinh tế hàng đầu của Lào với
tổng vốn đầu tư đăng ký gần 4 tỷ USD, kim ngạch thương mại hai chiều đạt gần 1 tỷ
USD.
- Quan hệ Việt Nam - Campuchia được thúc đẩy, hợp tác kinh tế tiến triển thuận
lợi, đến 2011 kim ngạch thương mại hai chiều đã đạt gần 2 tỷ USD.

18


- Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phát triển nhanh và toàn diện. Hợp tác kinh
tế, thương mại Việt - Trung tăng trưởng nhanh, hiện mậu dịch hai chiều đã vượt 30 tỷ
USD. Việc hai nước ký hiệp ước về biên giới trên đất liền, các hiệp định về phân định
Vịnh Bắc Bộ và hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ tạo điều kiện thuận lợi xây dựng
biên giới hai nước thành đường biên giới hồ bình, ổn định lâu dài để phát triển.
- Sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Việt Nam thiết
lập quan hệ với Mỹ, kí hiệp định Khung với Liên minh châu Âu. Có thể nói, duy trì
bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Mỹ không chỉ mang lại

ý nghĩa thiết thực cho Việt Nam, mà việc này sẽ giúp các nước bước tiếp vào chặng
đường mới, cùng chung tay xây dựng hòa bình, ổn định lâu dài để phát triển đất nước,
tiến tới phát triển khu vực và trên thế giới. Với Hiệp định thương mại năm 2000 và
năm 2006, Mỹ thiết lập Quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR)
với Việt Nam, đánh dấu việc bình thường hố hoàn toàn quan hệ song phương giữa hai
nước, tạo thuận lợi cho Việt Nam gia nhập WTO. Năm 2011, kim ngạch mậu dịch hai
chiều vượt 18 tỉ USD, hiện Mỹ xếp thứ 6 trong số 85 nước và vùng lãnh thổ có đầu tư
ở Việt Nam. Mỹ hiện đang là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
- Đối với Liên bang Nga, Việt Nam đã chủ động đề ra những biện pháp nhằm
duy trì và thúc đẩy quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Hai nước đã xác lập mối quan
hệ đối tác chiến lược (2001), cùng với một loạt các hiệp định về hợp tác kinh tế thương mại, khoa học kỹ thuật, dầu khí, khuyến khích và bảo hộ đầu tư, tổ hợp cơng
nơng nghiệp. Gần đây, kim ngạch buôn bán giữa hai nước và đầu tư của Nga vào Việt
Nam có chiều hướng tăng, hiện kim ngạch mậu dịch đã vượt 1,7 tỷ USD.
- Việt Nam và Ấn Độ có bước phát triển thể hiện sự tin cậy lẫn nhau với bản ký
Tuyên bố chung về Đối tác chiến lược mới (7/2007). Từ năm 2007 đến nay, Ấn Độ đã
lọt vào nhóm 10 nước có vốn đầu tư lớn nhất ở Việt Nam, đồng thời Việt Nam cũng
trở thành nước tiếp nhận FDI lớn nhất từ Ấn Độ ở Đông Nam Á.
- Việt Nam tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế với Nhật Bản. Hiện nay
Nhật là bạn hàng lớn nhất, là nước cung cấp viện trợ phát triển nhiều nhất và đầu tư
lớn ở Việt Nam. Nhật Bản tiếp tục là nước viện trợ phát triển (ODA) song phương lớn
nhất cho Việt Nam với tổng giá trị đạt 14 tỷ USD, trong đó 1,5 tỷ USD là viện trợ
khơng hồn lại.

19


Bên cạnh sự phát triển quan hệ với các nước, Việt Nam cũng năng động tham gia
các tổ chức quốc tế.
Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như
Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội

nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng
việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định
hợp tác kinh tế đa phương.
Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đơng Nam Á
(ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ
1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá về hành động trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam. Nhận thức rõ vị trí của ASEAN, sau khi gia nhập tổ
chức, Việt Nam đã ngày càng tham gia tích cực và đầy đủ vào mọi hoạt động của
ASEAN và các định chế kinh tế, tài chính thương mại của ASEAN như: Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực đầu tư ASEAN (AIA); ký Hiệp định khung với
EU (1995); tham gia Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn APEC
năm 1998. Các nước ASEAN hiện có hơn 1 nghìn dự án đầu tư triển khai ở Việt Nam,
với số vốn đầu tư trên 13 tỉ USD.
Việt Nam cũng có trên 120 dự án đang triển khai ở các nước thành viên ASEAN
với tổng vốn gần 1 tỷ USD. Mặt khác, Việt Nam còn tham gia với tinh thần trách
nhiệm vào các cơ chế hợp tác đa phương của ASEAN với các đối tác bên ngoài như:
ASEAN+1, ASEAN+3, Hợp tác Á - Âu (ASEM), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á…
Với Liên minh châu Âu (EU), Việt Nam đã ký với hầu hết các nước EU Hiệp
định khung về hợp tác, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh
đánh thuế hai lần... tạo cơ sở pháp lý cho xây dựng và phát triển mối quan hệ hợp tác
ổn định, lâu dài. Tháng 11/1990, quan hệ giữa Việt Nam với cộng đồng châu Âu (EC)
được chính thức thiết lập, làm tăng kim ngạch thương mại xuất nhập khẩu, thu hút vốn
đầu tư vào Việt Nam lên tới 598 triệu USD (năm 1990) và 4.041 triệu USD (năm
1994).
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi
quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức
này. Tính riêng trong giai đoạn 2007-2010, là giai đoạn sau khi gia nhập WTO, xuất
20



khẩu tăng bình quân 14% năm, nhập khẩu tăng bình quân 11% năm. Đến năm 2011,
theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 96,3 tỷ
USD là là mức cao nhất từ trước tới nay, tăng 33,3% so với kỷ lục đạt được trong năm
2010. Đồng thời, mức nhập siêu của năm 2011 là mức thấp nhất trong vòng 5 năm
qua.
Một thành tựu nổi bật là Việt Nam đã thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài
khá lớn, trước hết là FDI. Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao chính thức với
175 nước, có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, thu hút được
hơn 10 nghìn dự án FDI từ 85 nước và lãnh thổ với tổng số vốn đăng ký hơn 160 tỷ
USD. Nhiều nhà đầu tư lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia đã và đang đặc biệt quan tâm
đến Việt Nam. Tại các Hội nghị tư vấn tài trợ cho Việt Nam, tổng cam kết tài trợ liên
tục tăng với các kỷ lục mới, năm 2006 đạt hơn 4,4 tỷ USD, năm 2007 đạt 5,42 tỷ USD,
năm 2009 đạt trên 8 tỷ, các năm 2010-2011 tổng cam kết tài trợ vẫn duy trì ở mức cao.
Đây là sự thể hiện niềm tin và sự tín nhiệm của cộng đồng tài trợ quốc tế đối với Việt
Nam, đồng thời phản ánh quyết tâm cao độ của Việt Nam trên đường cải cách và phát
triển.
Mặt khác, với việc mở rộng quan hệ kinh tế trong quá trình hội nhập, nước ta
ngày càng năng động tiếp thu khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào
tạo một đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh. Hội nhập kinh tế quốc tế còn
đưa lại một thành tựu đáng chú ý là từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và
cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, tạo tư duy làm ăn mới, thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
2. Ý nghĩa của các thành tựu đạt được bước đầu
Việt Nam có sự chuyển mình mạnh mẽ, vượt qua khủng hoảng kinh tế, trở thành
nước đang phát triển có thu nhập trung bình tiến tới đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế nhờ sự đóng góp to lớn của tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế toàn diện của Việt Nam. Đây là một quá trình có ý nghĩa sâu sắc đối với nền
kinh tế:
- Một là, hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp

quốc gia, bên cạnh tiếp thu tinh hoa của văn minh nhân loại. Nền kinh tế Việt Nam
từng bước được cơ cấu lại, đổi mới gắn với phát triển kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực
để cung ứng cho phát triển kinh tế - xã hội. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải
21


thiện, minh bạch, bình đẳng hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Việt
Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá là một trong những nền kinh tế tăng trưởng
nhanh nhất trong khu vực cũng như trên thế giới và có triển vọng tốt nhờ kinh tế vĩ mơ
tiếp tục được duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, lạm phát được kiểm sốt,
tạo mơi trường, động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhờ vậy, đời sống nhân dân được
cải thiện, niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân được củng cố và gửi đi thông điệp đến
cộng đồng quốc tế sự thân thiện của người dân Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp phát
triển và đổi mới của đất nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nâng
cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
- Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế tác động mạnh đến sự tăng trưởng, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng thị trường
trong một số lĩnh vực cụ thể như: công nghiệp, thương mại, các ngành dịch vụ…; thúc
đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích
cực, phù hợp với chủ trương cơng nghiệp hóa theo hướng hiện đại, theo đó tập trung
nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng công nghệ và giá
trị gia tăng cao hơn…
- Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của
Việt Nam phát triển mạnh giúp gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, mở rộng thị trường
xuất nhập khẩu Việt Nam, mở rộng các loại hàng hóa tham gia xuất nhập khẩu.
Thương mại quốc tế đã đóng góp phần lớn cho tăng trưởng GDP của Việt Nam và góp
phần lớn vào tạo việc làm cho lao động. Nhờ q trình tích cực, chủ động tham gia hội
nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua cùng với nhiều lợi thế: nguồn tài nguyên
phong phú, nguồn lực lao động dồi dào, giá rẻ và sự ổn định chính trị và kinh tế - xã
hội… đã giúp Việt Nam chuyển vị thế từ nước nhập siêu lớn sang xuất siêu. Là thành

