Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

TIỂU LUẬN cơ sở văn hóa việt nam đề tài nhã nhạc cung đình huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.41 KB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP TP HỒ CHÍ MINH

 

TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: Cơ sở văn hóa Việt Nam
Tên đề tài tiểu luận: Nhã nhạc cung đình Huế

LỜI MỞ ĐẦU
Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc cung đình thời phong kiến, được
biểu diễn vào các dịp lễ hội trong năm của các triều đại nhà Nguyễn – Việt
Nam. Nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO cơng nhận là kiệt tác truyền
khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003. Theo đánh giá của UNESCO:
“Trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc
quốc gia.”
Nhã nhạc được phát triển từ thế kỷ XIII ở Việt Nam và đến thời nhà
Nguyễn, Nhã nhạc đạt độ chín muồi và hồn chỉnh nhất. Cùng với khơng gian
văn hóa cồng chiêng Tây Ngun, đây là di sản phi vật thể của Việt Nam được
UNESCO chính thức cơng nhận.
Nhã nhạc cung đình Huế là sự kế thừa, kể từ khi những dàn nhạc – trong
đó có nhiều nhạc khí cung đình – xuất hiện dưới dạng tác phẩm chạm nổi trên
bệ đá kê cột chùa thời Lý (thế kỷ XI – XII) đến lúc ông vua cuối cùng của triều
Nguyễn thoái vị vào giữa thế kỷ XX.
Bởi những giá trị to lớn về văn hóa, nghệ thuật của thể loại Nhã nhạc cung
đình Huế, nhóm 2 muốn đi sâu và tìm hiểu thêm về bộ mơn âm nhạc đặc biệt
này.
Với nội dung mà chúng tơi đã trình bày ở trên chưa thể nào nói hết được
giá trị, ý nghĩa của Nhã nhạc cung đình Huế song một phần nhỏ nào đó nhóm 2
muốn thể hiện tình cảm của cá nhân mình với di sản này. Với kiến thức cịn hạn
chế, bài tiểu luận của nhóm khơng tránh khỏi những sai sót. Nhóm chúng tơi
mong được sự góp ý từ tất cả các bạn để bài viết được bổ sung và hoàn thiện


hơn.


PHẦN 1: SƠ LƯỢC VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Nhạc Cung đình là một bộ mơn âm nhạc truyền thống đặc sắc của Việt Nam, đặc
biệt Nhã nhạc Huế đã có giá trị rất cao về phương diện lịch sử, nghệ thuật. Tuy
được sử dụng ở chốn cung đình, nhưng việc sang tạo và biểu diễn hầu hết đều do
những nhạc sĩ, nghệ sĩ xuất thân từ trong dân gian, nhờ có tay nghề cao mà được
sung vào cung để phục vụ cho triều đình.
Đây là một bộ môn âm nhạc vô cùng tinh vi mà cho đến nay mà chúng ta vẫn chưa
nhận thức được đầy đủ giá trị của nó. Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, nhạc cung
đình là bộ mơn duy nhất được ghi vào sử sách từ xưa, trải qua bao thăng trầm của
các triều đại, bao biến thiên của thời cuộc mà vẫn còn lưu lại được một di sản đáng
kể có thể sử dụng để nghiên cứu về nhiều mặt: nhạc khí đa dạng, sắp xếp dàn nhạc
tinh vi, nhạc ngữ độc đáo, bài bản dồi dào và quan điểm thẩm mĩ sâu sắc.
Tuy nhiên, trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, ngành cơng
nghiệp âm nhạc phát triển với nhiều thể loại và hình thức khác nhau. Chính vì vậy,
Nhã nhạc Cung đình Huế chưa được các bạn trẻ biết đến nhiều và dần bị mai một
theo thời gian. Đó cũng chính là lý do để nhóm chúng tơi lựa chọn đề tài này,
nhằm mang đến cho các bạn những kiến thức cơ bản về nhã nhạc cung đình Huế,
giúp các bạn có cái nhìn rõ nét về nét văn hóa này hơn.

2.Mục đích và yêu cầu của đề tài
*Mục đích của đề tài: phân tích và làm sáng tỏ bộ mơn nhã nhạc cung đình Huế và
nêu ra giải pháp để bảo tồn di sản văn hóa đặc sắc này.
*Yêu cầu đối với đề tài:
- Luận giải lý luận chung về nhã nhạc cung đình Huế
- Phân tích và làm rõ từng đặc điểm của nhã nhạc cung đình Huế
2



- Phân tích giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của nhã nhạc cung đình Huế
- Đề xuất quan điểm và giải pháp bảo tồn nhã nhạc cung đình Huế trong thực tiễn

3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của đề tài
*Đối tượng nghiên cứu: bộ môn nhã nhạc cung đình Huế, trong đó làm rõ những
đặc trưng và giá trị của nó, từ đó làm cơ sở luận giải cho việc bảo tồn di sản văn
hóa
*Phương pháp nghiên cứu: bài tiểu luận sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng Mác-xít, cụ thể như: phân tích, tổng hợp.

4. Kết quả nghiên cứu
Sau khi tìm hiểu và nghiên cứu về nhã nhạc cung đình Huế, sinh viên có thêm
những kiến thức căn bản về bộ mơn nghệ thuật này. Từ đó, sinh viên sẽ hiểu rõ
hơn về một nét đẹp truyền thống được hình thành và phát triển từ ngàn đời xưa đến
nay.

Phần II: NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ
3


A. Sơ lược về nhạc Cung đình
1.Giới thiệu chung về nhạc Huế

Với bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa, vùng đất sơng Hương - núi Ngự
là nơi hội tụ nhiều dòng nhạc mang đậm bản sắc Huế như dịng nhạc cung đình bác
học, dịng nhạc dân gian, dịng nhạc tín ngưỡng tơn giáo, cùng với nền tảng thơ
văn, mỹ thuật, lễ hội dân gian và làng nghề thủ cơng truyền thống góp phần làm
phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Huế xưa và nay.

Nhạc Huế mang sắc thái địa phương rõ rệt, nhưng nhạc Huế lại không phải là
một thứ âm nhạc địa phương, dưới các triều đại phong kiến nhà Nguyễn. Do hoàn
cảnh lịch sử, nhạc Huế - qua thành phần nhạc lễ và cung đình của nó - đã một thời
gian khá dài đóng vai trị là "quốc nhạc" dưới thời thuộc Pháp. Nhạc Huế vẫn
chinh phục được quần chúng hâm mộ rộng rãi, được sử dụng phổ biến ở các tỉnh
phía Bắc và Nam. Và ở những nơi này, không phải chỉ có vấn đề thưởng thức nhạc
Huế như một đặc sản có hương vị lạ từ nơi khác đem đến, mà người ta còn thấy
hiện tượng nhạc Huế thâm nhập vào nhạc Bắc, ảnh hưởng trở lại làm giàu có thêm
cội nguồn miền Bắc, đồng thời khi đi sâu vào Nam, nó lại đã đóng góp những nhân
tố quan trọng, từ đó đã nảy sinh và hình thành cái được xem là phong cách đặc thù
của âm nhạc miền Nam.
Nếu nói về gốc gác lịch sử, có lẽ khơng ai phủ nhận nhạc Huế đã khởi sự hình
thành từ cội nguồn nhạc Bắc. Những cứ liệu lịch sử từ thời Nguyễn Hoàng vào xã
Ái Tử (Quảng Trị) hay câu chuyện Đào Duy Từ , cho thấy: trên đà mở nước vào
phía Nam, văn học nghệ thuật nơi đất Tổ lưu vực sông Hồng đã từ mấy thế kỷ vượt
qua sông Gianh và Bến Hải. Lại có thể lấy chứng cớ khác ngay trong bản thân
nhạc Huế: những "bản Bắc", còn mang một cái tên có ý nghĩa nữa là những "bản
Ngự", với tính chất một thành phần cơ sở của nhạc Huế, đã vừa nói lên cái xuất xứ
cũng như mối quan hệ khăng khít với nhạc Bắc...
Do hồn cảnh địa lý, với những bãi biển, với sông Hương núi Ngự dễ để con
người tức cảnh sinh tình, hay trong cuộc sống lao động và sự sinh tồn, để giảm bớt
những khó khăn vất vả, nhọc nhằn trong lao động sản xuất, những điệu hị câu ví
và các loại hình nghệ thuật dân gian cũng được hình thành và ngày càng phong
phú. Nói cách khác, do những điều kiện kinh tế khắc nghiệt nhiều hơn là thuận lợi,
đã buộc con người, bằng mọi cách, kể cả cách dùng phương tiện nghệ thuật, vươn
4


lên chống chọi với thiên nhiên, kiếm tìm cuộc sống ấm no hơn. Do những dấu
giọng đặc thù trong tiếng nói, uyển chuyển tinh vi, những cái "tiểu dị" thực đáng

yêu trong cái "đại đồng" của tiếng nói chung dân tộc, hay là do chính ở đây, nơi
tiếp xúc với nền văn hóa nghệ thuật, dân tộc Chăm đã hình thành những âm điệu,
giọng điệu, những thể loại mới mẻ so với cái vốn cổ truyền từ Bắc đem vào, tạo nét
đặc trưng riêng cái thường được gọi là phong cách "Huế", phong cách "miền
Trung", hay nói gọn là "nhạc Huế".
Ngày nay dưới con mắt những người đang tìm hiểu và nghiên cứu âm nhạc
truyền thống, tạm cách ly khỏi mọi ảnh hưởng của "tân nhạc" đã lan tràn và phổ
biến rộng khắp từ phong trào "cải cách", "nhạc Huế" với tư cách một bộ phận của
truyền thống đó thường được xem như gồm ba thành phần chính yếu:
+ Nhạc Lễ (bao gồm cả nhạc Cung đình và nhạc Rõi bóng)
+ Dân ca (bao gồm các điệu hị, lý, kể vè...)
+ Ca Huế

2. Nhạc cung đình
2.1)Khái niệm nhạc Cung đình
Nhạc Cung đình là một bộ mơn âm nhạc truyền thống đặc sắc và vô cùng tinh
vi của Việt Nam, đặc biệt chỉ có tại kinh thành Huế đã có giá trị rất cao về phương
diện lịch sử lẫn nghệ thuật. Tuy được sử dụng ở chốn cung đình, nhưng việc sáng
tạo và biểu diễn hầu hết đều do nhữn nhạc sĩ, nghệ sĩ xuất thân từ trong dân gian,
nhờ có tay nghề cao mà được sung vào cung để phục vụ cho triều đình.
2.2) Nhạc Cung đình, bộ mơn âm nhạc duy nhất được ghi vào sử sách
Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, Nhạc Cung đình là một bộ môn duy nhất
được ghi vào sử sách từ xa xưa, trải qua bao thăng trầm của các triều đại, bao biến
thiên của thời cuộc mà vẫn còn lưu lại được một di sản đáng kể có thể sử dụng để
nghiên cứu về nhiều mặt: nhạc khí đa dạng, sắp xếp dàn nhạc tinh vi, nhạc ngữ độc
đáo, bài bản dồi dào và quan điểm thẩm mỹ sâu sắc.
Trong Khâm định Đại Thanh Hội điển sự lệ ( quyển 538, tờ 3b) xuất bản năm
1908 ( thư viện Hội châu Á: SocétéAsatique) có ghi rành rẽ chi tiết của dàn nhạc
cung đình, có mặt cùng một lúc với phái đồn hữu nghị do vua Quang Trung phái
sang Trung Quốc, dưới thời vua Càn Long (1789), sử gia nhà Thanh đã gọi là An

Nam Quốc nhạc.

5


Năm 1802, dàn nhạc đổi tên là Việt Nam Quốc nhạc, vì vị vua Gia Long lên ngơi
năm 1802, đặt tên nước là Việt Nam.
       Ngược dòng thời gian, đã  có một dàn Đại nhạc cung đình đầu tiên xuất hiện
trong sử sách, có lẽ là vào đời nhà Trần, trong quyển "An Nam chí lược" của Lê
Tắc.
       Đời Hậu Lê, có nhiều bộ sử ghi lại sự kiện năm Thiệu Bình thứ tư( 1437) dưới
thời vua Lê Thái Tơng ( 1434-1442), nhà vua giao cho Nguyễn Trãi cùng với
Lương Đăng có nhiệm vụ định ra Nhã nhạc cho triều đình.
       Lương Đăng muốn sắp đặt dàn Đường thượng chi nhạc giống như dàn nhạc
Triều hạ yến hưởng chi nhạc của nhà Minh và Đường Hạ chi nhạc giống như các
dàn Đơn bệ đại nhạc vần Giáo phường ty nữ nhạc của nhà Minh.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Ức trai thi tập thì Nguyễn Trãi đã dâng biểu
cho nhà vua từ chối nhiệm vụ được giao phó vì không tán thành quan điểm của
Lương Đăng. Bức thư của Nguyễn Trãi là bài học quý giá về thái độ của một người
nhạc sĩ chân chính đối với nền âm nhạc dân tộc, trong đó có những suy tư về âm
nhạc rất sâu sắc như:
       Hồ bình là gốc của nhạc, thanh âm là căn của nhạc, hài hòa là tính chất của
nhạc. Thần mong rằng Bệ hạ thương dân để cho trong cả nước khơng có một âm
thanh nào nói lên sự bất bình hay buồn thảm của dân. Nếu dân cịn buồn thảm hay
bất bình tức là Bệ hạ đã đánh mất một cái gốc của nhạc.
        Ngoài ra cịn nhiều quyển sử khác có ghi đơi nét về Nhạc cung đình qua các
thời, như Quốc triều thơng lễ (triều vua Trần Thái Tông), Trần triều đại diễn (triều
vua Trần Dụ Tông), Lê triều hội điển, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan
Huy Chú, Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ...
Những bài thuộc loại Cửu tấu, ngồi âm nhạc cịn có lời ca được ghi đầy đủ trong

quyển Đại nam Hội điển sự lệ, như trong Miếu Triệu Tổ (miếu thờ Nguyễn Kim),
tên các bài ca phải có chữ Hịa, chẳng hạn Hàm hịa (trong lúc nghinh thần), Gia
hòa (lúc hiến lụa), Tương hòa (trong lúc sơ hiến, dâng rượu lần đầu), Dự hòa
(trong lúc á hiến, dâng rượu lần thứ nhì), Ninh hịa (trong lúc chung hiếnm dâng
rượu lần cuối cùng), Mỹ hòa (lúc dâng trà). Túc hòa (lúc triệt hạ các lễ vật), An
hòa (lúc tiễn thần), ưng hòa (lúc mang đuốc đi, sau khi đốt sớ).

6


Trong Văn miếu thờ Đức Khổng tử thì tên những bài hát phải có chữ Văn,
trong loại Yến nhạc tên bài hát phải có chữ Thành (dưới triều Gia Long), chữ
Khánh (thời Minh Mạng thứ 18) hay chữ Phúc (thời Minh Mạng thứ 21) v.v...