viên của WTO, Việt Nam đã được 71 đối tác công nhận là nền kinh tế thị trường, nhiều
sản phẩm dần có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao
về chất lượng như Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Mỹ...
- Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn góp phần đưa Việt Nam trở
thành một “mắt xích” quan trọng trong mạng lưới các liên kết kinh tế với các nền kinh
tế hàng đầu thế giới, đồng thời, tạo động lực mới thúc đẩy mạnh mẽ hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế. Mơi trường pháp lý, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý trong
22


nước được cải cách theo hướng ngày càng phù hợp với các cam kết tiêu chuẩn cao
trong các FTA và ngày càng minh bạch hơn, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh
trong nước ngày càng thơng thống hơn, tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế cao của
khu vực và thế giới.
- Năm là, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt được nhiều kết quả ấn
tượng. Hội nghị Liên Hợp quốc về thương mại và phát triển đánh giá, Việt Nam nằm
trong 12 quốc gia thành công nhất về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Kể từ khi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngồi có hiệu lực (năm 1988), FDI vào Việt Nam
ngày càng tăng cả về dự án, vốn đăng ký và số nước, vùng lãnh thổ. Việc thực hiện các
cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là cam kết gia nhập WTO đã giúp hoàn thiện
và làm minh bạch hệ thống pháp luật, nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam đối với nhà
đầu tư nước ngoài. Điều này cũng chứng minh cho sự tin tưởng của các nhà đầu tư vào
chính sách đầu tư nước ngồi của Việt Nam, tin tưởng vào chính sách nhất quán trong
phát triển kinh tế đối ngoại rộng mở của Việt Nam. Việt Nam từng bước trở thành một
trong những công xưởng của thế giới về cung ứng hàng điện tử, dệt may, da giầy, điện
thoại di động...
Với việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trong quá trình hội nhập, nước ta
ngày càng năng động tiếp thu khoa học và cơng nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào
tạo một đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ

hội cho Việt Nam đa dạng hóa đối tác đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có tiềm lực về
vốn và công nghệ. Kể từ khi chủ động hội nhập kinh tế, Việt Nam thu hút ngày càng
nhiều các đối tác đến từ các nước châu Âu, Mỹ… tạo điều kiện để doanh nghiệp trong
nước tiếp cận hoạt động chuyển giao cơng nghệ, góp phần nâng cao trình độ công
nghệ của nền kinh tế nước ta.
Qua gần 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo,
với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu đó đã tạo thêm niềm tin để nước ta
càng vững bước trên đường hội nhập quốc tế, tận dụng tốt nhất những cơ hội mới đang
mở ra. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trong bối cảnh tồn cầu hố tạo điều
kiện thuận lợi cho nước ta tham gia nhanh và hiệu quả vào hệ thống phân công lao
động quốc tế, tận dụng mọi nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển. Do vậy, chúng ta có
cơ hội đẩy nhanh quá trình điều chỉnh, tái cơ cấu cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao
23


động và rút ngắn thời gian vật chất của công cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố; tạo
tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.
3. Hạn chế, nguyên nhân và giải pháp
Trong gần 30 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, Việt Nam
cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém đặc biệt trong việc hội nhập quốc tế. Cụ thể:
- Về nhận thức:
Trong hội nhập quốc tế, vấn đề cốt lõi là phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc,
nhưng một số cán bộ các cấp, các ngành vẫn bị chi phối bởi cục bộ địa phương, thậm
chí các lợi ích nhóm đưa tới những sai lệch trong thực thi nhiệm vụ.
Việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa độc lập tự chủ với hội nhập quốc tế, giữ
vững chủ quyền quốc gia chưa thật thấu đáo, chưa thấy hết cái “được” và cái “mất”
trong khi hội nhập nên dẫn tới “chủ động” hoặc “tích cực” thái q, chưa tìm ra tính
chủ động hợp lý. Ở nơi này, nơi khác, việc nhận rõ đối tượng và đối tác chưa thật đúng
đắn và thiếu sâu sắc.