2.3) Đặc điểm của nhạc Cung đình
      So với các bộ mơn khác, Nhạc cung đình có một giá trị nghệ thuật rất cao mà
trước tiên là vì triều đình có đủ quyền lực
chính trị và khả năng tài chính để quy tụ
những nhạc sĩ cũng như nhạc công tài năng
từ khắp nơi trong đất nước, rồi tạo nhiều điều
kiện thuận lợi cho họ luyện tập kỹ thuật, trau
dồi nghệ thuạt để trở thành những nghệ sĩ
chuyên nghiệp, sáng tác dồi dào, biểu diễn  
tinh vi.
      Các nhạc khí được dùng trong Nhạc cung
đình cũng được chế tạo rất kỹ, chạm cẩn khéo
léo, tinh xảo hơn nhạc khí dùng trong dân
gian, lại có đầy đủ màu âm: tiếng kim, tiếng
thổ, tiếng trong, tiếng đục, tiếng trầm, tiếng   
bổng, tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng da, tiếng đá

(khánh), tiếng đồng. Về độ cao có tiếng trầm
của dây đài đàn tỳ bà, tiếng cao vút vi vu của tiếng sáo.

7


       Nhìn chung, dàn nhạc cũng đa dạng và quy mơ hơn các dàn nhạc khác, chẳng
những đa dạng và quy mơ mà cịn rất đặc biệt trong sự phối hợp màu âm, không
quan tâm đến số lượng, mà chú trọng đến chất lượng. Khi hịa dàn thì khơng nhạc
khí nào có thể át các nhạc khí khác mà mỗi loại âm thanh đèu có thể phân biệt rõ
ràng.
Các điệu múa cung đình đa dạng và đặc sắc. Dưới thời Nguyễn, có tới 11 điệu
múa cung đình như: Múa Bát dật, múa Lục cúng, múa Tam Tinh chúc Thọ, Bát
tiên hiến thọ, Trinh tường tập khánh, lục triệt hoa mã đăng, Tứ linh v..v…Mỗi điệu
múa phục vụ cho mỗi dịp lễ hội khác nhau.
       Lại khơng có bộ mơn nào huy động nhiều diễn viên và xiêm y phong phú như
nhạc cung đình.
Cuối cùng, Nhạc cung đình cịn đặc biệt ở điểm bao gồm tất cả các bộ môn âm
nhạc khác, từ Lễ nhạc (dùng vào các cuộc tế lễ lớn nhỏ của cung đình, trong các
chùa miếu), nhạc thính phịng, sân khấu, kể cả các cũ điệu, là mỗi bộ mơn đều có
những nghệ sĩ thượng thặng chun sáng tạo và biểu diễn.
2.4) Nhạc Cung đình theo dịng lịch sử
      Không đi vào chi tiết, chỉ ghi những nét đại cương trong việc tổ chức Nhạc
cung đình qua các triều đại, thì Nhạc cung đình Việt nam đã có một truyền thống
rõ rệt.
        Nhà Lý (thế kỷ thứ 11-13)
       Tuy khơng có ghi lại trong sách sử, nhưng
xem bức chạm trên các tảng đá ở chân cột
chùa Phật Tích (Bắc Ninh), chúng ta thấy có
  10 nhạc cơng chia thành hai nhóm. Những

nhạc khí họ sử dụng bao gồm: Phách (hai
miếng tre gõ vào nhau), đàn gáo, ống sáo
ngang, đàn tranh, ống sênh (loại khèn bè).
 
  Ngay chính giữa là một hoa sen cách điệu hóa,
tiếp theo là ống sênh, đàn tỳ bà, ống tiêu (thổi
dọc), dà loại nguyệt cầm, trống loại phong yêu
cổ (một tay cầm dùi, một tay vỗ như loại trống ghì nằng của Chăm mà hình thắt
đáy lưng ong).

8


        Nhà Trần (thế kỷ thứ 13-15)
       Theo An nam chí lược của Lê Tắc thì Đại Nhạc dùng trong triều đình gồm kèn
tất lật (cùng loại vói Pili Trung Quốc, Pili Triều Tiên và Hichiriki Nhật Bản), tiểu
quản loại ống thổi dọc), tiểu bạt (chập chõa nhỏ) và phạn oỏ (trống cơm, có chú
thêm "gốc từ nhạc khí Chiêm Thành, người Chăm) và một nhạc khí gọi là "đại
cấu". Về nhạc khí này, cố Giáo sư Hồng Xn Hãn khi tra các Từ Nguyên, Từ
Hải không thấy chữ "cấu" nên cũng khơng biết đó là loại gì, vì thế khi thấy trong
chữ "cấu" có bộ "cung" nên Giáo sư cho rằng đó là một nhạc khí có cung kéo).
       Tiểu nhạc dùng trong dân dã, gồm có
cầm, tranh, thất huyền, song huyền và tiêu
loại. Khơng rõ "cầm" có phải là gupin (có 7
  dây tơ) của Trung Quốc truyền sang hay
loại đàn nào khác. Thất huyền đàn 7 dây
mà guqin của Trung Quốc cũng có 7 dây.
 

        


Nhà Lê (thế kỷ thứ 15 đến cuối thế kỷ 18)
        Lương Đăng phỏng theo nhạc nhà Minh lập ra hai dàn nhạc Đường thượng
chi nhạc, Đường hạ chi nhạc nhưng không được dùng lâu. Do các quan trong triều
như Nguyễn Trãi, Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận phản đối nên về sau hai dàn nhạc
ấy được thay thế bằng hai đôi Đồng Văn, Nhã nhạc và sau đó lần lần Giáo phường
đã thay thế hai đội này.
        Trong Lê triều hội điển và Lịch triều hiến chương loại chí đều có ghi về 8 thể
loại nhạc (Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại triều nhạc, Thường triều nhạc,
Đại Yến nhạc, Cung trung chi nhạc, Cứu nhật nguyệt giao trùng nhạc) cùng nhiều
điệu múa liên quan.
Nhà Nguyễn (đầu thế kỷ 19 đến năm 1945)
        Tổ chức rất chặt chẽ và được ghi trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
(bản chữ Hán quyển 99, và trong bản dịch tiếng Nôm in tại Thừa Thiên do Nàh
Xuất bản Thuận Hóa phát hành năm 1993, quyển 7, trang 68-118) đã ghi rõ về tổ
chức các dàn nhạc, gồm: Đại nhạc, Nhac nhạc, Huyền nhạc... Tế giao, Miếu nhạc,

9


Yến nhạc... Với những nhạc cụ khác nhau và cách thức ứng xử trình diễn khác
nhau.

B. Nhã nhạc Cung đình Huế
Nhã nhạc Cung đình Huế là một loại hình âm nhạc mang tính bác học của
các triều đại quân chủ trong xã hội Việt Nam suốt hơn 10 thế kỷ. Tinh hoa này
được cô đọng lại dưới triều Nguyễn, khiến cho Huế càng được khẳng định hơn về
một trung tâm văn hóa tiêu biểu của dân tộc. Với tất cả giá trị lịch sử ấy,giữa
tháng 12/2003, Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của LHQ (UNESCO)
công nhận Nhã nhạc Cung đình Huế là di sản văn hố phi vật thể và truyền khẩu

của nhân loại. Ngày 31/1/2004 tại Paris thủ đơ nước Pháp, lễ đón Bằng cơng nhận
đã được tổ chức. Đây là lần đầu tiên, Việt Nam có một kiệt tác di sản phi vật thể
và truyền khẩu được UNESCO công nhận - một vinh dự to lớn cho cả dân tộc Việt
Nam nói chung và Huế nói riêng.

1. Khái niệm
Nhã nhạc Cung đình Huế là một bộ phận của âm nhạc Cung đình thời phong
kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ tế trang trọng trong năm của các triều đại
nhà Nguyễn của Việt Nam.

10


2. Dàn Nhã Nhạc:

Ở triều Lê, Nhã nhạc là tổ chức âm nhạc chuyên về xướng hát. Nhưng đến
thời Nguyễn, Nhã nhạc lại là một tổ chức dàn nhạc.
Theo Âm nhạc truyền thống Việt Nam, dàn Nhã nhạc thời Nguyễn gồm:
- 1 bản cổ (trống một mặt da)
-1 đàn tỳ bà
-1 đàn nguyệt
-1 đàn nhị huyền
-2 địch (sáo ngang)
-1 tam âm la
-1 phách tiền
Dàn Nhã nhạc do nhạc sinh thự Hòa thanh đội mũ tú tài, mặc áo giao
linh điều khiển.
Nhã nhạc tạo sự trang trọng cho các cuộc tế, lễ cung đình như Tế
Giao, Tế miếu, Lễ Đại triều, Thường triều...
 Trong lễ Tế Giao (lễ tế lớn nhất của triều đình nhà Nguyễn),

Nhã nhạc trình tấu lúc vua nhận lễ bái của các quan và đi ra cửa
Bắc.
 Trong lễ tế miếu, cũng có mặt Nhã nhạc nhưng khơng diễn tấu.
 Ở các lễ tế Thành Hồng, Xã Tắc; dàn Nhã nhạc tấu sau khi
chuông trống báo hiệu bắt đầu buổi lễ, lúc cúng tuần rượu đầu
tiên, tuần rượu thứ hai và tuần rượu thứ ba.

11


3. Niên biểu Nhã nhạc cung đình Huế
3.1 Thế kỉ XVII - XVIII ở Phú Xuân và Đàng Trong: thời các chúa Nguyễn
(1558 - 1777)
Từ những năm 30 của thế kỉ XVII, nhà văn hóa lớn Đào Duy Từ (tác giả của
Hổ trướng khu cơ, Tư Dung vãn, Ngọa Long cương vãn, của hai lũy Trường
Dục và lũy Nhật Lệ (Lũy Thầy), tương truyền là tác giả của một số bài hát, điệu
múa và vở hát bội cung đình thời các chúa Nguyễn, ơng tổ lớn nhất của âm nhạc
Huế và hát bội Huế được thờ tại nhà thờ Thanh Bình ở Huế (1572 - 1634) đã tiếp
thu nhạc Đàng Ngoài, và đã giúp chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1623 - 1634) lập ra
một hệ thống lễ nhạc, triều nhạc mới. Hòa thanh thự của các chúa là tổ chức âm
nhạc cung đình lớn của Đàng Trong gồm ban nhạc, đội ca, đội múa đông đảo (Đại
Nam thực lục tiên biên). Cuối thế kỉ XVII - đầu thế kỉ XVIII, nhạc cung đình Đàng
Trong đã khá hồn chỉnh, phong phú, hấp dẫn, theo những ghi chép và đánh giá
của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán, thượng khách của chúa Nguyễn Phúc Chu
(1692 - 1725) sau chuyến đi thăm Đàng Trong và Phú Xuân của ông. Được mời
xem ca múa nhạc và hát bội tại phủ chúa, nhà sư cho biết điệu múa nổi tiếng thời
đó là điệu múa Thái liên diễn tả dáng dấp đài các, trang nhã, tình tứ của các cơ "
tiểu hầu " của đô thành Phú Xuân vừa chèo thuyền vừa tươi cười hái sen. Các ca
nhi vũ nữ ấy " đội mão vàng, áo hoa xanh dài phết đất, khoảng cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII, nhạc cung đình Đàng Trong đã khá hoàn chỉnh, phong phú, hấp
dẫn, theo những ghi chép và đánh giá của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán,

thượng khách của chúa Nguyễn Phúc Chu (1692 - 1725) sau chuyến đi thăm Đàng
Trong và Phú Xuân của ông. Được mời xem ca múa nhạc và hát bội tại phủ chúa,
nhà sư cho biết điệu múa nổi tiếng thời đó là điệu múa Thái liên diễn tả dáng dấp
đài các, trang nhã, tình tứ của các cơ " tiểu hầu " của đô thành Phú Xuân vừa chèo
thuyền vừa tươi cười hái sen. Các ca nhi vũ nữ ấy " đội mão vàng, áo hoa xanh dài
phết đất, thoa son dồi phấn rất mực diễm lệ, làm nao lòng người xem " (hồi ký Hải
ngoại kỷ sự, bản dịch, 1963).
3.2 Cuối thế kỉ XVIII: thời Tây Sơn (1788 - 1802)
Năm 1790, tức một năm sau khi đại thắng Đống Đa ở Thăng Long, một
vua Quang Trung (giả) cầm đầu một đoàn ngoại giao sang triều đình nhà Thanh,
cầu hịa và chúc thọ hồng đế Càn Long 80 tuổi. Càn Long ý phong cho vua Đại
Việt là "An Nam quốc vương" và vui lòng thưởng thức đoàn "An Nam quốc nhạc"

12


biểu diễn chúc thọ. Nhờ những ghi chép cụ thể của Đại Thanh hội điển sự lệ và tập
văn kiện ngoại giao Đại Việt quốc thư mà âm nhạc cung đình thời Tây Sơn hiện ra
khá rõ nét. Hội điển triều Thanh đã mơ tả chính xác trang phục các nhạc công, ca
công và vũ công người Việt. Nghệ nhân cung đình Tây Sơn chơi 8 loại nhạc
khí mà Hội điển triều Thanh đã ghi lại bằng chữ nơm: "một cái cổ (kai kou: trống),
một cái phách (kai p'o), hai cái sáo (kai chao), một cái đàn huyền tử (kai t'an hien
tse, có thể là đàn tam), một cái đàn hồ cầm (kai t'an hou k'in), một cái đàn song vận
(kai t'an choang wen, có thể là đàn nguyệt) một cái đàn tỳ bà (kai t'an p'i p'a), một
cái tam âm la (kai san in lo). Đó là phần nhạc khí.
Về phần hát, Đại Việt quốc thư cho biết bổ sung như sau: nhân dịp lễ thượng
thọ của Càn Long 80 tuổi, đồn quốc nhạc của ta gồm 6 nhạc cơng và 6 ca cơng
cung đình đã biểu diễn cho hồng đế nhà Thanh nghe "nhạc phủ từ khúc thập
điệu".
3.3 Thế kỉ XIX: Thời thịnh của triều Nguyễn (1802 - 1885)

Theo những tài liệu tham khảo hiện có, thời kỳ vàng son của âm nhạc cung
đình Đại Việt - Việt Nam - Đại Nam là thịnh thời triều Nguyễn trước khi kinh đô
Phú Xuân (Huế) thất thủvào năm 1885. Hai tài liệu chủ yếu là Lịch triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú (đầu thế kỉ XIX) và Khâm định Đại Nam hội
điển sự lệ của Quốc sử quán (giữa thế kỉ XIX) cho biết: Từ sau khi Gia Long lên
ngôi đến khi Tự Đức mất (1883) âm nhạc cung đình Phú Xuân bây giờ quen gọi là
NNCĐH đã được phục hồi, chấn chỉnh và phát triển mạnh. Các loại Giao nhạc,
Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại triều nhạc, Thường triều nhạc, Yến nhạc, Cung trung
chi nhạc đã ảnh hưởng qua lại nhiều với nhạc cổ điển thính phịng (ca Huế, đờn
Huế) và nhạc tuống cổ điển, cung đình (thanh nhạc và nhạc múa của hát bội Huế).
Đáng chú ý là nhiều nhà hát rạp hát lớn nhỏ của vua, đại thần và dân thường được
xây dựng làm nơi biểu diễn nhạc cung đình, nhạc cổ điển, hát bội hay nhạc dân
gian: Duyệt thị đường trong hoàng thành, Minh Khiêm đường trong lăng Tự Đức,
Cửu tư đài trong cung Ninh Thọ, rạp hát ông Hoàng Mười, nhà hát Mai Viên tại tư
dinh thượng thư Đào Tấn, đã không loại trừ sự tấp nập của những rạp hát ông Sáu
Ớt (Nguyễn Nhơn Từ), rạp hát gia đình họ Đồn (ở An Cựu), rạp hát bà Tuần (tồn
tại đến 1975), v.v...
1802 - 1819: Thời Gia Long, Việt tương đội, một tổ chức âm nhạc cung đình
lớn được thành lập với 200 nghệ nhân. Vua lại cho dựng đài Thông minh, một sân
khấu ca múa nhạc và hát bội trong cung Ninh Thọ.
13