Hạn chế rõ nét nhất về nhận thức chính là việc chưa cụ thể hóa, xác định rõ
những tiêu chí, cách thức, bước đi trong quá trình hội nhập quốc tế để giữ vững độc
lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia dân tộc.
- Về thực tiễn
Vẫn còn những biểu hiện thiếu chủ động, thiếu tích cực trong hội nhập và ngược
lại, hội nhập thiếu sự cân nhắc cụ thể. Chưa có những giải pháp đồng bộ và hữu hiệu
để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực trong khi hội nhập.
Bên cạnh đó, vẫn chưa có giải pháp đồng bộ, hữu hiệu để hạn chế tác động tiêu
cực trong quá trình mở rộng giao lưu, hợp tác hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực
thông tin, văn hóa, tư tưởng, chính trị. Có lúc cịn lúng túng và bị động trước những ý
đồ và hành động của một số nước lớn. Điều này bộc lộ rõ khi nước ta mở cửa hội nhập
văn hóa của các nước lớn từ Phương Tây. Điều này góp phần làm du nhập một số văn
hóa thời trang, lối sống, loại hình kinh doanh mới từ các nước phát triển nhưng đồng
thời cũng tiếp nhận khơng ít nhưng tư duy sai lệch, đi ngược lại chủ trương, đường lối
của Đảng và Chính Phủ.
Vẫn còn nhiều bất cập trong việc phối hợp giữa các ngành, các cấp, các địa
phương, đơn vị trong quá trình hội nhập, dẫn tới kết quả của nơi này, việc này lại ảnh
hưởng không tốt đến nơi khác, việc khác. Việc triển khai thực hiện các thỏa thuận quốc
24


tế chưa thật nghiêm túc, đầy đủ, hiệu quả chưa cao, chưa phát huy được thế mạnh tổng
hợp của đất nước.
Hạn chế rõ nét nhất trong thực tiễn chính là sự yếu kém trong việc cụ thể hóa các
chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, những yêu cầu đặt ra để bảo đảm độc
lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Cơ chế điều hành, giám sát và phối hợp
trong quá trình hội nhập giữa Trung ương và địa phương, giữa các bộ, ban, ngành còn
nhiều bất cập.
Những hạn chế trong hội nhập quốc tế dẫn tới mơi trường hịa bình, thuận lợi cho
phát triển đất nước đã được tạo dựng nhưng chưa thật bền vững. Quan hệ với các đối

tác, nhất là các đối tác quan trọng chưa ổn định, lâu dài và gặp nhiều trở ngại. Hội
nhập quốc tế đã được triển khai mạnh mẽ nhưng vẫn chưa gắn kết chặt chẽ giữa hiệu
quả của hợp tác với phát triển bền vững, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an tồn xã
hội, giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Nắm bắt và xử lý chưa kịp thời, hiệu quả trong quan hệ với một số nước láng
giềng. Tiêu biểu là những cuộc va chạm, chiến tranh ngắn hạn nhưng đem lại thiệt hại
lớn với các nước như Trung Quốc (1979). Vì vậy mà gây nên thiệt hại khơng nhỏ về
người và của. Đồng thời làm ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ hợp tác hai bên, đặc
biệt là giao thương giữa người dân hai quốc gia
Công tác thông tin đối ngoại còn nhiều hạn chế; dự báo và xử lý một số vấn đề,
diễn biến trên thế giới, trong khu vực và quan hệ với một số nước lớn đối tác quan
trọng còn chậm, thiếu chủ động, thiếu thống nhất, hiệu quả hạn chế, bở lỡ một số cơ
hội. Chính vì thiếu chủ động, thiếu thống nhất dẫn đến một loạt hạn chế trong quá
trình hội nhập quốc tế, chưa thể nhanh chóng bắt kịp xu thế, ứng biến kịp thời với các
tác động bất chợt.
Việc triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết về đối ngoại và thực hiện
các thỏa thuận quốc tế chưa đầy đủ, hiệu quả chưa cao; chưa phát huy đầy đủ sức
mạnh tổng hợp trong hoạt động đối ngoại.
 Nguyên nhân:
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế là do trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn ở nơi này, nơi khác, ở mức độ này hoặc mức độ khác, vẫn bị hạn chế về tư
duy. Tiêu biểu là các tỉnh ở xa, miền núi, đồng bào dân tộc hay hải đảo thường sẽ tiếp
thu và phát triển chậm hơn về nhận thức hơn so với các tỉnh miền xuôi. Điều nay vô
25


×