1820 - 1840: Minh Mạng cho xây dựng Nhà hát lớn Duyệt thị đường (1824),
đổi Việt tương đội thành Thanh bình thự, lập thêm một Đội nữ nhạc với 50 ca nữ,
vũ nữ, lại cho xây dựng Nhà thờ các tổ sư nghệ thuật âm nhạc và hát bội Huế:
Thanh bình từ đường (1825). Trước nhà thờ dựng một tấm bia, một sân khấu hát
bội và ca vũ nhạc. Văn bia cho biết vào đời Minh Mạng, nghệ thuật âm nhạc và sân
khấu đã phát triển tốt đẹp:
"Vũ đài xuân rạng hàng ngũ chỉnh tề, sân khấu mây lồng âm thanh dìu dặt

Khánh chng ra lệnh xướng hịa, kèn trống nhịp nhàng đánh thổi Trải mấy triều
vương đều khuyến khích, Biết bao âm nhạc thảy dồi dào Giữa điện đình ca múa, tỏ
điềm thái vận nước nhà; Trên lăng miếu xướng hòa, ngưỡng đức cao thâm biển
núi... (bản dịch của Ưng Dự).
1841 - 1883: Đời Tự Đức, âm nhạc cổ điển, nhã nhạc cung đình và hát bội
cung đình đạt tới đỉnh cao. Nhà hát Minh khiêm đường được xây dựng (1864)
trong Khiêm cung (sau khi vua mất sẽ gọi là Khiêm lăng). Tương truyền chính Tự
Đức đã sángtác bản nhạc Tứ đại cảnh nổi tiếng. Say mê thơ, nhạc và hát bội hơn
chính trị, vua lập nên Hiệu thơ phịng để cùng các danh nho trong triều đình xướng
họa thơ văn, thưởng thức âm nhạc, sáng tác hay nhuận sắc các vở hát bội. Nhà thơ
và nhà soạn tuồng lỗi lạc thời Tự Đức là Đào Tấn (1845 - 1907).

3.4 Thế kỉ XIX: Thời suy của triều Nguyễn (1885 - 1945)
1858 - 1885: Thực dân Pháp gây hấn và bắt đầu xâm lược nước ta từ Đà
Nẵng, rồi chiếm dần Nam Bộ, Bắc Bộ. Tháng 8 năm 1885 kinh đô Phú Xuân (Huế)
thất thủ. Các vua Nguyễn sau Tự Đức đều được Pháp đưa ra làm vì, mất hết quyền
bính. Đời sống cung đình tẻ nhạt, âm nhạc cung đình ngày càng sa sút.
1889 - 1925: Thành Thái lập Võ can đội, rồi thêm một đội Đồng ấu (nghệ
nhân thiếu niên, làm dự bị cho Võ can đội). Tất cả đều hoạt động cầm chừng.
1914-1944: Tập san Những người Bạn của Huế cổ kính (B.A.V.H.)
(bằng tiếng Pháp) ra đời và sẽ xuất bản tổng cộng 120 tập (dày nhiều vạn trang)
trong suốt 30 năm dưới sự điều khiển của nhà Việt Nam học lỗi lạc L.m. Léopold
Cadière. Nhiều bài nghiên cứu có giá trị về nhạc Huế được công bố trên tập san,

14


nổi bật nhất là cơng trình của nhạc sĩ cổ điển Hoàng Yến (1919): Âm nhạc ở Huế,
đàn nguyệt và tranh.
1925 - 1945: Dưới thời Bảo Đại, Võ can đội đổi thành Ba vũ đội gồm cả một

đội Đại nhạc và một đội Tiểu nhạc tổng cộng khoảng 100 nghệ nhân hoạt động rời
rạc, trong lúc chờ đợi làm nhiệm vụ chính: tham gia phục vụ lễ Tế Nam giao (3
năm một lần) (theo lời kể của cụ Lữ Hữu Thi).
Năm 1942 là năm cuối cùng triều Nguyễn cử hành lễ Tế Nam giao, cũng là
lần cuối cùng Nhã nhạc cung đình Huế được biểu diễn trọng thể trước cơng chúng.
Ngày 31 tháng 8 năm 1945, trên Ngọ Mơn, hồng đế cuối cùng của triều
Nguyễn vương quốc Đại Nam thoái vị. Nhã nhạc cung đình Huế tạm thời rã đám.

C. GIÁ TRỊ CỦA NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ:
1.Giá trị nội dung của Nhã nhạc: Tỏa sáng với chức năng xã hội mới –
khẳng định truyền thống văn hóa Việt Nam.
Trung tuần tháng 8/2002, bộ hồ sơ Nhã nhạc đã được Trung tâm BTDTCĐ
Huế thực hiện và Chính phủ đã ký quyết định gửi đến UNESCO đăng ký ứng cử
vào Danh mục Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu nhân loại.
Hồ sơ Nhã nhạc bao gồm: trên 100 trang (hồ sơ viết), gần 100 trang phụ lục,
trên 50 ảnh tư liệu và hiện trạng, phim slide, băng hình thuyết minh (10 phút), băng
hình minh họa (70 phút), cùng nhiều tài liệu liên quan khác. Hồ sơ đã khẳng định
Nhã nhạc là loại hình âm nhạc cung đình đạt đỉnh cao vào thế kỷ 19 ở Việt Nam,
Huế là trung tâm hội tụ và lan tỏa các giá trị này. Với các giá trị của không gian,
bối cảnh, các kỹ năng kỹ thuật, cách thức diễn xướng, trình tấu, vị thế mang tính

15


chất khẳng định bản sắc văn hóa thực trạng của cơng cuộc bảo tồn và chương trình
hành động...
Ngày 7/11/2003, Nhã nhạc - Nhạc Cung đình Việt Nam đã được UNESCO
cơng nhận là kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại cùng với 27 kiệt tác
khác của Châu Á; Châu Mỹ La tinh, vùng Caribê ; Châu Âu; Châu Phi; vùng
Trung Đông , Đa quốc gia.

Với những giá trị nổi bật, Nhã nhạc - Nhạc Cung đình Việt Nam, bằng tất cả
những gì cịn lại ở Huế chắc chắn sẽ tiếp tục được giữ gìn và bảo tồn một cách hiệu
quả, góp phần cùng với các loại hình di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt
Nam khẳng định vị thế của một dân tộc, một quốc gia trong khu vực và thế giới.

2.Giá trị nghệ thuật của Nhã nhạc cung đình Huế
Tại Việt Nam, âm nhạc dân gian phát triển khá phong phú ở cả ba miền. Nền
âm nhạc dân gian ấy gắn liền với đời sống con người từ lúc sơ sinh đến khi trưởng
thành và lúc lìa bỏ cõi trần. Con người ngay từ khi mới được sinh ra cho đến khi
trở về với cát bụi luôn gắn liền với những bài đồng dao, hát ru, hò, lý, ca trù, ca
Huế, bài chòi, ca tài tử… Tuy nhiên, theo GS Trần Văn Khê, “nhạc cung đình chỉ
có ở miền Trung, và đặc biệt tại Huế mới cịn có di tích của bộ mơn âm nhạc độc
đáo, tinh vi mà chúng ta đến ngày nay chưa nhận thấy được hết cái giá trị của bộ
mơn đó”.
Ði từ cụ thể tới trừu tượng, so với các bộ mơn khác, Nhạc cung đình có một
giá trị nghệ thuật rất cao.
1. Tài năng của Nhạc sĩ nhạc công rất cao.
16


Ðó cũng là lẽ tất nhiên, vì triều đình có đủ khả năng chính trị và tài chính
để quy tụ lại những nhạc sĩ, nhạc cơng có tài từ khắp nơi trong đất nước, tạo điều
kiện thuận tiện cho các nghệ sĩ ấy có nhiều thì giờ và phương tiện để luyện tập kỹ
thuật, trau dồi nghệ thuật, để thành những nghệ sĩ chuyên nghiệp, sáng tác dồi dào,
biểu diễn tinh vi.
2. Nhạc khí xinh đẹp nhờ được đóng ráp kỹ, chạm cẩn khéo hơn nhạc khí
dùng trong dân gian. Theo GS Trần Văn Khê : “Nhạc khí dùng trong nhạc cung
đình rất đẹp trong hình thức, đóng ráp kỹ, chạm trổ khéo, đầy đủ màu âm, có tiếng
kim, tiếng thổ, tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng đồng, tiếng đá, tiếng da, tiếng mộc.”
3. Các nhạc khí được dùng trong Nhạc cung đình lại có đầy đủ màu âm:

tiếng kim, tiếng thổ, tiếng trong, tiếng đục, tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng tơ, tiếng
trúc, tiếng da, tiếng đá (Khánh), tiếng đồng... Về độ cao có tiếng trầm của dây đài
đàn Tỳ bà, tiếng cao vút vi vu của tiếng sáo...
4. Các dàn nhạc cũng đa dạng, và qui mô hơn các dàn nhạc khác.
Hiện nay có hai dàn nhạc Ðại nhạc gồm kèn, trống và bộ gõ. Có thể có đàn nhị
Kèn cũng có nhiều loại: kèn đại, kèn trung, kèn tiểu. Không phải loại kèn
đồng, như Suona của Trung quốc mà ta gọi là "kèn song hỷ". Kèn dùng trong Nhạc
cung đình là loại kèn bầu, bát kèn làm bằng gỗ.
Trống có đủ loại: từ trống lớn nhứt đại cổ, qua các trống tiểu cổ, một cặp
trống Võ (tiếng cao tiếng thấp, có âm có dương), trống một mặt, có bồng, có trống
cơm.
Bộ gõ bằng gỗ có mõ, có phách tiền, bằng kim khí có chng to chng
nhỏ, đại la, tiểu la, chập chõa.
Tiểu nhạc hay Nhã nhạc gồm những nhạc khí dùng dây tơ, sáo trúc (vì vậy
có khi dàn nhạc được gọi là Ti Trúc tế nhạc). Dây tơ có loại dây khảy đàn nguyệt
hai dây, đàn tam ba dây, đàn tỳ bà bốn dây. Có đàn dùng cung để kéo như đàn nhị.

17


Có cả bộ gõ tuy chỉ gồm ba nhạc khí mà có trống bịt da một mặt, có tam âm la
bằng kim khí, có sinh tiền, qn tiền phách, một nhạc khí vơ vùng độc đáo, một
nhạc cụ mà có ba chức năng: gõ, cọ quẹt và rung (theo sắp loại nên phương Tây thì
sinh tiền vừa thuộc loại gõ (cliquettes, râcleur, và sistre, tức là idiophone par
entrechoc, idiophone par râclage, idiophone par secouement).
Ngày nay các nhạc khí khơng nhiều như ngày xưa. Dàn Cổ xúy đại nhạc(7)
trước kia gồm có 20 cổ trống
8 minh ca, kèn thổi bằng lá
4 câu giốc (sừng trâu)
4 sa la (loại thanh la lớn)

4 tiểu sa (thanh la nhỏ)
3 hải loa (con ốc to)
Tất cả gần 50 nhạc cơng.
Trong những buổi Tế Giao, cịn có Ty cổ, Ty chung, Ty khanh.
5. Các dàn nhạc chẳng những đa dạng và qui mơ, cịn rất đặc biệt trong sự
phối hợp màu âm, không quan tâm đến số lượng mà chú trọng đến chất lượng. Khi
hịa hợp khơng nhạc khí nào có thể át các nhạc khí khác, mà mỗi nhạc khí đều
được nghe rõ ràng.
Theo nhà nghiên cứu âm nhạc Trần Văn Khê thì “Trong dàn Nhã nhạc ta có thể
nghe tiếng chững chạc trang nghiêm của đàn nguyệt, tiếng chuyền tiếng rơi vào
nhịp nhịp ngoại, tiếng chầy, tiếng phi bay bướm của tỳ bà, tiếng trong nhờ nhạc
công đàn nhị dùng tay mặt kéo cung, tay trái vuốt ve “nên lời dịu ngọt”, tiếng đục
của đàn tam đem tiếng thổ chen vào tiếng kim của tam âm la, với tiếng nỉ non vi
vút “như tiếng hạc bay qua” của hai ống sáo, tất cả nhạc khí ấy cùng theo nhịp do
tiếng trống bảng dìu dắt, tiếng trống khi khoan khi nhặt, khi đánh nhịp chánh diện
khi vào nội phách khi ra ngoại phách, toàn bộ dàn Nhã nhạc, liên tục trong 10 bài
Ngự, từ nhịp điệu khoan thai của mấy bản Phấm Tuyết, Nguyên Tiêu lúc mở đầu,
lần lần dồn dập qua các bài Hồ Quảng, Liên Hồn, Bình Bán, Tây Mai, Kim Tiền,
rộn rã từ Xuân Phong, Long Hổ đi đến náo nhiệt qua cấp điệu như tiếng vó ngựa
trong bài Tẩu Mã”.     

18


6. Thang âm điệu thức đa dạng, tiết tấu phong phú, bài bản dồi dào.
Ngoài hai loại thang âm của hai điệu thức chánh trong nhạc thính phịng
diệu Bắc (cũng gọi là điệu Khách), điệu Nam; chúng ta còn được nghe chuyển hệ
chuyển Hị trong khi Nhạc đi từ Bơng qua Mã Vũ đến Mang.
Riêng tiếng kèn trong bản Tam luân cửu chuyển, đã chuyển Hị lên lần lần
theo chín bực là một thí dụ rất độc đáo, khơng tìm thấy trong bộ môn âm nhạc nào

của Nhạc truyền thống Việt Nam.
Các bài trống trong các bản Tam luân cửu chuyển, Bông, Mã vu, mang, Du
xuân, hay các điệu trống đánh theo "chân phương" hay "hoa lá" khi trống phụ họa
theo tiếng kèn độc tấu ln ln làm cho người nghe say mê.
Ngồi những bài bản cịn được thường dùng, cịn có những bài ngày xưa
dùng trong các lễ Tế Giao, trong các Thái Miếu, Thế Miếu, Văn Miếu, trong những
buổi Ðại triều, các lễ Vạn Thọ mừng ngày sanh của vua, các buổi vua thiết Ðại
yến, lễ phong Nguyên soái, hay những buổi chiêu đãi Sứ Thần nước ngồi.
Cịn những bài thuộc loại Cửu tấu ngồi âm nhạc cịn có lời ca được ghi đầy
đủ trong quyển Ðại Nam hội điển sự lệ, như trong miếu Triệu Tổ (miếu thờ
Nguyễn Kim), tên các bài ca phải có chữ Hịa (8)
Hàm Hịa trong lúc nghinh thần
Gia Hòa trong lúc hiến lụa
Tương Hòa trong lúc Sơ hiến: dâng rượu lần đầu
Dự Hòa trong lúc Á hiến, dâng rượu lần thứ nhì
Ninh Hịa trong lúc Chung hiến: dâng rượu lần sau cùng
Mỹ Hòa trong lúc dâng trà
Túc Hòa trong lúc dọn các lễ vật
An Hòa lúc tiễn thần
Ưng Hòa trong lúc đem đuốc đi, sau khi đốt sớ.
Trong Văn Miếu thờ Ðức Khổng Tử, tên những bài hát phải có chữ Văn;
trong loại Yến nhạc, tên bài hát phải có chữ Thành dưới triều Gia Long,

19


chữ Khánh dưới triều Minh Mạng thứ 18, chữ Phúc dưới triều Minh Mạng thứ
21...
7. Nhạc Cung đình gồm tất cả các loại nhạc khác
a) Lễ nhạc: Lễ lớn nhỏ trong Ðại Nội, trên đàn Nam Giao, trong các Miếu,

trong các Chùa đều có dùng Nhạc cung đình. Một số bài bản trong các dàn nhạc lễ
Bát âm ngoài Bắc, Ngũ âm trong nam đều từ Nhạc cung đình mà ra.
Các điệu nhạc Ba hồi chín chập trong Nhạc lễ miền Nam cũng bắt nguồn
từ Tam luân cửu chuyển.
Các bài Ðánh thét do lối Thiết nhạc.
Những bài Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, Long đăng, Long Ngâm, Tiểu khúc,
trong nhạc lễ miền Nam cũng từ các bản nhạc dùng trong Tiểu nhạc của Nhạc cung
đình Huế, thay đổi theo thẩm mỹ miền Nam.
b) Nhạc thính phịng. 10 bài ngự Thập thủ liên hồn, các bản Lưu Thủy Kim
Tiền trong nhạc thính phịng cũng từ Nhạc cung đình mà có.
Dàn nhạc thính phịng, nhiều lắm gồm có 6 nhạc khí, ngũ tuyệt tranh, nguyệt,
nhị, tỳ, tam hoặc tranh, nguyệt, nhị, tỳ, độc huyền, thêm ống sáo. Nhã nhạc cũng
loại thính phịng, nhưng nhiều nhạc khí lại có được ba nhạc khí thuộc bộ gõ, đầy
đủ và phong phú hơn.
c) Nhạc Tuồng trong Nhạc cung đình phong phú hơn nhạc Tuồng từ Bình
Ðịnh, hay Quảng Nam vì tại Huế tập trung những nhà viết Tuồng có tên tuổi, các
đào hay kép giỏi từ các nơi.
d) Các điệu múa cung đình có nhiều cá tính rất độc đáo.
Như điệu múa Lân mẫu xuất lân nhi, tuy là múa lân, nhưng không phải loại lân
diễu võ dương oai, đạp pháo, leo cột để đớp tiền, mà trong điệu múa lân của Việt
Nam có tình phu thê đầm ấm, tình mẫu tử nồng nàn.

20


Như điệu múa Lục cúng hoa đăng, phối hợp ánh đèn lung linh với điệu đi uyển
chuyển, đội hình thay đổi từng chập, và khơng có điệu múa nào trên thế giới mà vũ
sinh vừa múa theo tiếng nhạc, lại chuyển đội hình từ bề dọc đến bề cao, vũ sinh
chồng chất đến 4,5 từng. Các chuyên gia Nhựt Bổn, khi ghi hình điệu múa Hoa
đăng cho Ðài NHK, khéo để ánh sáng vừa đủ để thấy mặt mày, xiêm y của diễn

viên, mà thấy cả ánh đèn, khi ẩn, khi hiện rất nghệ thuật.
Rồi đến các điệu múa Tứ linh, Long hổ, Phụng vũ, Phiến vũ, Múa kiếm Trưng
Vương xuất trận, có văn, có võ, có dịu dàng, có oai nghiêm. Ngày xưa còn các điệu
múa Văn, múa Võ phỏng theo Văn Vũ, Võ Vũ có bên Trung quốc, chúng ta đem
dùng trong các lễ Tế Giao, Tế Miếu. Còn những điệu chỉ còn thấy trong sách sử
như:
Múa Liệt vũ khi Thái Hậu lên ngôi
Múa Thanh hoa chi, Hồng hoa chi, Huỳnh hoa chi, khi tặng lễ vật
Múa Tiên đào quả vũ, khi Thái Hậu về cung
Chỉ nhìn qua bề mặt, chưa đi vào bề sâu, mà giá trị Nhạc cung đình đã hiển nhiên.
Chỉ đi chưa hết chiều dài của thời gian lịch sử, chưa đi rộng trong không gian để
đối chiếu nhạc cung đình của chúng ta với Ya yue Trung quốc, Gagaku của Nhựt
Bổn, Ah Ak, Tang Ak, Hyang Ak của Triều Tiên mà ta cũng thấy lòng tràn đầy
niềm hãnh diện.

21


PHẦN III: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY NHÃ
NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ
Nhã nhạc là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến, khởi nguồn dưới
triều nhà Hồ (1400 - 1407) và cực thịnh vào thời Nguyễn (1802 - 1945). Đây là
loại hình âm nhạc thiêng liêng, chỉ dùng trong các dịp đại lễ trang trọng của triều
đình và những cuộc cúng tế thần linh, tổ tiên của triều đại. Theo đánh giá của
UNESCO, trong các thể loại nhạc cổ truyền Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm
vóc quốc gia. Nhã nhạc là một di sản văn hóa đặc sắc của dân tộc, tuy nhiên, trong
thời đại công nghiệp hóa- hiện đại hóa hiện nay, thể loại âm nhạc này đang đứng
trước nguy cơ “bị mất gốc”. Chúng ta cần phải bảo tồn chân giá trị và bản sắc dân
tộc trong “Nhã nhạc”


A.

Bảo tồn và thách thức

22


Việt Nam đã xây dựng một chương trình hành động quốc gia nhằm bảo tồn,
phục hồi và phát huy các giá trị của Nhã nhạc. Chương trình này được UNESCO
lựa chọn và chấp thuận tài trợ, nguồn vốn từ quỹ uỷ thác Nhật Bản và đối ứng của
phía Việt Nam (hơn 300.000 USD). Sau 3 năm thực hiện, dự án đã thu được kết
quả rất khả quan ở nhiều phương diện và được Văn phòng UNESCO tại Hà Nội
đánh giá là mẫu mực trong khu vực về tính hiệu quả. Lo ngại về sự mất dần nghệ
nhân có khả năng trình diễn và hiểu biết về Nhã nhạc, ơng Phùng Phu, Giám đốc
Trung tâm Bảo tồn di tích cố đơ Huế, Phó trưởng ban điều hành dự án cho biết:
“Qua dự án, 20 nhạc công tuổi từ 16-20 đã được đào tạo bài bản. ưu điểm của các
nhạc công trẻ này là ngồi khả năng trình diễn Nhã nhạc, họ cịn được cung cấp
phương pháp luận. Nhờ đó, các em có nền tảng văn hố, hiểu được các giá trị của
di sản để có nghĩa vụ bảo tồn và phát huy tốt hơn”.
Khơng chỉ bảo tồn, dự án cịn quảng bá và phát huy các giá trị của Nhã nhạc
khi thường xuyên tuyên truyền, biểu diễn cho công chúng trong và ngồi nước
thưởng thức. Ngồi ra, dự án cịn tổ chức các buổi nói chuyện có minh hoạ của
giáo sư Trần Văn Khê dành cho học sinh, sinh viên trên địa bàn thành phố nhằm
nâng cao nhận thức của lớp trẻ về Nhã nhạc.
Tuy nhiên, để có thế hệ kế cận xứng đáng, bảo tồn và phát triển Nhã nhạc
một cách bền vững, theo ơng Phu, trước hết, cần có chính sách quản lý bảo tồn đặc
thù dành cho Nhã nhạc, có chế độ ưu đãi đặc biệt đối với các nghệ nhân nhằm
khuyến khích họ đóng góp, truyền đạt kinh nghiệm và bí quyết nghề nghiệp cho
thế hệ trẻ.
Ơng Phu cũng cho biết: “Đội ngũ kế thừa này là các em có năng khiếu và

xuất thân từ gia đình có truyền thống nghệ thuật, am hiểu nhạc cung đình. Bản thân
các em hầu hết đã sử dụng được các nhạc cụ trình diễn”. Lo lắng về đội ngũ kế
thừa, giáo sư Trần Văn Khê cảnh báo về xu hướng biểu diễn vô hồn của nhạc công
Nhã nhạc trẻ tuổi, cũng như xu hướng thêm vào các nhạc cụ, bài bản vốn khơng
phải của Nhã nhạc để tạo sự hồnh tráng, phong phú. “Chúng ta chỉ nên phát triển
Nhã nhạc bằng cách sáng tác những bài bản mới trên cơ sở của giai điệu cũ. Và khi
trình diễn, chúng ta cần công khai, minh bạch cho người nghe biết đâu là nguyên
gốc, đâu là những bài bản được làm mới” - ơng bày tỏ. Nhiều nghệ nhân cũng rất
bất bình khi có nhiều tiết mục bị biến tướng với lối tấu nhạc “cắm đầu mà đánh”,
cịn các nữ vũ cơng “vừa múa vừa cười” trong khi Nhã nhạc cần sự trang trọng.

23


Thách thức đối với những người bảo tồn di sản văn hố của dân tộc và nhân
loại là khơng nhỏ. Vấn đề là cái Tâm và trình độ của những người làm cơng tác
bảo tồn đến đâu. Ơng Phu cho biết, trong thời gian tới, Trung tâm sẽ tổ chức và mở
rộng thêm một số đợt nghiên cứu thực tế tại Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản...
để khai thác, tìm kiếm nguồn tư liệu tại các viện bảo tàng và trên thực tế để bổ
sung nguồn thông tin tin cậy phục vụ công tác nghiên cứu và phục hồi Nhã nhạc
sau này.

B.

Những nỗ lực bảo tồn di sản

Sau năm 1945, Nhã nhạc đã mất khơng gian vốn có của nó và có nguy cơ
mai một dần. Hiện nay Nhã nhạc khơng cịn giữ được diện mạo như xưa, nhưng nó
vẫn có thể là một minh chứng độc đáo về sự sáng tạo văn hóa đặc biệt của dân tộc
Việt Nam. Tuy đã được duy trì và phát triển qua cả nghìn năm, nhưng ngày nay,

các tài liệu lịch sử về Nhã nhạc khơng cịn nhiều, lại phân bố ở nhiều nơi, khơng có
một cơ sở lưu trữ bài bản và hệ thống, các nghệ nhân, người hiểu biết về kỹ thuật
diễn xướng cũng như kiến thức về Nhã nhạc còn q ít ỏi ... thực tế đó đã và đang
đặt ra nhiều vấn đề nan giải và bức xúc về công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị.
Từ sau năm 1975, Chính phủ, Bộ Văn hóa Thơng tin và lãnh đạo của tỉnh
Thừa Thiên Huế đã có nhiều chủ trương, quyết định để bảo tồn loại hình văn hóa
độc đáo này. Trong Quyết định 105/TTg ngày 12-2-1996 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Dự án Quy hoạch Bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đơ Huế 1996 2010, thì một trong những mục tiêu bảo tồn được xác định là: bảo tồn di sản văn
hóa phi vật thể cung đình Huế, trong đó được khẳng định là nhạc cung đình, múa
cung đình, tuồng cung đình và lễ hội cung đình. Từ năm 1992, nhà hát Nghệ thuật
Cung đình Huế thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế ra đời, chuẩn bị các cơ
sở phục vụ cho cơng tác bảo tồn âm nhạc cung đình Huế. Để đảm bảo có khơng
gian diễn xướng tương ứng theo lịch sử, Trung tâm BTDTCĐ Huế đã triển khai tu
bổ các cơng trình như Duyệt Thị Đường, Lương Khiêm Đường, Nam Giao, Thế
Miếu. Bên cạnh đó đã tổ chức nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu liên quan đến
âm nhạc cung đình.
Tháng 3/1994 UNESCO đã phối hợp với Bộ Văn hóa Thơng tin, UBND
tỉnh, Trung tâm BTDTCĐ Huế tổ chức Hội nghị quốc tế về bảo vệ và giữ gìn phục
hồi văn hóa phi vật thể vùng Huế. Tiếp theo là các dự án đào tạo được Bộ Văn hóa

24


Thơng tin, các Quỹ của UNESCO, Chính phủ Nhật Bản ... tài trợ cho các lớp nhạc
công, diễn viên ca múa cung đình.
Tháng 9/1996, Dự án đào tạo Nhã nhạc đầu tiên ở Việt Nam đã được xây
dựng và tổ chức khai giảng tại trường ĐH Nghệ thuật Huế, với 15 sinh viên theo
học các nhạc cụ thuộc dàn Đại nhạc và Tiểu nhạc. Sau đó, năm 1997 - 2000, JFAC
đã tài trợ để tổ chức các hội nghị, tọa đàm về Nhã nhạc với sự tham gia của nhiều
nhà nghiên cứu, nhiều nhà quản lý và đào tạo của nhiều nước như Nhật Bản, Philip-pin, Việt Nam.

Cuối tháng 8/2002, phối hợp với Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam,
Viện Âm nhạc Việt Nam, Trung tâm BTDTCĐ Huế, đã tổ chức Hội thảo Quốc tế
về Âm nhạc cung đình Huế - Nhã nhạc, với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu
trong và ngồi nước nhằm góp phần thúc đẩy cơng cuộc bảo tồn di sản Nhã nhạc.
Bên cạnh đó, nhà hát Truyền thống cung đình Huế đã được thành lập (trực thuộc
Trung tâm BTDTCĐ Huế) bước đầu đã bảo tồn được một số bản nhạc như: 10 bản
Ngự (Phẩm tuyết, Ngun tiêu, Hồ quảng, Liên hồn, Bình bán, Tây mai, Kim
tiền, Xung phong, Long hổ, Tẩu mã), Long đăng, Long ngâm, Tiểu khúc...; các bản
nhạc thường dùng trong dàn Đại nhạc (Tam luân Cửu chuyển, Thái bình Cổ nhạc,
Đăng đàn cung, Phú lục, Tẩu mã, Bông, Mã vũ, Mang, Đăng đàn đơn, Đăng đàn
kép) cùng một số bài bản khác. Sự góp sức của đồn Nghệ thuật Truyền thống Huế
(thuộc Sở Văn hóa Thơng tin và Câu lạc bộ Phú Xn cũng góp phần tích cực vào
việc bảo tồn di sản Nhã nhạc.
Cùng với việc phục hồi các tác phẩm kể trên, Nhà hát Nghệ thuật Cung đình
Huế của Trung tâm BTDTCĐ Huế đã tiến hành biểu diễn phục vụ khách đến Huế
tham quan, nghiên cứu. Tổ chức nhiều đợt tuyên truyền ở các nước Châu Á, Châu
Âu như: Hàn Quốc, Lào, Pháp, Bỉ, Áo, Lucxămbua, đã tham gia tích cực các
chương trình nghệ thuật của Festival Huế 2000, 2002. Đặc biệt từ ngày 01/02 đến
14/02/2004, Nhà hát đã đi biểu diễn Nhã nhạc cung đình tại các thành phố
Montreuil, Arras, Areueil, Lyon, Marseille, thủ đô Paris (thuộc Cộng hịa Pháp) và
thủ đơ Bruxelles (thuộc Vương quốc Bỉ). Trong đợt lưu diễn này, tại văn phòng
UNESCO (Pháp), bằng chứng nhận Di sản Nhã nhạc Việt Nam là Kiệt tác Phi vật
thể và Truyền khẩu của Nhân loại đã được UNESCO trao cho Huế.

C.

Giải pháp phát triển

25



×